Đề tài Những giải pháp thiết thực đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015

MỤC LỤC

NỘI DUNG TRANG

Lời mở đầu 1

Phần I: Cơ sở lý luận 4

1. Quan niệm về nghèo đói 4

2. Phương pháp xác định chuẩn nghèo và thước đo đói nghèo 6

3. Đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 11

Phần II: Thực trạng, nguyên nhân của nghèo đói trên địa bàn tỉnh Điện Biên 30

1. Đặc điểm chung của Tỉnh Điện Biên 30

2. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên 32

3. Nguyên nhân của nghèo đói 37

Phần III: Thực trạng thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên 39

1. Công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn I (2001-2005) 39

2. Công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn II (2006-2010) 46

Phần IV: Giải pháp thiết thực đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015 56

1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010 – 2015 56

2. Những giải pháp thiết thực đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015 57

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5086 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp thiết thực đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên giai đoạn 2010-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ít người vẫn cao hơn nhiều so với mức nghèo của các nhóm người Kinh và Hoa. Những người nghèo đều sống ở các vùng nông thôn, với tỷ lệ nghèo đang tiếp tục giảm. Điều này trái ngược với mức nghèo hầu như vẫn giữ nguyên ở thành thị. Về tỷ lệ người nghèo thành thị không giảm, có nhiều nguyên nhân có thể giải thích hiện tượng này. Đó là do giá cả ngày càng tăng cao ở khu vực thành thị. Sự bùng nổ giá bất động sản làm tăng chi phí bán lẻ và các dịch vụ khác trong thành phố. Giá cả leo thang ở khu vực thành thị có thể dẫn đến mức sống thấp hơn cho những người mà thu nhập của họ không tăng theo một cách tương ứng. Ngoài ra, giá cả tăng có thể khiến cho những người cận nghèo bị tái nghèo. Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa bền vững: Nghèo đói ở nước ta phổ biến là trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp với điều kiện rất hạn chế (đất đai, lao động…). Hơn 90% số người nghèo ở nước ta sinh ra ở nông thôn, trình độ tay nghề thấp, ít có khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất như vốn, kỹ thuật, công nghệ… không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin nên rất khó có khả năng chuyển đổi về việc làm sang các ngành nghề phi nông nghiệp để có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường, môi trường ô nhiễm, mất đi người trụ cột của gia đình, thất nghiệp...) cũng vẫn rất lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái đói nghèo (chiếm 70 – 80%), tỷ lệ người nghèo thoát nghèo rồi lại tái nghèo khoảng 7% đến 10%. Ngoài ra, nghèo đói có mối liên quan mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn. Tốc độ giảm nghèo của nhóm dân tộc thiểu số còn chậm: Mặc dù số lượng hộ nghèo là dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ nghèo của cả nước vẫn tăng lên. Trong những năm qua, tỷ lệ nghèo ở các nhóm dân tộc ít người vẫn cao hơn rất nhiều so với người Kinh và người Hoa. Mức độ nghèo cũng trầm trọng hơn, thiếu đói vẫn là một vấn đề nan giải đối với một số dân tộc. Với khoảng 14% dân số, dân tộc ít người hiện nay đang chiếm khoảng 44% tỷ lệ nghèo và khoảng 59% tỷ lệ đói. Năm 2007, 52% đồng bào dân tộc ít người vẫn thuộc diện nghèo, so với chỉ có 10% người Kinh và người Hoa. Chỉ số khoảng cách nghèo, tức khoảng cách chi tiêu của một hộ gia đình người nghèo trong các nhóm dân tộc ít người luôn duy trì ở mức cao hơn. Nhóm dân tộc có tỷ lệ nghèo cao là Vân Kiều ( 60,3%), PaKô (58,5%) và H’mông (35%) vào năm 2006. Nhận thức về trách nhiệm đối với công tác xoá đói giảm nghèo ở 1 số địa phương, cơ sở còn chậm và chưa rõ, thiếu nhất quán nên việc điều hành, phối hợp còn lúng túng; công tác cán bộ chưa được coi trong đúng mức, nhất là ở cơ sở nên nhiều địa phương vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về năng lực. Một bộ phận người nghèo chưa nhận thức đúng về trách nhiệm của mình, thiếu quyết tâm vươn lên vượt qua đói nghèo. Nguồn lực đầu tư trực tiếp từ trung ương cho chương trình hàng năm còn hạn chế, chưa cân đối với mục tiêu chung giữa các vùng và nội dung của từng dự án; cấp vốn chưa đảm bảo được tiến độ thực hiện, Một số địa phương chưa huy động được nguồn lực tại chỗ cho xoá đói giảm nghèo, còn tư tưởng trông chờ vào sự hỗ trợ của trung ương. Một số chính sách, cơ chế vận hành chưa rõ hoặc bất hợp lý như: chính sách hỗ trợ về y tế thực hiện chưa hiệu quả do thiếu nguồn tài chính bảo đảm; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo còn gặp nhiều khó khăn, triển khai chậm do còn thiếu cơ chế chính sách hợp lý về chọn thầu, thiết kế; cơ chế quản lý tài chính của chương trình còn thiếu thống nhất; cơ chế lồng ghép các chương trình, dự án với mục tiêu xoá đói giảm nghèo chưa khả thi. Tính bền vững của xoá đói giảm nghèo chưa cao, một bộ phận dân cư có nguy cơ tái nghèo do sinh sống ở vùng thường xuyên bị thiên tai mất mùa, do thhiếu việc làm và việc làm không ổn định, thu nhập thấp, không có tích luỹ, mức sống cao không hơn nhiều so với chuẩn nghèo, trong khi hệ thống quỹ an sinh xã hội chưa được thiết lập. Công Tác điều tra, quản lý đối tượng hộ nghèo, xã nghèo, xây dựng chương trình còn nhiều bất cập, chưa được đầu tư nguồn lực đúng mức để thực hiện. Việc thực hiện nguyên tắc làm gì và đầu tư vào đâu phải suất phát từ nhu cầu của người dân vẫn còn mang tính hình thức ở không ít địa phương, chưa tạo được cơ hội cho người dân tham gia xây dựng kế hoạch, thực hiện và quản lý nguồn lực. Công tác xoá đói giảm nghèo trong những năm qua chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo điều kiện tối cần thiết cho xoá đói giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng… ở những nơi này cơ sở hạ tầng còn yếu kém, háàu như chưa có, trình độ dân trí thấp nên chưa thể tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo có hiệu quả. Trong chỉ đạo thực hiện, chưa tạo lập được mô hình, một số mô hình đã có thì tổng kết, nhân rộng còn hạn chế. Đặc biệt là mô hình của chính người nghèo thì chưa được các địa phương chú ý xây dựng, rút kinh nghiệm nhằm giúp cho người nghèo có được các cơ hội tốt để tham gia vào nền kinh tế đang tăng trưởng. Một số bài học kinh nghiệm: - Cần có sự chuyển biến về nhận thức từ trong Đảng đến quần chúng, từ trung ương đến cơ sở về chủ trương xoá đói giảm nghèo. - Khi đã có chủ trương và nhận thức đúng đắn, cần phải có những giải pháp thích hợp, huy động được các nguồn lực một cách hợp lý và đồng bộ, tạo cơ chế chính sách cho công tác này. - Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành, các tổ chức đoàn thể từ trung ương đến địa phương và lồng ghép các chương trình khác. - Phát huy vai trò của ngành lao động - thương binh và xã hội từ nghiên cứu đề xuất, tư vấn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tạo nguồn hợp tác quốc tế. - Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp vào hoạt động xoá đói giảm nghèo. - Phát huy nội lực là chính, song đồng thời không ngừng củng cố, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo. - Cần có sự quan tâm, đầu tư hợp lý một cách đồng đều, nhưng cũng cần chú trọng, ưu tiên những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phần II: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN CỦA NGHÈO ĐÓI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN: Đặc điểm chung của tỉnh Điện Biên: Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội: Tiềm năng phát triển: Điện Biên là tỉnh miền núi cao, biên giới; là tỉnh duy nhất ở nước ta có đường biên giới với 2 quốc gia: Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và Trung Quốc. Tại đây có các cửa khẩu Tây Trang (đang được nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế), cửa khẩu Pa Thơm, cửa khẩu Mường Lói, cửa khẩu A Pa Chải… Đây là những cửa khẩu quan trọng để tỉnh Điện Biên mở mang phát triển kinh tế và giao lưu với các nước. Điện Biên nằm cách thủ đô Hà Nội 500 km theo đường bộ, có cảng Hàng không Điện Biên Phủ đi Hà Nội và đã được Chính phủ cho phép mở đường bay tới một số nước trong khu vực như: Lào, Myanma, Cam Pu Chia. Điện Biên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh, là đầu mối giao thông quan trọng giữa khu vực các tỉnh Tây Bắc, Việt Nam với các tỉnh Bắc Lào và Vân Nam Trung Quốc. Vị trí chiến lược của Điện Biên về quân sự và đầu mối giao thông đã được khẳng định trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, các tướng lĩnh Pháp đã xác định Điện Biên là cứ điểm quân sự có vị trí chiến lược quan trọng, và xây dựng Điện Biên thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Tỉnh Điện Biên gồm 1 thành phố (tỉnh lỵ), 1 thị xã và 7 huyện, được phân tách ra từ tỉnh Lai Châu (tỉnh có diện tích lớn nhất miền Bắc nước ta) từ năm 2005. Điện Biên có lợi thế lớn về tiềm năng đất đai, đặc biệt là diện tích đất chưa sử dụng còn rất lớn (trên 500.000 ha, chiếm 55% tổng diện tích tự nhiên). Đây chính là tiềm năng lợi thế lớn để tỉnh đầu tư phát triển lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc… Ngoài ra cánh đồng Điện Biên rộng lớn với đất đai màu mỡ, được coi là vựa lúa của vùng Tây Bắc, nếu được đầu tư thoả đáng và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thì sẽ trở thành nơi sản xuất lúa gạo chất lượng cao của cả nước để xuất khẩu. Tại một số huyện của tỉnh có những thung lũng, đồng cỏ rộng lớn, khí hậu ôn hòa, rất thuận lợi để tập trung phát triển chăn nuôi các loại gia súc theo hướng kinh tế trang trại. Trên địa bàn tỉnh còn có rất nhiều di tích lịch sử có giá trị văn hoá, du lịch cao, trong đó đáng chú ý là di tích Điện Biên Phủ và nhiều danh lam thắng cảnh gắn với nền văn hoá truyền thống của các dân tộc anh em, đây là lợi thế lớn để tỉnh phát triển mạnh ngành du lịch, dịch vụ. Những khó khăn, trở ngại đối với tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo tỉnh Điện Biên: Điện Biên gồm 1 thành phố (tỉnh lỵ), 1 thị xã và 7 huyện trong đó có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50% (tính đến năm 2008). Trong những năm qua, công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh Điện Biên đã được triển khai thực hiện một cách tích cực. Tuy nhiên, cho đến nay tỷ lệ nghèo đói của tỉnh vẫn còn rất cao vẫn rất cao so với tỷ lệ nghèo đói chung của cả nước (cao thứ 2 trong cả nước – theo số liệu Niên giám Thống kê 2008). Có rất nhiều khó khăn trở ngại đối với tỉnh Điện Biên trong việc phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, như: Vị trí địa lý, địa hình: Điện Biên là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội gần 500 km về phía Tây, có địa hình phức tạp, xen lẫn với các dãy núi cao là những thung lũng, sông suối nhỏ hẹp và dốc phân bổ khắp nơi trong địa bàn tỉnh. Từ thủ đô Hà Nội lên đến Điện Biên phải mất 10-12h đi ô tô, do đường núi hiểm trở, nhiều đèo dốc, sương mù, nhiều đoạn đường gập ghềnh, sạt lở… Thiên tai: Điện Biên có khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao, khí hậu có các đặc tính diễn biến bất thường, phân hoá đa dạng, lũ quét thường xảy ra bất ngờ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhiều bản làng vùng cao, mùa đông thường có sương muối, làm thiệt hại lớn đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh đó, còn xảy ra hiện tượng động đất, sạt lở núi… làm thiệt hại không nhỏ đến đời sống của người dân. Nhân khẩu: Tỉnh Điện Biên có 21 dân tộc sinh sống với tổng dân số khoảng 500.000 dân, chủ yếu là người Thái (~38%), tiếp đó là H'Mông (~30%) và Kinh (~20%), mỗi dân tộc lại có những phong tục, tập quán riêng, nên đôi khi rất khó khăn trong việc hài hòa về nhận thức và thực tiễn kinh tế xã hội. Các dân tộc thiểu số thường sống ở các thôn bản, xã huyện vùng cao, xa trung tâm thành phố, sản xuất và đời sống còn rất lạc hậu do nhận thức và năng lực của bản thân người dân tộc thiếu sự nhanh nhạy với những cái mới và sự phát triển, mặt khác, thông tin liên lạc, giao thông tới địa phương gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Điện Biên là một thành phố trực thuộc tỉnh còn rất non trẻ, đang bước đầu xây dựng và phát triển, với xuất phát điểm là một thị xã nhỏ miền núi cao, do đó, còn có rất nhiều khó khăn phải vượt qua trên chặng đường phía trước. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu đói nghèo và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Điện Biên: Điện Biên là một tỉnh miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao thứ 2 trong cả nước. Việc nghiên cứu vấn đề nghèo đói và công tác xóa đói giảm nghèo đối với tỉnh Điện Biên là hết sức cần thiết, để các cơ quan chức năng có thể thấy rõ thực trạng, nguyên nhân của nghèo đói trên địa bàn tỉnh, từ đó có những hành động kịp thời nhằm hỗ trợ người nghèo, định hướng giải quyết vấn đề đói nghèo, tìm ra những biện pháp thiết thực xóa đói giảm nghèo, ngăn chặn tái nghèo; nâng cao ý thức của người dân và sự quan tâm của cộng đồng về vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo; đồng thời đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác xóa đói giảm nghèo bằng những chính sách, biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế xã hội của tỉnh, xây dựng được kế hoạch xóa đói giảm nghèo với những mục tiêu hợp lý, những bước đi sát thực và hiệu quả để đạt được kết quả cao nhất, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước. Thực trạng đói nghèo trên địa bàn tỉnh Điện Biên: Tỉnh Điện Biên có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông. Ở các huyện này, trên 50% dân số chưa được sử dụng điện, nước sạch sinh hoạt; sản xuất nông nghiệp chậm phát triển, năng suất chỉ đạt trên 30 tạ/ha, thu nhập bình quân đạt 120 USD/năm. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách, dành nhiều nguồn lực để ưu tiên phát triển vùng này nhưng mức độ chuyển biến chậm, đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn. Có nhiều nguyên nhân, chủ yếu ở các huyện là do diện tích đất tự nhiên rộng, đất nông nghiệp chỉ chiếm 6%, trình độ sản xuất lạc hậu, kết cấu hạ tầng vừa thiếu, vừa yếu. Các nguồn hỗ trợ của Nhà nước đầu tư còn phân tán, thiếu đồng bộ, hiệu quả thấp; đội ngũ cán bộ cơ sở yếu, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó người dân ỷ lại, trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước, cán bộ thiếu sự năng động, không phát huy nội lực và nỗ lực vươn lên, nhiều người không muốn vươn lên để thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo qua các năm: Bảng: Tỷ lệ hộ nghèo (Nghèo theo tiêu chuẩn của bộ LĐ.TB và XH) Năm Tỷ lệ hộ nghèo (%) Tỷ lệ hộ nghèo cả nước (%) 2005 44.06 22 2006 42.9 2007 40.77 2008 37.35 ≈ 13 2009 33.72 (Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Điện Biên) Tỷ lệ hộ nghèo có chiều hướng giảm dần qua các năm, tốc độ giảm tăng dần trong những năm gần đây. Đây là một kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, theo Niên giám Thống kê 2008 của Tổng cục Thống kê, Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao thứ 2 trong cả nước (chỉ sau Lai châu). Năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo của Điện Biên (44.06%) cao gấp đôi so với tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước (22%), đến cuối kỳ 2009, tỷ lệ này đã giảm đi hơn 10% (còn 33.72%), nhưng vẫn còn rất cao so với mức chung của cả nước, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước chung (≈ 13%), điều đó cho thấy tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh còn chậm hơn tốc độ giảm nghèo chung của cả nước. Kết cấu hạ tầng dịch vụ của các xã nghèo: Kết cấu hạ tằng, dịch vụ của xã, phường 2005 2006 2007 2008 2009 Bình quân 2006-2009 Dự báo 2010 Tổng số xã phường trên địa bàn 93 106 106 106 112 4.75 112 Trong đó: Số xã, phường thuộc diện nghèo đói(*) 68 68 73 73 77 3.15 77 Số xã, phường chưa có điện(*) 31 28 26 23 24 -6.20 16 Số xã, phường chưa có đường ôtô đến trung tâm(*) 3 3 0 0 4 7.45 3 Số UBND xã, phường chưa có điện thoại(*) 24 28 23 12 1 -35.00 0 Ghi chú: (*) Tăng do chia tách đ/vị hành chính Điện Biên có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông. Ở các huyện này, trên 50% dân số chưa được sử dụng điện, nước sạch sinh hoạt; chưa được sử dụng điện thoại, vô tuyến. Giao thông tới các xã nghèo còn hết sức khó khăn, đường còn là đường đất, đá chưa được đầu tư làm đường hoặc bị sụt lở, xuống cấp nghiêm trọng do mưa lũ, thiên tai. Hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư, xây dựng, việc tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thủ công, nên hiệu quả sản xuất còn thấp, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, sông suối tự nhiên và sức người. Trường học, phòng khám đa khoa của xã chưa được xây dựng kiên cố, thiếu cơ sở vật chất phục vụ dạy, học, khám chữa bệnh. Một số trường lớp, cơ sở y tế được xây cấp 4, hoặc còn là nhà tranh tre, vách đất. Công tác XĐGN đang nỗ lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của các xã nghèo, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân nơi đây. Phân bố nghèo đói trên địa bàn tỉnh: Phân theo đơn vị hành chính (Thành phố, Thị xã, Huyện) Theo kết quả khảo sát hộ nghèo cuối kỳ năm 2009 trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Sở Lao động – TB&XH tổng hợp được kết quả về sự phân bố đói nghèo trên địa bàn tỉnh như sau: (đồng thời so sánh với năm 2005) (Nguồn: Sở Lao động – TB&XH Tỉnh Điện Biên) STT Huyện, txã, tp Năm 2005 Năm 2009 Tăng, giảm (%) Tổng số hộ Hộ nghèo Tỷ lệ (%) Tổng số hộ Hộ nghèo Tỷ lệ (%) Chung toàn tỉnh 82.600 36.394 44.06 102.005 34.398 33.72 -10.34 1 TP Điên Biên Phủ 10.833 420 3.88 14.187 155 1.09 -2.78 2 Tx. Mường Lay 3.291 431 13.1 2.931 155 5.29 -7.81 3 H. Mường Nhé 6.129 4.624 75.44 9.591 5.614 58.53 -16.91 4 H. Mường Chà 7.477 3.425 45.81 9.539 5.336 55.94 10.13 5 Huyện Tủa Chùa 7.105 3.972 55.09 8.563 4.421 51.63 -4.28 6 Huyện Tuần Giáo 18.858 10.790 57.22 14.756 5.168 35.02 * 7 H. Mường Ảng 7.834 4.180 53.36 * 8 Huyện Điện Biên 21.435 8.467 39.5 24.961 4.565 18.29 -21.21 9 H.ĐiệnBiên Đông 7.472 4.265 57.08 9.643 4.804 49.82 -7.26 (* Huyện Mường Ảng chia tách từ huyện Tuần Giáo năm 2007) Hộ nghèo phân bố ở cả 9 đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh hiện nay. Khu vực thành phố, thị xã, hộ nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ (1.09% ở Tp. Điện Biên, 5.29% ở Tx. Mường Lay). Những huyện khác trong tỉnh tỷ lệ hộ nghèo khá cao và rất cao. Huyện Điện Biên và Tuần Giáo tỷ lệ này khá cao nhưng cũng có phần thấp hơn so với những huyện vùng sâu vùng xa khác. 4 huyện: Tủa Chùa, Mường Nhé, Mường Ảng, Điện Biên Đông có tỷ lệ hộ đói nghèo rất cao (trên 50%). Đây là những huyện xa, giao thông đến các huyện này còn rất khó khăn và là những huyện trọng tâm của đói nghèo, cần được đặc biệt quan tâm xóa đói giảm nghèo. Phân theo khu vực thành thị, nông thôn: Theo chuẩn nghèo mới, giai đoạn 2006-2010: khu vực nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người từ 200.000đ/tháng trở xuống; khu vực thành thị 260.000đ/ tháng trở xuống thì Tỉnh Điện Biên có 36.394 hộ nghèo/ tổng số 82.600 hộ của toàn Tỉnh, tỷ lệ hộ nghèo 44,06%. Trong đó: + Khu vực thành thị có 1.065 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 6,33%/tổng số hộ dân thành thị và 1,29%/ tổng số hộ dân toàn Tỉnh. + Khu vực nông thôn có 35.911 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 54,59%/ tổng số hộ dân nông thôn và 43,48%/tổng số họ dân toàn Tỉnh. Phân theo thành phần dân tộc chủ yếu: Hộ nghèo là dân tộc Kinh có 2.152 hộ, chiếm 2,56%/ tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Hộ nghèo là dân tộc thiểu số có 34.242 hộ, chiếm tỷ lệ 41,45%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh. Trong đó: + Dân tộc Thái có 14.065 hộ nghèo, chiếm 41,07%/tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 38,64%/tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh; + Dân tộc H'mông có 11.980 hộ nghèo, chiếm 34,98%/ tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 32,8\91%/ tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh; + Các dân tộc thiểu số khác có 8.197 hộ nghèo, chiếm 23,93%/ tổng số hộ nghèo là dân tộc thiểu số và chiếm 22,52%/tổng số hộ nghèo toàn Tỉnh. Nguyên nhân của nghèo đói: Đói nghèo có nhiều nguyên nhân song ở tỉnh Điện Biên tập trung chủ yếu ở 1 số nguyên nhân sau: Nhóm nguyên nhân khách quan: Là một tỉnh miền núi có tỷ lệ đói nghèo cao thứ 2 trong cả nước, có 44 xã thuộc 4 huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%, ở những xã này tuy đất đai rộng nhưng lại thiếu đất sản xuất cây lương thực (lúa nước, hoa màu...), lại thiếu nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất, do đó tưới tiêu rất khó khăn, hầu như phụ thuộc vào thiên nhiên. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai, rủi ro như bão, lũ, sạt lỡ đất, động đất, sương muối, mưa đá, hạn hán kéo dài… ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân, do đó mất mùa và thiệt hại về người và của thường xuyên xảy ra. Giao thông đi lại đến những vùng này hết sức khó khăn, do xa xôi, hẻo lánh, cách biệt, và thiên tai làm hư hỏng xuống cấp các công trình giao thông, vì thế những vùng này thường bị cách biệt, thiếu thông tin, sản xuất hầu như khép kín, mang tính chất tự cấp tự túc, khó hình thành thị trường tiêu thụ sản phẩm cho sản xuất. Nhóm nguyên nhân chủ quan: Nền kinh tế của tỉnh chỉ đang ở trong giai đoạn đầu của sự tăng trưởng và phát triển, do đó hiệu ứng lan tỏa của sự tăng trưởng kinh tế chưa rộng và mạnh từ các trung tâm kinh tế đến các xã, huyện vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo đói, khó khăn. Vốn đầu tư cho xóa đói giảm nghèo của Tỉnh chưa đáp ứng được hết nhu cầu thực tế; công tác điều tra, khoanh vùng đối tượng nghèo chưa thể triệt để, do dân cư phân tán, nhất là đối với những nhóm người dân tộc ở những vùng cao, vùng sâu, việc thống kê đối tượng nghèo còn hạn chế và chưa triệt để. Ở những xã nghèo, trình độ dân trí thấp, đặc biệt là những bản làng vùng cao, tỷ lệ người mù chữ cao, phong tuc tập quán còn lạc hậu, nên việc tiếp thu chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như tiến bộ khoa học kỹ thuật còn rất hạn chế, do đó người dân chậm thoát nghèo. Những hộ nghèo thường là những hộ đẻ dày, đẻ nhiều, thiếu sức lao động (tỷ lệ tăng dân số trung bình của tỉnh rất cao: 17-18%/ năm, và còn cao hơn nhiều so với mức trung bình ở những xã, huyện nghèo, vùng cao, vùng sâu). Một bộ phân người dân lười lao động hoặc mắc các tệ nạn xã hội (nghiện hút) cũng dẫn đến đói nghèo, tình trạng này còn tồn tại nhiều ở các bản người dân tộc vùng cao trong tỉnh. + Theo kết quả điều tra đói nghèo năm 2005, theo thứ tự từ cao xuống thấp: Nghèo do thiếu kinh nghiệm làm ăn = 22.200 lượt hộ, chiếm 61%/tổng số hộ nghèo, chiếm 26,8%/ tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do thiếu vốn = 16.377 lượt hộ, chiếm 45%/tổng số hộ nghèo và 19,82%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do thiếu đất sản xuất = 8.075 lượt hộ, chiếm 22,18%/tổng số hộ nghèo và 9,83%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do thiếu lao động = 5.532 lượt hộ, chiếm 15,2%/tổng số hộ nghèo và 6,7%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do không có việc làm = 3.021 lượt hộ, chiếm 8,3%/tổng số hộ nghèo và 3,65%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do có người tàn tật = 1.783 lượt hộ, chiếm 4,9%/tổng số hộ nghèo và 2,15%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do ốm đau, tai nan, rủi ro = 1.296 lượt hộ, chiếm 3,56%/tổng số hộ nghèo và 1,56%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Nghèo do các nguyên nhân khác = 1.201 lượt hộ, chiếm 3,3%/tổng số hộ nghèo và 1,45%/tổng số hộ dân toàn Tỉnh; Phần III: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC XĐGN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN Công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn I (2001-2005) Kết quả thực hiện: Thứ nhất, việc tổ chức thực hiện được tiến hành kịp thời, nghiêm túc Ngay sau khi có chủ trương của Trung ương, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ X đã xác định nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh 5 năm 2001-2005 là: Cơ bản xóa hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc; đến 2005 xóa hết hộ đói, giảm hộ nghèo còn dưới 15%; hàng năm giải quyết việc làm cho 5.000 lao động.. Ngày 26/7/2002UBND Tỉnh đã phê duyệt chương trình mục tiêu quố gia XĐGN Tỉnh đến năm 2005 và phân công nhiệm vụ cho các cấp, các ngành tổ chức thực hiện. Tỉnh đã chỉ đạo củng cố, kiện toàn ban Chỉ đạo các chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN từ Tỉnh tới cấp xã. Thành lập Ban giám sát cấp xã để tham gia quản lý các chương trình mục tiêu dự án trên địa bàn. Tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN từ tỉnh tới cơ sở, nhất là ở xã. Tăng cường cán bộ xuống các xã vùng cao xung yếu, nơi đời sống của đồng bào đang gặp khó khăn, giúp cấp ủy và chính quyền cơ sở đẩy mạnh phát triển sản xuất tạo việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo các vấn đề an ninh trật tự. Cùng với triển khai, thực hiện các chương trình quốc gia, Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh đã xây dựng những nghị quyết chuyên đề về phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, phát triển lâm nghiệp, xuất nhập khẩu, phát triển du lịch…Đặc biệt là Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội vùng cao với mục tiêu chương trình là hỗ trợ kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông dân sinh, thủy lợi nhỏ, nước sinh hoạt cho các bản đặc biệt khó khăn. Vai trò của các tổ chức quần chúng: Ủy ban mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân được phát huy hiệu quả với những nội dung và phương thức tham gia thiết thực như: phối hợp chặt chẽ với chính quyền để bình xét, đánh giá hộ nghèo; quản lý nguồn kinh phí đầu tư xây dựng các công trình tại địa bàn…trên cơ sở qui chế dân chủ Thứ hai, các dự án và chính sách XĐGN đã được thực hiện và đạt được những kết quả nhất định: Đã thực hiện 10 chương trình dự án với những kết quả cụ thể:  Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo: từ những nguồn vốn được huy động đã giải quyết cho 68.685 lượt hộ vay với số tiền 534.808 triệu đồng. ‚ Dự án khuyến nông, khuyến lâm hướng dẫn người nghèo cách làm ăn: với tổng kinh phí thực hiện trong giai đoạn 5.691 triệu đồng đã mở được 271 lớp tập huấn với 17.200 hộ được tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, trong đó có 9.540 hộ trực tiếp tham gia thực hiện các mô hình. ƒ Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng xã nghèo, đặc biệt khó khăn với tổng số vốn thực hiện trong giai đoạn là 138.991 triệu đồng để đầu tư xây dựng 406 công trình cơ sở hạ tầng cho 59 xã đặc biệt khó khăn, biên giới (nay là 68 xã). Trong đó: Giao thông nông thôn: 112 công trình, Vốn đầu tư: 45.423,8 triệu đồng; Nước sinh hoạt: 122 công trình - phục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25952.doc
Tài liệu liên quan