Đề tài Những giải pháp hoàn thiện trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương I: Những lý luận chung về vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp - giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các DNNN hiện nay 3

I- Những khái niệm chung về cổ phần hoá doanh nghiệp 3

1. Cổ phần hoá DNNN. 3

2. Công ty cổ phần 3

II. Hiệu quả sử dụng lao động và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động 5

1. Hiệu quả sử dụng lao động 5

2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động 5

3. Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động 9

III. Vai trò của cổ phần hoá doanh nghiệp về việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động 9

IV. Các chủ trương- chính sách cổ phần hoá DNNN 10

1. Mục tiêu cổ phần hoá 10

2. Đối tượng cổ phần hoá 10

3. Đối tượng bán cổ phần và mức khống chế 11

4. Hình thức cổ phần hoá 11

5. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp và người lao động 12

 

Chương II: Phân tích thực trạng việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá 15

I. Đặc điểm của các DNNN 15

1. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa 15

2. Trong cơ chế thị trường 16

II. Thực trạng việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các DNNN đã cổ phần hoá 17

1. Những lợi ích đã đạt được 18

2. Những mặt còn tồn tại 24

 

Chương III: Những giải pháp hoàn thiện trong quá trình cổ phần hoá DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động 26

I- Chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá 26

1. Chính sách về BHXH 26

2. Chế độ trợ cấp thôi việc 27

3. Chế độ trợ cấp mất việc làm 27

4. Các chính sách khác 28

5. Về đảm bảo việc làm 28

6. Về bảo đảm tiền lương và thu nhập 28

7. Tạo điều kiện để người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp. 29

8. Chính sách đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực 30

II. Giải pháp hoàn thiện. 30

1. Lao động dôi dư 30

2. Lao động tuyển mới và lao động trong doanh nghiệp 32

 

Kết luận 33

Danh mục tài liệu tham khảo 34

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp hoàn thiện trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hí điểm cổ phần hoá 10 doanh nghiệp, năm 1996 CP đã có NĐ 28/CP về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Năm 1997-1998 có trên 300 DNNN đã cổ phần hoá. Theo báo cáo của ban đổi mới quản lý DNNN cuối năm 2000 có 600 DNNN được cổ phần hoá và năm 2001 có thêm 345 DNNN cổ phần hoá, năm 2002 có thêm 374 DNNN. Đây là chủ trương lớn để huy động vốn, chuyển dần quyền sở hưũ cho người lao động. Nó không phải là tư nhân hoá như đang tiến hành ồ ạt ở Đông Âu mà là đảm bảo cho được quyền làm chủ thực sự của người lao động, dưới hình thức góp cổ phần, mua cổ phiếu và được Nhà nước để lại một phần trong các quỹ làm vốn cổ phần. Cổ phần hoá không chỉ là chủ trương đúng đắn mà còn mang tính nhân đạo của định hướng XHCN nhằm đảm bảo cho người lao động sau khi đã có thời gian cống hiến cho doanh nghiệp có quyền được hưởng một nguồn vốn để mà làm chủ, và có quyền chuyển nhượng cho con cái hoặc bán đi khi có thị trường chứng khoán. Nền kinh tế bao cấp đã quá ăn sâu vào trong nếp nghĩ của từng người lao động. Phải đoạn tuyệt với cánh nghĩ "cha chung không ai khóc", tất cả mặc Nhà nước lo. Bởi vậy, cổ phần hoá là giải pháp lâu dài trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Không chỉ giữ lại tài sản, mà tài sản đó phải thực sự do người lao động "tự quản" thông qua hệ thống pháp luật của Nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. IV. Các chủ trương- chính sách cổ phần hoá DNNN 1. Mục tiêu cổ phần hoá Tháng 4/1992, Bộ tài chính trình CP 5 mục tiêu CP chỉ giữ lại 3 mục tiêu( như QĐ 202/CT ngày 8/6/1992). Ngày 7/5/1996, CP đã ban hành NĐ 28/CP, xác định 2 mục tiêu cổ phần hoá. Hai mục tiêu này nhằm giải quyết 2 vấn đề quan trọng nhất, bức bách nhất đối với các DNNN: vốn và động lực hoạt động (đối với doanh nghiệp và người lao động ). Vốn là huy động được nhiều vốn ở trong nước và nước ngoài để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và phát triển của các DNNN và vai trò làm chủ thực sự của người lao động - phải trở thành cổ đông.(Điều 1- NĐ 28/CP) 2. Đối tượng cổ phần hoá Theo QĐ 202/CT (8/6/1992) thì các DNNN có đủ 3 điều kiện sau đây thì có thể cổ phần hoá: - Có quy mô vừa - Đang kinh doanh có lãi hoặc trước mắt đang gặp khó khăn nhưng có triển vọng sẽ hoạt động tốt - Không thuộc diện những doanh nghiệp cần phải giữ 100% vốn đầu tư của cả nước NĐ 28/CP đã sửa đổi điều kiện 2 thành " có phương án kinh doanh có hiệu quả" (Điều7) 3. Đối tượng bán cổ phần và mức khống chế QĐ 202/CT (8/6/1992) và chỉ thị 84-TTg (4/3/1993) quy định bán cổ phần cho 4 đối tượng với mức khống chế chỉ đạo trong thực tế như sau: - Cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp được mua từ 20-30% tổng giá trị doanh nghiệp). + Mỗi pháp nhân trong nước ( các tổ chức kinh tế xã hội) được mua không quá 10% ( doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân). + Mỗi cá nhân trong nước được mua không quá 5%. + Nước ngoài (cá nhân và pháp nhân) được mua không quá 30%. Riêng đối với các cá nhân và pháp nhân nước ngoài, trên thực tế là chưa bán. Những quy định trên đây là căn cứ vào thông lệ quốc tế và tình hình cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, qua thực tế chúng ta thấy cần tăng cường mức khống chế đối với một số đối tượng (cá nhân hoặc pháp nhân) có tín nhiệm, có vốn lớn, công nghệ tiên tiến (đưa vào góp vốn), có kiến thức và kinh nghiệm quản lý tốt. Có như vậy thì sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp mới có thể có bộ mặt mới, phong cách mới, khả năng phát triển mới,... 4. Hình thức cổ phần hoá Hình thức cổ phần hoá trước NĐ 28/CP quá đơn điệu nên ít nhiều hạn chế tốc độ cổ phần hoá (chỉ có một hình thức duy nhất là bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp). NĐ 28/CP cho phép cổ phần hoá theo 3 hình thức: - Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo quy định ( NĐ 120/CP ngày 17/9/1994) nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. - Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp ( QĐ 202/CT). - Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hóa. Hình thức cổ phần hoá thứ nhất có nhiều ưu điểm và Trung Quốc đã thực hiện thành công. Tuy vậy, muốn áp dụng được hình thức này doanh nghiệp cổ phần hoá phải có độ tin cậy cao được xác định do có truyền thống làm ăn nghiêm chỉnh, kinh doanh có lãi, và có phương án cổ phần hoá triển vọng và khả thi. Bởi vì, hình thức này không phải là bán "cái hiện có" (như hình thức 2) mà là bán "cái tương lai". Mà tương lai thì không dễ trông thấy và không phải ai cũng hiểu được. Tóm lại, mỗi doanh nghiệp thường có đặc điểm riêng. Do vậy, họn hình thức nào để cổ phần hoá cho thích hợp là quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp. 5. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp và người lao động 5.1. Đối với doanh nghiệp Theo QĐ 202/CT thì khi cổ phần hoá, DNNN được hưởng 2 ưu đãi chính: - Được sử dụng số dư quỹ khen thưởng và phúc lợi (bằng tiền) chia cho công nhân viên để mua cổ phiêú. - Được xét giảm thuế lợi tức 50% trong 2 năm sau khi chuyển qua công ty cổ phần nếu gặp khó khăn. Thực tế cho thấy: ưu tiên 1 phù hợp với thực tiễn nhưng ưu tiên 2 thì không hay lắm vì có chữ "xét". ở nước ta, mà xét thì dễ nảy sinh không công bằng, tiêu cực, quá lâu và quá phiền hà. Ngoài ra, còn có những bất hợp lý, hoặc không có khuyến khích khác đối với DNNN cổ phần hoá như: khi làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản từ DNNN sang công ty cổ phần phải chịu lệ phí trước bạ, không được tiếp tục xuất, nhập khẩu hàng hoá như trước, những chi phí cổ phần hoá không biết hạch toán vào đâu... Để khắc phục những bất hợp lý đó, Điều 10 NĐ 28/CP đã làm rõ ràng khi cổ phần hóa, DNNN được hưởng 6 ưu đãi: - Được sử dụng những số dư quỹ khen thưởng và phúc lợi chia cho công nhân viên để mua cổ phiếu. - Được giảm thuế lới tức 50% trong 2 năm liên tiếp. - Được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại quốc doanh như trước. - Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá như trước. - Được miễn lệ ph trước bạ khi chuyển quyền sở hữu tài sản từ DNNN sang công ty cổ phần. - Được hạch toán các chi phí hợp lý cà cần thiết khi cổ phần hoá vào giá trị doanh nghiệp. 5.2. Đối với người lao động Hai vấn đề đáng quan tâm và lo ngại nhất khi cổ phần hoá là việc làm và thu nhập. Khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần rồi họ có bị thải hồi không? Thu nhập trong công ty cổ phần có bằng hoặc cao hơn trong DNNN không? Thực ra, chính phủ chỉ có thể trả lời được câu hỏi thứ nhất mà thôi. Tuy vậy, chính phủ có thể tạo điều kiện ban đầu khi ra "ở riêng" để người lao động yên tâm và có thể tăng thu nhập. Về quyền lợi, trước đây QĐ 202/CT có 2 ưu đãi đối với người lao động là: - Nhà nước bán chịu cổ phiếu không lấy lãi cho CNV, bình quân mỗi người 3 triệu đồng (người cao nhất 5 triệu đồng) trong thời gian 5 năm. - Nếu CNV bỏ tiền riêng ra mua cổ phiếu thì Nhà nước sẽ cho vay với lãi suất ưu đãi (khoảng 4%/năm) trong thời hạn 5 năm với số lượng bằng số tiền mà CNV bỏ ra mua cổ phiếu (tỷ lệ 1/1). Về ưu đãi 1: đa số các DNNN được CPH đều hoan nghênh chính sách này. Tuy vậy, cũng có yếu tố "phiền hà" vì phải vay, phải trả, luôn luôn lo lắng vì nợ. Về ưu đãi 2: có thể nói là không tồn tại được trong thức tế, hoặc tồn tại yếu ớt do sự "lôi thôi" của việc vay trả, mặt khác, nếu đã có tiền người lao động chỉ muốn "mua đứt, bán đoạn" muốn có "toàn quyền" về cổ phiếu ngay từ đầu, không muốn có sự ràng buộc nào. Nhằm khắc phục những bất lợi trên, NĐ 28/CP đã lược bỏ những chi tiết không phù hợp, đưa thêm một ưu đãi mới và có mức khống chế chặt chẽ hơn trong các ưu đãi. Cụ thể là: + Nhà nước cấp cho CNV một số cổ phiếu tuỳ theo thâm niên và chất lượng công tác cảu từng người. Người lao động được hưởng 100% cổ tức, được quyền thừa kế cho còn làm việc tại công ty cổ phần nhưng không được chuyển nhượng (mua bán) vì những cổ phiếu này thuộc sở hữu của Nhà nước. Như vậy, đây không phải là mua, nhưng cũng không phải là "cho không" mà cho "quyển sử dụng". Mức khống chế: trị giá cổ phiếu mà mỗi người được cấp không quá 6 tháng lương và tổng số cổ phiếu cấp cho CNV không quá 10% giá trị doanh nghiệp (tức 10% số lượng cổ phiếu phát hành lần đầu). + CNV được mua chịu trả chậm trong 5 năm với lãi suất 4%/năm tổng mức mua chịu không quá 15% giá trị doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có vốn tự tích luỹ từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên, thì mức mua chịu được tăng lên 5% nữa, tức tối đa là 20% giá trị doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá I. Đặc điểm của các DNNN 1. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa Các DNNN của chúng ta đã hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã khéo dài hơn 30 năm. Các xí nghiệp hoạt động trong cơ chế này chủ yếu là nhận lệnh từ trên bằng nhiều chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước giaơ; hoạt động sản xuất của các cơ sở theo phương thức cung cấp và giao nộp, không phải sản xuất để bán, trao đổi. Chế độ hạch toán kinh tế không được thực hiện mà là " hết tiền xin trên, hết hàng xin cấp, tổn thất không hay, lỗ lãi không chịu". Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã chiếm mất quyền chủ động sản xuất kinh doanh của cơ sở,kìm hãm sản xuất phát triển, tiêu diệt động lực sản xuất, không đưa được tiến bộ KHCN vào sản xuất, máy móc thiết bị ngày càng già cỗi, rệu rã, bộ máy quản lý thụ động sơ cứng... Mâu thuẫn gay gắt trong thời kỳ này là một bên là sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào công việc sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở trong điều kiện nguồn nhân lực của Nhà nước có hạn, một bên là các cơ sở đòi quyền tự chủ sản xuất kinh doanh họ muốn "bung ra", được "tháo gỡ". Trong điều kiện đó sản xuất sa sút nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp có nguy cơ phá sản, nhất là với các xí nghiệp dùng nguyên liệu nước ngoài. Trước tình hình đó, tháng 1/1981 CP đã ban hành QĐ 25/CP về một số chủ trương biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của xí nghiệp quốc doanh. QĐ 25/CP là một sự mở đầu về đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta. Quyền chủ động của xí nghiệp được nới dần. Kế hoạch sản xuất ở cơ sở được chia làm 3 phần: phần do Nhà nước giao, phần tự cân đối và phần sản xuất phụ. Trong quá trình thực hiện QĐ 25/CP tuy có nhiều mặt tích cực song cũng bộc lộ nhiều mặt tiêu cực như: xí nghiệp làm lẫn lộn 3 phần kế hoạch theo hướng có lợi cho cá nhân, tập thể, làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước. Các phạm trù "3 lợi ích", liên doanh, liên kết bị xuyên tạc và lợi dụng. Để vãn hồi trật tự kinh tế tháng 8/1982 CP đã có những chính sách biện pháp bổ sung bằng QĐ 146/HĐBT và đến tháng 11/1984 có NĐ 156/HĐBT về một số vấn đề cải tiến quản lý doanh nghiệp quốc doanh. NĐ 156/HĐBT vẫn chưa "gãi đúng chỗ ngứa" của các DNNN vì vẫn mang tính tập trung quan liêu bao cấp, triệt tiêu động lực kích thích người lao động phát huy khả năng thực sự của họ. Các xí nghiệp vẫn trăn trở tìm lối ra, và tiếp tục đòi quyền tự chủ của mình. 2. Trong cơ chế thị trường Năm 1986, Nhà nước ra quyết định chuyển đổi cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Và để cải thiện tình hình của các DNNN sao cho phù hợp với thực tế, tháng 4/1986 Bộ chính trị đã có dự thảo NQ 306 và sau đó là QĐ76/HĐBT về đổi mới cơ chế quản lý các xí nghiệp quốc doanh và đã được khẳng định tại NQ III ban chấp hành trung ương và thể chế hoá tại QĐ 217/HĐBT, NĐ 50/HĐBT, NĐ98/HĐBT về đổi mới cơ chế quản lý đã thu được những thành công đáng kể. Nhờ thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở mà giải phóng được năng lực sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá, bước đầu tạo ra động lực sản xuất, đưa tiến bộ KHKT vào sản xuất, bước đầu tập dượt, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý thích nghi với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cơ chế quản lý mới đã xuất hiện một số mâu thuẫn khá gay gắt. Đó là: 1. Nhấn mạnh việc thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh nhưng lại coi nhẹ, buông lỏng sự kiểm soát của Nhà nước dẫn đến thất thoát tài sản của Nhà nước . 2. Lợi ích của người lao động kể cả lao động quản lý chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi ích của người lao động chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, quyền làm chủ của người lao động chỉ là hình thức. Xí nghiệp làm ăn thua lỗ, hoặc thiếu công ăn việc làm nhưng thu nhập của cán bộ quản lý vẫn ung dung. 3. Sự phát triển của các DNNN quá tràn lan, phân tán, nhỏ bé đã làm phân tán nguồn lực Nhà nước kể cả lực lượng vật chất và trí tuệ quản lý. Tình hình trên cho thấy kinh tế quốc doanh đã tự làm suy yếu vai trò chủ đạo của mình" gậy ông đập lưng ông". Các mâu thuẫn, các trăn trở của xí nghiệp quốc doanh bắt nguồn từ một mâu thuẫn cơ bản nhất trong cơ chế quản lý là: "một bên là Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu với một bên là người quản lý sử dụng tài sản đó, tức là người chủ thì sở hữu cái mà họ không quản lý và sử dụng còn người quản lý thì lại sử dụng cái không phải là của họ". Lựa chọn các giải pháp cho tình huống nêu trên là một vấn đề hết sức phức tạp. ở đây DNNN đứng trước một sự lựa chọn. Hoặc là giữ nguyên số lượng, từ đó củng cố phát triển lên. Hoặc là thu hẹp số DNNN chỉ để tồn tại và phát triển trong lĩnh vực các ngành kinh tế then chốt mà Nhà nước có điều kiện tập trung làm cho nó giữ vai trò chủ đạo và đồng thời là công cụ đắc lực để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế . Tuy nhiên, dựa vào tình hình đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta cũng như tình hình của các DNNN thì giải pháp thứ hai là khả quan hơn. Một trong những hình thức chuyển đổi sở hữu là cổ phần hoá DNNN, một giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các DNNN hiện nay. II. Thực trạng việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động trong các DNNN đã cổ phần hoá Chủ trương cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khoá VII( tháng 11/1991) cho đến nay đã trải qua hai giai đoạn chính là: - Giai đoạn thí điểm (1992-1995) - Giai đoạn mở rộng thêm (1996 đến nay) Qua hai giai đoạn trên chúng ta đã thu được rất nhiều lợi ích cũng như những mặt còn tồn tải trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động của các DNNN đã cổ phần hoá. 1. Những lợi ích đã đạt được 1.1. Cổ phần hoá DNNN làm tăng thu nhập của người lao động Thực tế cho thấy, cổ phần hoá có tác động rất lớn đến tăng tiền lương, thu nhập của người lao động nhờ các doanh nghiệp đã cổ phần hoá thực hiện các biện pháp kinh tế, tổ chức, công nghệ, quản lý để tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rất rõ khi xem xét động thái tiền lương của người lao động trong DNNN đã cổ phần hoá. Trên toàn bộ mẫu điều tra 497 lao động (nữ 271 người) tiền lương bình quân của một lao động /tháng là 773 nghìn đồng( nữ 730 nghìn đồng) và năm 1990 là 880 nghìn đồng ( nữ 852 nghìn đồng). Như vậy so với trước cổ phần hoá tiền lương bình quân/tháng của một lao động năm 1999 tăng 13,8% (nữ tăng 15,13%). Biểu: Tiền lương bình quân/tháng của một lao động trước và sau CPH Đơn vị : nghìn đồng Trước cổ phần hoá Năm 1999 Động thái tiền lương 1999 với trước cổ phần hoá (%) Chung Nữ Chung Nữ Chung Nữ 1.Chung 773 740 880 852 13,80 15,13 2.Địa phương Hà nội 598 587 654 643 9,36 18,22 Hải phòng 696 659 799 766 14,36 15,39 Nam định 513 403 517 475 0,78 17,86 Vinh 553 422 603 434 9,04 2,84 Đà nẵng 761 625 937 808 23,12 29,28 TPHCM 228 1271 1455 1482 18,48 16,60 Bình định 403 399 507 523 25,80 31,07 3.Nhóm tuổi Dưới 24 585 641 602 691 1,17 7,80 24-40 752 724 864 801 14,89 10,63 41-50 817 764 928 929 13,58 21,59 51-55 757 877 829 1052 9,51 19,95 Trên 55 600 - 633 - 5,50 - 4.CMKT Không CMKT 664 632 810 768 21,98 21,51 CNKT,sơ cấp 727 758 839 890 15,40 17,41 Trung cấp 789 688 873 737 10,64 6,21 CĐ,Đh trở lên 879 807 990 950 12,62 17,70 Từ biểu trên ta thấy tiền lương bình quân/tháng của một lao động được phân chia dựa trên 3 chỉ tiêu: địa phương, nhóm tuổi, chuyên môn kỹ thuật. Nhìn chung, tiền lương của lao động nữ và lao động nam không chênh lệch nhau lớn, thậm chí ở một số tiêu thức tiền lương bình quân của nữ cao hơn của nam như ở TPHCM với nhóm tuôỉ lớn hơn 55. Hình thức trả lương cũng có sự thay đổi đáng kể. Sau cổ phần hoá số lao động được áp dụng hình thức trả lương sản phẩm và lương khoán tăng lên 33,19% so với 32,59% và 26,17% so với 21,14% trước cổ phần hoá. Đối với doanh nghiệp đây là yếu tố để tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động kinh tế. Biểu: Hình thức trả lương trước và sau cổ phần hoá Mức doanh thu bình quân/lao động/năm sau cổ phần hoá cao hơn trước cổ phần hoá, nhưng xét theo quy mô vốn doanh nghiệp thì thấy có biểu hiện là: những doanh nghiệp quy mô nhỏ thì có tỷ lệ tăng doanh thu cao (dưới 1 tỷ đồng tăng 63,34%; 1-3 tỷ đồng tăng 102,6%). Các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn có tình trạng giảm doanh thu bình quân/lao động/năm. việc giảm doanh thu không đồng nghĩa với giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh mà còn do rất nhiều yêú tố tác động. 1.2 Số lượng và chất lượng lao động Biến động trong các DNNN đã cổ phần hoá là khách quan bởi quá trình cổ phần hoá DNNN cũng là quá trình phát triển theo chiều sâu và chiều rộng của doanh nghiệp. Quá trình này diễn ra với sự tổ chức, sắp xếp lại sản xuất và lao động, đổi mới công nghệ để cải thiện , nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Thực tế khảo sát 100 DNNN đã cổ phần hoá cho thấy sự biến động như sau: Biểu: Biến động lao động của 100 doanh nghiệp đã cổ phần hoá Đơn vị : người Hiện tại Trước cổ phần hoá Tăng giảm (% so với trước cổ phần hoá) 1.Theo giới tính: -Tổng sổ 19 223 18 374 4,62 Trong đó :nữ 9 860 9 407 4,82 2.Theo loạI lao động -Quản lý 1 231 1 262 -2,46 -Nhân viên 4 583 4 500 1,84 -Công chức 12 612 11 862 6,32 3.Theo TĐCMKT -LĐ phổ thông 6070 6 244 -2,79 -Công nhan KT 9662 9 043 6,85 -Trung cấp CN 1368 1 346 1,63 -CĐ,ĐH trở lên 2123 1 741 21,94 Như vậy biểu trên cho thấy, biến động lao động do quá trình cổ phần hoá có xu hướng tăng lên. Tổng số lao động tăng 4,62% do sau cổ phần hoá có nhận thêm lao động mới. Số lao động quản lý giảm2,46% còn lao động công nhân tăng 6,32% do đổi mới cơ cấu bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Số lao động phổ thông giảm 2,79%; số lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên tăng 21,94%. Điều này chứng tỏ qúa trình cổ phần hóa không những chú trọng về số lượng lao động mà còn chú trọng cả đến chất lượng của người lao động. Biểu: Cơ cấu chất lượng lao động của DNNN đã cổ phần hoá Như vậy, về chất lượng ta thấy số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao làm việc trong các DNNN đã cổ phần hoá tăng lên (cao đẳng, đại học trở lên tăng 11,06% so với 9,5%; lao động phổ thông giảm xuống 31,57% so với 33,98%). Nhìn chung, cơ cấu các loại lao động sử dụng cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước và sau cổ phần hoá tuy có sự biến động đáng kể, nhưng các thay đổi này chưa phải là mang tính toàn diện vì điều kiện kỹ thuật, công nghệ và quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn nằm trong tình trạng chung, chưa đạt ở trình độ cao như ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Lao động phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong dây chuyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3. Thâm niên công tác của người lao động Thâm niên công tác của người lao động làm việc trong các DNNN đã cổ phần hoá như sau: Biểu: Cơ cấu lao động theo thâm niên công tác đã làm việc tại DNNN đã CPH 1.4. Tỷ lệ lao động có cổ phần so với tổng số lao động trong doanh nghiệp Tỷ lệ lao động có cổ phần của tất cả các DNNN đã cổ phần hoá chiếm 82,99% tổng số lao động làm việc tại doanh nghiệp. Như vậy, có một số lao động làm việc trong doanh nghiệp cổ phần không phải là cổ đông bao gồm những người mới vào làm việc tại doanh nghiệp và lao động làm các công việc theo HĐLĐ ngắn hạn. Trong tổng số cổ đông của 100 doanh nghiệp khảo sát thì cổ đông là người trong doanh nghiệp chiếm 82,21% (15.248 người) và cổ đông ngoài doanh nghiệp chiếm 18,79% (3.529 người) trong đó cổ đông là người nước nước ngoài chiếm 0.04%. Trong mẫu điều tra 497 người lao động đang làm việc trong các DNNN đã cổ phần hoá cho thấy số lao động đã có cổ phần chiếm tỷ lệ 96,58% và lao động không có cổ phần chiếm tỷ lệ 3,42%. Xét theo nhóm tuổi và trình độ chuyên môn kỹ thuật lao động có cổ phần và không có cổ phần như sau: Biểu: Lao động có cổ phần và không có cổ phần theo nhóm tuổi và trình độ CMKT Đơn vị : % so tổng số lao động của từng tiêu thức Lao động có cổ phần Lao động không có cổ phần Tổng 1.Nhóm tuổi -Dưới 24 -Từ 24-40 -Từ 41-50 -Từ 51-55 -Trên 55 96,58 100,00 95,07 98,33 100,00 100,00 3,42 0 4,93 1,67 0 0 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 2.Trình độ CMKT -Không có CMKT -Công nhân KT,sơ cấp -Trung cấp -Cao đẳng , ĐH trở lên 96,58 92,68 96,80 97,50 96,50 3,42 7,32 3,20 2,50 3,50 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 1.4. Đào tạo người lao động Trong 497 lao động được điều tra đang làm việc trong doanh nghiệp cổ phần có 147 người đã được đào tạo chiếm tỷ lệ 29,5% tổng số lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo như vậy là khá cao. - Hình thức và thời gian đào tạo: Đào tạo mới chiếm tỷ lệ 19,72% tổng số lao động được đào tạo, đào tạo nâng cao 72,78% và đào tạo lại 7,5%. Như vậy, đa số người lao động được đào tạo do cổ phần hoá doanh nghiệp là đào tạo nâng cao. Chính vì vậy, thời gian đào tạo bình quân đầu người chỉ là 2 tháng. - Chi phí đào tạo và các chế độ người lao động được hưởng trong thời gian đào tạo: Người lao động tham gia đào tạo được người lao động cấp kinh phí đào tạo 100% chiếm tỷ lệ 87,75% tổng số lao động được đào tạo, do doanh nghiệp chịu một phần 6,12% và người lao động chịu 100% là 6,13%. Mức lương bình quân một người lao động được hưởng trong thời gian đào tạo là 280 nghìn đồng bằng 28,4% tiền lương ghi trong hợp đồng lao động đã ký kết. Rõ ràng, mức tiền lương người lao động được doanh nghiệp trả trong thời gian học nghề thấp hơn quy định hiện nay của nhà nước (luật quy định trong thơì gian học nghề công ty cổ phần phải trả cho người lao động không được thấp hơn 70% mức lương ghi trong hợp đồng lao động đã ký kết). Trong thời gian học nghề tỷ lệ lao động được doanh nghiệp cổ phần nộp 2. Những mặt còn tồn tại Điều được quan tâm và chú trọng nhiều nhất đó là vấn đề lao đọng dôi dư sau cổ phần hoá. Trên tổng thể số doanh nghiệp được khảo sát thì có tới 75 doanh nghiệp có lao động dôi dư,tỷ lệ lao động dôi dư do cổ phần hóa là 9,81% so với tổng số lao động của tất cả các doanh nghiệp trước cổ phần hoá. Trong đó lao động nữ dôi dư chiếm 11,08% tổng số lao động nữ. Nếu tính bình quân thì một doanh nghiệp có 28 lao động dôi dư do cổ phần hoá, trong đó nữ là 15 lao động. Xét theo địa phương số lao động dôi dư bình quân tại một doanh nghiệp ở Hà Nội là 29, Hải Phòng:30, Nam Định: 22, Vinh: 25, Đà Nẵng:14, TPHCM: 31, Bình Định:28. Biểu: Lao động dôi dư do cổ phần hoá so với tổng số từng loại lao động CMKT trước cổ phần hoá Nhìn chung, đối với tất cả các loại lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật đều có số lao động dôi dư nhưng cao nhất là công nhân kỹ thuật(11,79%), lao động phổ thông(8,47%) và lao động trình độ trung cấp, sơ cấp (8,92%). Rõ ràng sau cổ phần hoá các DNNN đã thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại sản xuất kinh doanh. Một bộ phận khác đã đổi mới công nghệ và sản phẩm. Từ đó kéo theo việc đổi mới lao động và dẫn đến lao động dôi dư. Biểu: Cơ cấu lao động dôi dư theo trình độ CMKT Đa số lao động dôi dư do cổ phần hoá DNNN là công nhân kỹ thuật, sơ cấp (59,16%) và lao động phổ thông (29,36%), các loại lao động khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. ở tất cả các nhóm tuổi đều có lao động dôi dư. Trong đó lao động dôi dư tuổi 25-29 chiếm gần 1/2 tổng số lao động dôi dư. Như vậy, lao động dôi dư do cổ phần hoá mang tính bao trùm rộng lớn tất các loại hình lao động cũng như các độ tuổi khác nhau trong đó lao động dôi dư độ tuổi còn trẻ chiếm tỷ lệ khá cao. Ngoài ra, vẫn còn một số hiện tượng cần được giải quyết như: trong các DNNN đã cổ phần hoá có một số lao động không có cổ phần, chưa phải là cổ đôngcủa doanh nghiệp do đó chưa thực sự có được quyền tự chủ; và vẫn xảy ra hiện tượng lao động di chuyển công việc từ công ty này sang công ty khác do không thích ứng được với sự thay đổi quy trình sản xuất của công ty hay chưa có lòng tin vào công ty... Chương III: Những giải pháp hoàn thiện trong quá trình cổ phần hoá DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động I- Chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Từ khi có chủ trương cổ phần hoá đến nay mặc dù tiến trình còn chậm song cũng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ: thu hút vốn từ xã hội để sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm, tạo thêm việc làm cho người lao động, người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp gắn bó hơn và có trách nhiệm hơn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi cổ phần hoá, hai vấn đề được quan tâm nhiều nhất là định giá doanh nghiệp và chính sách đối với người lao động. Chính sác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35165.doc
Tài liệu liên quan