MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH VÀ KINH DOANH DU LỊCH 2
I-/ KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ. 2
1-/ Khái niệm: 2
2-/ Động cơ, mục đích và nhu cầu đi du lịch. 2
II-/ KINH DOANH DU LỊCH. 5
1-/ Khái niệm: 5
2-/ Sản phẩm du lịch. 5
3-/ Các nhân tố tác động đến khả năng thu hút khách du lịch quốc tế. 6
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ
ĐẾN VIỆT NAM 10
I-/ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VIỆT NAM. 10
1-/ Giai đoạn từ 1960 đến 30/4/1975. 10
2-/ Giai đoạn từ 1976 đến trước năm 1990, những năm đầu của thời kỳ đổi mới. 11
3-/ Giai đoạn từ 1990 đến nay. 12
II-/ NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH QUỐC TẾ ĐẾN VIỆT NAM 13
III-/ THỰC TRẠNG VÀ ĐIỀU KIỆN THU HÚT KHÁCH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC. 17
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG
THU HÚT KHÁCH DU LỊCH ĐẾN VIỆT NAM 22
1-/ Củng cố bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch: 22
2-/ Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm: 22
3-/ Xác định khu vui chơi giải trí thu hút khách đến và ở lại lâu hơn: 22
4-/ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác du lịch theo một tiêu chuẩn quy định thống nhất. 23
5-/ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam: 23
6-/ Cần phải phát triển du lịch Việt Nam theo hướng bền vững. 23
KẾT LUẬN 25
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2163 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trị và an toàn xã hội.
Không khí chính trị hoà bình bảo đảm cho việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá và chính trị giữa các dân tộc. Trong phạm vi các mối quan hệ kinh tế quốc tế, sự trao đổi du lịch quốc tế ngày càng phát triển và mở rộng. Du lịch nói chung, du lịch quốc tế nói riêng chỉ có thể phát triển được trong bầu không khí hoà bình, ổn định trong tình hữu nghị giữa các dân tộc sự phát triển của du lịch sẽ gặp khó khăn nếu đất nước xảy ra những sự kiện làm xấu đi tình hình chính trị hoà bình và trực tiếp hoặc gián tiếp đe doạ sự an toàn của khách du lịch. Đó là những biến cố như: đảo chính, bất ổn chính trị, nội chiến... Những nhân tố này ảnh hưởng rất xấu đến số lượng do khách đi du lịch. Chiến tranh, nội chiến là những cản trở lớn nhất đến hoạt động du lịch, làm cho việc đi lại của khách bị đình chỉ, giao thông ngừng trệ, CSVCKT của du lịch bị tàn phá và sử dụng và mục đích phục vụ chiến tranh.
b, Điều kiện kinh tế.
Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch.
Khi nói đến nền kinh tế của đát nước, không thể không nói đến giao thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính đối với sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Như vậy giao thông vận tải có ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút khách du lịch, sự phát triển về mặt số lượng và chất lưọng của các phương tiện vận tải sẽ làm cho hoạt động du lịch trở nên tiện lợi và mềm dẻo, có khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu của du khách.
c, Chính sách phát triển du lịch.
Chính sách của chính quyền có vai trò như thế nào đến sự phát triển du lịch? Hiện nay trên thế giới hầu như không có một nơi nào không tồn tại một bộ máy quản lý xã hội. Rõ ràng rằng bộ máy quản lý này có vai trò quyết định đến các hoạt động của cộng đồng đó. Hoạt động du lịch không nằm ngoài quy luật ấy. Một đất nước, một khu vực có tài nguyên du lịch phong phú, mức sống cảu người dân không thấp nhưng chính quyền địa phương không yểm trợ cho các hoạt động du lịch thì hoạt động này cũng không thể phát triển được.
d, Điều kiện quan trọng nhất ảnh hưởng đến thu hút khách du lịch là điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
d1, Điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch thiên nhiên.
Trước hết, các hợp phần tự nhiên là điều kiện cần thiết cho hoạt động du lịch. Mặt khác trong những trường hợp cụ thể, một số tính chất của các hợp phần đó có sức hấp dẫn du khách và do vậy chúng được trực tiếp khai thác vào mục đích kinh doanh du lịch nên trở thành tài nguyên du lịch tự nhiên. Các hợp phần tự nhiên (địa lý) đó là địa hình, khí hậu, thuỷ văn, thực động vật...
+ Ví trí địa lý:
Khoảng cách từ nơi du lịch đến các nguồn khách du lịch có ý nghĩa quan trọng đối với nước nhận khách du lịch. Nếu nước nhận khách ở xa điểm gửi khác điều đó có ảnh hưởng đến khách trên ba khía cạnh chính. Thứ nhất, do khách phải chi thêm tiền cho việc đi lại vì khoảng cách xa. Thứhai, do khách phải rút ngắn thời gian lưu lại ở nơi du lịch vì thời gian đi lại mất nhiều. Thứ ba, du khách phải hao tốn quá nhiều sức khoẻ cho đi lại.
Trong một số trường hợp, khoảng cách xa từ nơi đón khách đến nơi gửi khách lại có sức hấp dẫn đối với một vài loại khách có khả năng thanh toán cao và có tính hiếu kỳ vì sự tương phản, khác lạ giữa điểm du lịch và điểm nguồn khách.
+ Địa hình:
Địa hình là một trong những yếu tố góp phần tạo nên phong cảnh và sự đa dạng của phong cảnh ở nơi đó. Đối với du lịch địa hình càng đa dạng, tương phản và độc đáo càng có sức hấp dẫn du khách. Khách du lịch thường ưa thích những nơi nhiều đồi núi và đối với nhiều người, địa hình đồng bằng thường không hấp dẫn họ vì tính đơn điệu của nó. Trong các kiểu địa hình, kiểu địa hình núi và hang động địa hình bờ nước là những tài nguyên du lịch rất có giá trị. Ngành du lịch thế giới đã đưa vào khai thác hàng ngàn hang động, thu hút khoảng 3% tổng số du khách toàn cầu.
+ Khí hậu:
Những nơi có khí hậu ôn hoà thường được du khách ưa thích. Mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau. Ví dụ du khách đi nghỉ biển mùa hè thường chọn những dịp không mưa, nắng nhiều nhưng không gắt, nước mắt, gió vừa phải.
Trong các yếu tố của khí hậu, nhiệt độ và độ ẩm có liên quan chặt chẽ với nhau và có ảnh hưởng chính đến cảm giác của con người. Các nhà khoa học đã xác lập được một số chỉ tiêu gọi là chỉ tiêu sinh khí hậu để đánh giá mức độ thuận lợi về mặt khí hậu đối với hoạt động du lịch ở các nơi.
+ Thủy văn:
Nước là một yếu tố không thể thiếu được để duy trì sự sống của con người. Gương nứoc rộng lớn không những tạo ra một bầu không khí trong lành mà còn có tác động rất tốt đối với sức khoẻ con người. Chính vì vậy không ít nơi trên thế giới mọc lên những khu du lịch nghỉ dưỡng ven hồ, ven biển thu hút một số lớn du khách từ mọi miền đất nước.
+ Thế giới động thực vật.
Ngày nay con người thường phấn đấu để cuộc sống của mình ngày càng đầy đủ về tiện nghi. Để đạt được mục đích áy họ đã làm cho cuộc sống của mình ngày càng xa rời thiên nhiên. Trong khi đó, với tư cách là một thành tạo của thiên nhiên, con người lại muốn quay trở về với thiên nhiên đang trở thành một xu thế và nhu cầu phổ biến. Như vậy thế giới động thực vật hoang dã đang ngày càng hấp dẫn và thu hút nhiều du khách. Những động thực vật không có ở nước họ thường có sức hấp dẫn mạnh nhiều loại động vật có thể là đối tượng cho săn bắt du lịch.
d2, Tài nguyên du lịch nhân văn:
Giá trị văn hoá lịch sử, các thành tựu chính trị và kinh tế có ý nghĩa đặc trưng cho sự phát triển của du lịch ở một địa điểm, một vùng hoặc một đất nước. Chúng có sức hấp dẫn đặc biệt với số đông khách du lịch với nhiều nhu cầu và mục đích khác của chuyến du lịch.
Các tài nguyên có giá trị lịch sử có sức thu hút đặc biệt đối với du khách có trình độ cao, ham hiểu biết.
Tương tự như các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị văn hoá cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Trong số các tài nguyên này phải kể đến các viện khoa học, các trường Đại học, các thư viện lớn và nổi tiếng... Các tài nguyên có giá trị văn hoá thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứ mà còn thu hút đa số khách đi du lịch với các mục đích khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau và từ nơi khác nhau đến. Hầu hết tất cả khách du lịch ở trình độ văn hoá trung bình đều có thể thưởng thức các giá trị văn hoá của đất nước đến thăm.
Chương II
Thực trạng thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
I-/ Khái quát về hoạt động du lịch ở Việt Nam.
Tài nguyên du lịch của Việt Nam khá phong phú và đa dạng. Ba phần tư lãnh thổ đất nước là núi đồi với nhiều cảnh quan ngoạn mục, những cánh rừng nhiệt đới với nhiều loài cây cỏ, chim muông, những hệ thống sông hồ tạo nên các bức tranh thủy mặc sinh động... Năm mươi tư dân tộc anh em sinh sống trên cả nước có những phong tục, tập quán khác lạ... Tất cả có sức hấp dẫn mạnh mẽ với những ai ưa khám phá đất nước Việt Nam. Mặt khác do nằm ở vĩ độ thấp nên hầu như quanh năm ở nước ta đều có điều kiện khí hậu thuận lợi cho hoạt động ngoài trời. Dựa trên những điều kiện kể trên có thể khẳng định rằng hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng trở nên rõ nét hơn trong thời kỳ đô hộ của Pháp. Hàng loạt biệt thự, nhà nghỉ được xây dựng ven các bãi biển, vòng hồ hay vùng núi, nơi có khí hậu dễ chịu như: Đồ Sơn, Vũng Tàu, Đà Lạt...
Nhưng, ngành du lịch, chủ thể của doanh nghiệp Việt Nam mới ra đời cách 40 năm (1960 - 2000). Với 40 năm hình thành và phát triển, tuy đã có nhiều cố gắng để vượt qua những khó khăn, trở ngoại như tình trạng đất nước bị chia cắt, chiến tranh, cấm vận... nhưng ngành du lịch Việt Nam vẫn chưa thực sự chiếm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế đất nước.
Từ sau Đại hội VI đến nay, ngành du lịch Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh và trở thành một lĩnh vực kinh doanh đầy hấp dẫn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế và là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và trong nước. Bằng việc xem xét lại quá trình hình thành và phát triển của du lịch Việt Nam chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quan về những bước tiến mà đã đạt được cũng như hiện trạng của ngành.
1-/ Giai đoạn từ 1960 đến 30/4/1975.
Với nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ, công ty du lịch Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Là một công ty trực thuộc Bộ Ngoại thương nhưng nhiệm vụ cơ bản là phục vụ các đoàn khác của Đảng và Chính phủ. Nhưng về mặt ý nghĩa, tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Chính vì vậy ngày 9/7 được xem là ngày thành lập ngành du lịch Việt Nam.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch đã xuất hiện nhằm giảm bớt những khó khăn về tài chính, ngày 16/3/1963 Bộ trưởng Bộ Ngoại thương đã ra quyết định giao cho công ty du lịch Việt Nam làm nhiệm vụ kinh doanh nhằm thu thêm ngoại tệ cho đất nước.
Số lượng du khách quốc tế vào Việt Nam giai đoạn 1960 - 1975
Năm
Số khách quốc tế
Năm
Số khách quốc tế
1960
6.130
1970
18.160
1961
7.630
1971
12.080
1962
8.070
1972
15.860
1963
8.790
1973
19.320
1964
10.780
1974
26.820
1965
11.850
1975
36.910
Nguồn: Bộ Nội vụ - 1979
Ngày 18/8/1969 ngành du lịch được chuyển sang chịu sự quản lý trực tiếp của phủ Thủ tướng. Để đảm bảo an ninh quốc gia và an toàn cho du khách, ngày 12/9/1969 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 95 TTg giao cho Bộ Công An nhiệm vụ thời gian quản lý ngành du lịch. Để đáp ứng nhiệm vụ phát triển của ngành trong tình hình mới của đất nước, ngành du lịch Việt Nam đã đầu tư xây dựng một số tuyến điểm du lịch quan trọng, thành lập xí nghiệp xe, công ty vật tư dịch vụ du lịch và một số bộ phận chuyên môn... chuyên phục vụ các chuyên gia và khách du lịch nước ngoài.
2-/ Giai đoạn từ 1976 đến trước năm 1990, những năm đầu của thời kỳ đổi mới.
Căn cứ Nghị quyết 262 NQQHK6 ngày 27/6/1978 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội phê chuẩn việc thành lập Tổng cục du lịch. Thủ tướng chính phủ đã ban hành Nghị định 32/CP ngày 23/1/1979 quyết định chính thức thành lập Tổng cục du lịch Việt Nam. Sự ra đời của Tổng cục du lịch Việt Nam đã tạo ra bước ngoặt lớn trong sự chỉ đạo của Nhà nước đối với hoạt động du lịch Việt Nam.
Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú và là một lĩnh vực không thể thiếu được trong ngành du lịch. Trước thực tế đó, Hội đồng Bộ Trưởng đã ra quyết định 01/HĐBT ngày 3/1/1983 giao cho Tổng cục Du lịch Việt Nam trực thuộc kinh doanh du lịch trong cả nước. Tuy nhiên ngành du lịch Việt Nam lúc này chưa phát huy hết tiềm năng của mình và của đất nước, hiệu quả sử dụng CSVCKT còn thấp.
Hoạt động du lịch quốc tế giai đoạn 1980 đến trước 1990
Chỉ tiêu
1980
1985
1986
1987
1988
1989
Du lịch quốc tế
Số khách
41.110
50.830
54.353
73.283
110.390
187.573
Doanh thu ngàn rúp/đô la Mỹ
-
-
170
280
340
420
Nguồn: Bộ Nội Vụ Bộ Thương Mại và du lịch 1990
3-/ Giai đoạn từ 1990 đến nay.
Trong quá trình tinh giảm biên chế, rút gọn bộ máy tổ chức, ngày 31/3/1990, căn cứ quyết định số 224 của Hội đồng Nhà nước, Tổng cục du lịch Việt Nam được sát nhập với một số cơ quan khác thành Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và du lịch. Thêm vào đó năm 1990 được chọn là năm du lịch Việt Nam đã góp phần thúc đẩy một cách đáng kể hoạt động nước nhà. Nhờ vậy hoạt động kinh doanh du lịch đã được mở ở nhiều ngành, nhiều cơ quan, không chỉ trong phạm vi các thành phần kinh tế Nhà nước mà còn ở cả những thành phần kinh tế khác. Trước xu thế đó, du lịch không chỉ còn được coi là một hoạt động văn hoá xã hội thuần tuý mà còn là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Trên cơ sở coi du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, ngày 12/8/1991 ngành du lịch được tách khỏi Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và du lịch để sát nhập vào Bộ Thương mại - du lịch. Tuy nhiên bản chất của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế cho nên công tác tổ chức, quản lý vẫn còn một số vướng mắc nhất định. Hiệu quả hoạt động du lịch vẫn chưa đồng bộ. Thấy được những nguyên nhân đó, ngày 26/10/1992 Chính phủ đã ra Nghị định số 05/CP về việc thành lập Tổng cục du lịch như một cơ quan độc lập ngang Bộ. Tiếp theo đó, ngày 27/12/1992, Chính phủ ra tiếp Nghị định 20/CP quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch Việt Nam. Mười bốn Sở du lịch được thành lập ở các tỉnh có tài nguyên du lịch phong phú nhất và hoạt động du lịch sôi nổi nhất. Sau thời điểm này ngành du lịch Việt Nam đã thực sự có những chuyển biến đáng kể. Số lượng khách, kể cả khách quốc tế và nội địa tăng lên nhanh chóng. Chúng ta thật đáng tự hào cho con số 1.018 nghìn du khách quốc tế 1994. Thu nhập du lịch tăng bình quân tròn 60%/năm. Không những thế, hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng được đẩy mạnh. Nhiều hội thảo quốc gia, quốc tế về du lịch được tổ chức đã thực sự tích cực góp phần thúc đẩy sự phát triển du lịch Việt Nam trong giai đoạn này.
Cùng với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với du lịch là một tiền đề hết sức quan trọng cho những đổi mới của ngành.
Như vậy, có thể tin tưởng rằng, trong tương lai không xa, du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xúng đáng trong xã hội và nền kinh tế nước nhà.
hoạt động của du lịch Việt Nam giai đoạn 1990 - 1998
Năm
Khách quốc tế
Khách nội địa
Thu nhập từ du lịch
Số lượng (nghìn lượt)
Tốc độ tăng trưởng %
Số lượng (nghìn lượt)
Tốc độ tăng trưởng %
Số lượng (nghìn lượt)
Tốc độ tăng trưởng %
1990
250
22,0
1000
50,0
650
24,6
1991
330
33,3
1500
33,3
810
66,7
1992
440
52,3
2000
35,0
1350
85,2
1993
670
51,9
2700
11,1
2500
60,0
1994
1018
33,2
3500
83,3
4000
75,0
1995
1356
18,5
5500
18,2
7000
35,7
1996
1607
6,8
6500
30,8
9500
12,3
1997
1716
8500
47,4
10670
31,1
1998
1520
9500
14000
1999
1780
10000
15600
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch, 1998
II-/ Nghiên cứu thị trường khách du lịch quốc tế đến Việt Nam
Ngày nay du lịch là một trong những nhu cầu của thế giới hiện đại, nhưng không phải ai có nhu cầu cũng có khả năng đi du lịch. Vì vậy một trong những nhiệm vụ chính của ngành du lịch về nghiên cứu thị trường là xác định thị trường và định hướng thị trường mục tiêu để tiến hành chiến dịch xúc tiến, quảng bá nhằm thu hút khách có hiệu quả.
ở Việt Nam chúng ta trong thời gian qua thị trường khách du lịch quốc tế chiếm chủ yếu là các nước.
Đơn vị tính: lượt khách
Năm
Quốc tịch
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Đài Loan
69.960
109.880
185.276
225.428
174.400
154.440
Nhật Bản
19.360
34.170
67.188
120.862
118.400
121.836
Pháp
18.920
54.940
111.980
118.146
73.600
66.924
Mỹ
14.520
26.800
151.682
58.394
43.200
41.184
Anh
6.600
20.100
39.72
52.962
40.000
44.616
Hồng Kông
14.080
17.420
24.432
21.728
14.400
10.296
Thái Lan
10.560
16.080
23.414
23.086
19.200
18.876
Trung Quốc
2.640
9.380
14.252
62.468
376.000
404.976
Việt Kiều
80.960
152.760
194.438
262.094
196.800
272.844
Khác
202.400
228.470
205.636
412.832
544.000
580.008
Nguồn: Tổng cục du lịch, Vụ xuất nhập cảnh, Bộ Công an.
Qua bảng số liệu trên nhận thấy lượng khách du lịch từ các quốc tịch khách nhau đến Việt Nam không ổn định. Một số nước trong khu vực như Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông, Thái Lan lượng khách đang có xu hướng giảm dần. Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên ? chúng ta biết rằng kể từ sau những năm 1990 các nước nói trên đã dần trở thành một trong những cường quốc kinh tế mạnh nhất trong khu vực, trong đó Nhật Bản là nước có tiềm lực kinh tế mạnh đứng thứ 2 trên thế giới với mức thu nhập bình quân đầu người tương đối cao, thì nhu cầu đi du lịch của các nước này cũng tăng lên. Ta có số lượng khách đi du lịch nước ngoài của các nước (cần nghiên cứu) trong năm 1996.
Quốc gia
Chi phí (triệu USD)
Lượng khách (triệu lượt khách)
Mỹ
48,739
40
Nhật Bản
37,040
30,38
Anh
22,445
20,8
Pháp
17,746
14,57
Đài Loan
6,493
5,27
Trung Quốc
4,919
3,72
Thái Lan
4,474
3,4
Nguồn: WTO
Như vậy, lượng cầu về du lịch của các nước này tăng nhưng do khách các nước này đến Việt Nam lại giảm là do:
- Có sự thay đổi và phát triển của cầu du lịch: khách du lịch ngày càng có nhu cầu lớn hơn, đa dạng và chuyên sâu hơn. Cho nên sản phẩm du lịch phải đa dạng, liên tục phát triển và ngày càng tinh tế hơn. Sản phẩm du lịch phải được quảng bá thông qua một hình ảnh hoặc một thông điệp cụ thể được thực hiện bằng một nỗ lực xúc tiến mạnh mẽ để dẫn tới nhu cầu về sản phẩm đó.
Sự tiến bộ vượt bậc của viễn thông và công nghệ thông tin trong thời gian qua đã có tác dụng tích cực đến nhiều mặt của nền kinh tế - xã hội, đặc biệt làm cho nhu cầu du lịch có điều kiện phát triển nhanh chóng.
- Xu thế phát triển của cung du lịch trên thị trường thế giới:
+ Giữa các nước và các khu vực trên thế giới đều có sự cạnh tranh gay gắt để thu hút khác.
+ Cung du lịch ngày càng mở rộng về mặt địa lý, đa dạng về chủng loại và đạt mức độ dư thừa: CSVC, trang thiết bị du lịch ngày càng hiện đại hoá, quy trình công nghệ được quốc tế hoá dần.
+ Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch thay đổi cách tiếp thị: Do du khách đòi hỏi thông tin ngày càng phải được chi tiết cụ thể hơn nên quảng cáo đơn thuần không còn đủ sức thuyết phục khách hàng nữa. Vai trò của các văn phòng đại diện du lịch nước ngoài vì thế ngày càng trở nên rất quan trọng.
Mà du lịch Việt Nam lại chưa bắt nhịp với xu thế phát triển du lịch chung của thời đại. Chưa có đại diện du lịch Việt Nam ở nước ngoài, chưa có chiến lược và kế hoạch cụ thể về Marketing du lịch Việt Nam như một điểm đến du lịch quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm tới thị trường khách du lịch tiềm năng vẫn phải là các nước trong khu vực Châu á như ông G.Lip Man, chủ tịch hội đồng du lịch thế giới đã khẳng định trong những năm đầu thế kỷ 21 Châu á sẽ có chứng 500 triệu người phụ thuộc giới trung lưu có đủ điều kiện đi du lịch. Nhưng số khách du lịch trung lưu này số tiền dành cho du lịch chưa nhiều, mặt khác còn có động cơ kết hợp tìm hiểu cơ hội kinh nghiệm làm ăn nên phần lớn số du khách đó chỉ mới đủ điều kiện đi du lịch trong phạm vi Châu á mà chưa chọn đi Châu Âu, Bắc Mỹ, hoặc Trung Đông.
Cho nên đây là cơ hội hiếm có, Việt Nam cần chớp lấy thời cơ đồng thời cần chuẩn bị mọi lực lượng cần thiết và có những chính sách cụ thể phù hợp với chính sách thị trường du lịch. Đối với khu vực Châu á phải được khẳng định như là một xu hướng ưu tiên hàng đầu. Trong đó chúng ta cần phải chú ý đến hai đối tượng khách chính là Trung Quốc và Nhật Bản.
Ngoài ra trong năm qua ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tham gia nhiều hội thảo, hội nghị diễn đàn du lịch quốc tế về du lịch ở nước ngoài. Tổng cục du lịch đã làm đầu mối tổ chức cho một số doanh nghiệp liên hiệp quốc tế và khách sạn tham gia các hội chợ du lịch và diễn đàn quốc tế ở những thị trường trọng điểm như hội chợ ITB (Berlin Đức), SALON, TOP, RESA, DOVIN (Pháp), JATA (Nhật Bản) một số hội chợ ở Trung Quốc và các nước ASEAN khác... Ngoài ra các doanh nghiệp còn tham gia các hội chợ như WTM (London, Anh) một số hội chợ tại Pháp, Mỹ, Italia, Hà Lan... việc tổ chức tham gia các hội chợ quốc tế đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch thâm nhập thị trường du lịch thế giới, tiếp cận trực tiếp với khách hàng, trao đổi ký kết các hội đồng đưa đến khách với các hãng du lịch nước ngoài, thu hút và tổ chức nguồn khách ngày càng lớn tới du lịch Việt Nam.
Mục tiêu trong những năm tới du lịch Việt Nam cần xác lập chỗ đứng tại các thị trường trọng điểm: Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, các nước Đông Bắc á, các nước Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và một số vùng Trung Đông.
Như vậy du lịch Việt Nam mới thu hút được sự chú ý của khách du lịch Châu Âu và Bắc Mỹ.
Trong đó Pháp với số lượng khách du lịch đến Việt Nam tương đối ổn định và với những quan hệ hợp tác ngày càng tiến triển tốt đẹp giữa ta và Pháp như:
1/1996 Việt - Pháp đã ký kết hiệp định hợp tác du lịch.
Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao 7 các nước nói tiếng Pháp trong năm 1997 và gần đây nhất Pháp đã tài trợ cho Festival du lịch Huế 2000.
Do đó phải tăng cường khai thác thị trường du lịch Pháp, coi là một trong những thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam hợp tác chặt chẽ với các hãng lữ hành Pháp để tăng cường thêm khách đến Việt Nam.
Ngoài ra cần phải đẩy mạnh thu hút khách từ các thị trường như: Mỹ, Anh, Đức.
Tuy số lượng khách Việt Kiều trở về nước hàng năm với một số lượng tương đối lớn. Nhưng chúng ta không đặt mục tiêu đây là thị trường tiềm năng. Bởi vì đối tượng khách này trở về nước đa số chỉ nhằm mục đích thăm thân hoặc thương mại, họ ít khi tiêu dùng sản phẩm du lịch của chúng ta.
Từ những nghiên cứu trên chúng ta có thể dự đoán số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam từ nay đến năm 2010 là:
Năm
Số lượng khách du lịch
Lưu trú bình quân (ngày)
Doanh thu (triệu đồng)
2000
3.800.000
5,0
1.330
2005
6.200.000
5,5
4.092
2010
8.700.000
6,0
8.352
Nguồn: Tổng cục du lịch
III-/ Thực trạng và điều kiện thu hút khách quốc tế ở Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Năm 1998, theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) cả thế giới có 625,171 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tốc độ tăng trưởng trung bình là 2,37% và doanh thu từ khách du lịch quốc tế đạt tới con số 444,943 tỷ USD.
Trong đó Châu Âu với mức tăng trưởng bình quân 3,6% về khách thấp hơn so với khu vực Châu á (6%), Châu Mỹ (4%), Trung Đông (10%), nhưng vẫn là khu vực thu hút nhiều khách quốc tế nhất thế giới, chiếm khoảng 57% số khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích kinh tế và du lịch thế giới thì từ đầu thế kỷ 21, bức tranh du lịch và kinh tế du lịch sẽ có nhiều thay đổi. Căn cứ vào tình hình phát triển du lịch trên thế giới trong thời gian qua và xu hướng di chuyển của du khách, các nhà nghiên cứu du lịch đã cho rằng 100 năm trước là thời kỳ của Địa Trung Hải, thế kỷ 20 là thời kỳ của Đại Tây Dương và thế kỷ 21 là thời kỳ của Châu á - Thái Bình Dương.
Như vậy, nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi ngôi thứ du lịch giữa các khu vực và từ Châu Âu chuyển dần sang Châu á ? đó là:
- Từ nhu cầu rời khỏi nhà máy, công xưởng, đi nghỉ cuối tuần nhằm thư giãn phục hồi sức khoẻ thì nay đã chuyển sang các hình thức nhu cầu du lịch mới: nghiên cứu khai phá những gì chưa biết để cùng nhau thưởng ngoạn và thư giãn trong một khung cảnh thiên nhiên đầy ấm áp, vui tươi, trong lành, kỳ thú và mới lạ. Mà Châu á lại đang là nơi thiên đàng của nhu cầu du lịch loại này.
- Châu á được coi là khu vực có nền kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao và phát triển mạnh nên gây sự chú ý hấp dẫn đối với du khách.
- Chính sách mà hầu hết các quốc gia Châu á đang theo đuổi là hoà bình và hợp tác phát triển. Đây là điều kiện đảm bảo cho mọi hoạt động du lịch phát triển.
- Tiềm năng du lịch các nước Châu á rất phong phú, hấp dẫn, trong khi hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội du lịch ngày càng được cải thiện và phát triển mạnh không còn trở ngại đối với lưu thông liên kết du lịch giữa Châu á và thế giới.
Việt Nam là một nước thuộc Châu á. Đây là một cơ hội hiếm có, cần chớp lấy thời cơ, đồng thời chuẩn bị mọi lực lượng cần thiết và có những chính sách cụ thể phù hợp để biến Việt Nam trở thành cái nôi của du lịch Châu á.
Ngoài ra, ở Châu á, khu vực các nước Đông Nam á (ASEAN) du lịch đã trở thành một trong những ngành công nghiệp chủ đạo. Trước cuối những năm 1960, du lịch còn chưa có vai trò lớn trong ngành kinh tế quốc dân của các nước Đông Nam á. Bắt đầu từ những năm 1970 - 1980 do giá tour đến các nước ASEAN tương đối ổn định và do mức thu nhập trong các nước gửi khách chính tăng lên đã dẫn đến hiện tượng tăng đáng kể số lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực.
Đặc biệt 1980 - 1990 tốc độ tăng bình quân về khách du lịch quốc tế của các nước ASEAN đạt 10,6% và thời kỳ 1988 - 1997 tốc độ gia tăng đạt 8,8%/năm.
Sự phát triển du lịch của các nước Đông Nam á.
Năm
Lượng khách quốc tế (ngàn người)
Doanh thu (triệu USD)
Năm
Lượng khách quốc tế (ngàn người)
Doanh thu (triệu USD)
1980
8.233
3.161
1993
24.135
19.515
1985
9.924
4.721
1994
27.135
23.821
1990
21.469
14.440
1995
29.173
27.946
1991
20.210
14.164
1996
30.990
29.886
1992
21.812
17.247
1997
31.378
30.276
Nguồn: WTO
Nếu năm 1987 tỷ phần du lịch quốc tế các nước Đông Nam á chỉ chiếm 3,54% thì năm 1996 du lịch ASEAN đã chiếm 5,17% trong tổng thị phần du lịch thế giới.
Thị phần du lịch ASEAN năm 1997
TT
Nước
Số khách quốc tế (000)
Tỷ phần (%)
1996
1997
1
Thái Lan
7.192
7.263
23,4
2
Malaysia
7.138
7.200
23,0
3
Singapore
6.603
6.542
21,0
4
Indonesia
4.324
596
16,0
5
Philippin
2.049
2.223
7,0
6
Việt Nam
1.618
1.716
5,1
7
Bruney
860
2,7
8
Lào
403
500
1,5
9
Myanma
164
185
0,6
Nguồn: WTO
Còn đối với Việt Nam chúng ta, tuy n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 67145.doc