MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ 4
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN 4
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan 4
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan 4
I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu 5
I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện 5
I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá 6
I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp 7
I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật 7
I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính 8
I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ 8
I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU) 8
I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối 8
I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU 8
I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU 9
I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ 12
I.2.2.1. Quy định về hải quan 12
I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ 13
PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ 17
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 17
II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản 17
II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường 19
II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 25
II.2.1. Đối với thị trường EU 25
II.2.2. Đối với thị trường Mỹ 29
PHẦN III: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VƯỢT QUA HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO 32
THỊ TRƯỜNG EU VÀ MỸ 32
III.1. ĐỊNH HƯỚNG CHUNG 32
III.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 33
III.2.1. Chính sách tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu 33
III.2.2. Chính sách thị trường 34
III.2.3. Chính sách tạo vốn 34
III.2.4. Chính sách công nghệ 35
KẾT LUẬN 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
41 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3390 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được căn cứ trên bảng hệ thống điều hòa trong mô tả và mã hàng (HS – Harmonized tarriff System) của hội đồng hợp tác hải quan. Bảng này liệt kê các loại hàng hóa và mã số của chúng với mức thuế áp dụng. Giá tính thuế của Mỹ dựa trên cơ sở giá FOB chứ không phải giá CIF, áp dụng cho cả hàng xuất và nhập khẩu, do đó chi phí vận tải và bảo hiểm không bị gộp vào giá trị hàng hóa để tính thuế.
Hoa Kỳ ấn định thuế quan theo ba cách:
Thứ nhất, thuế tính theo giá (ad valorem ) là thuế tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá hàng hóa nhập khẩu. Cách tính này chiếm tỷ lệ lớn trong biểu thuế của Hoa Kỳ.
Thứ hai, thuế đặc định hay thuế theo lượng (specific) là thuế đánh theo trọng lượng hay dung tích hàng hóa.
Thứ ba, thuế hàng hóa được tính dựa trên cơ sở cả hai cách tính trên.
Ngoài ra có một số mặt hàng phải chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán (ngoài thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và các sản phẩm dầu khí.
b) Lệ phí
Lệ phí gồm có: phí xử lý hàng và phí bảo dưỡng cảng.
Phí xử lý hàng: được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho việc nhập hàng chính thức (tức là hàng có giá trị trên 1500 USD, gọi là hàng mậu dịch) liệt kê các loại phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của món hàng này là 19%. Cũng chi phí này nhưng cho loại hàng hóa nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà không phải do hải quan Mỹ làm và 8 USD do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu dịch lớn nhất là 2500 USD. Một vài mặt hàng như vải sợi không được nhập theo lối phi mậu dịch và nếu có thì giá trị tối đa cũng rất thấp.
Phí bảo dưỡng cảng: là phí tính theo giá trị % của chuyến tàu hàng nhập vào, phí này là 0,125% trên giá trị tiền hàng và trả hàng quý.
c) Hạn ngạch (quota)
Hạn ngạch là sự kiểm soát về mặt số lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế này theo luật của Quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý theo lệnh của Tổng thống. Có hai loại hạn ngạch:
Hạn ngạch ấn định theo mức thuế quan: loại này cho người nhập được đem vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với mức thuế được giảm bớt trong một khoảng thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng cho phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi…
Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của mặt hàng nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về hay cho vào kho để chờ đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới. Các mặt hàng này là: một vài loại cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp…
d) Giấy phép nhập khẩu
Những mặt hàng dưới đây khó đem vào Mỹ, muốn nhập phải xin giấy phép cơ quan có thẩm quyền: vũ khí đạn dược,rượu và thức uống có cồn, sản phẩm từ sữa, thuốc, vật liệu sinh học và côn trùng, các loại giống gây nguy hiểm hay có tính đe dọa, các chất độc hại, côn trùng, gia súc, thịt và các sản phẩm từ thịt, máy móc động cơ, các chất phống xạ và phản ứng hạt nhân.
Yêu cầu giấy phép nhập khẩu có thể là một biện pháp duy trì sự kiểm soát trong quản lý ngoại hối, quota, và thuế quan. Giấy phép nhập khẩu cũng có thể được sử dụng tương tự như quota để hạn chế số lượng hàng hóa nhập vào.Sự khác nhau giữa quota và giấy phép nhập khẩu là quota kiểm soát lượng hàng đưa vào một nước, còn chế độ giấy phép nhập khẩu mềm mại hơn. Nói chung quota chỉ nêu ra một giai đoạn thời gian nhất định, còn giấy phép thì hạn chế số lượng dựa trên cơ sở trù tính cho từng ngày.
e) Các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc
Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoại bán ở Mỹ đều phải tuân thủ những tiêu chuân về chất lượng an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này đều phải xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phải được xuất trình cùng lúc với hàng rào và người nhập phải nộp số tiền kí quỹ đảm bảo để chắc chắn là hàng phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi. Các mặt hàng thuộc loại này thường là: xe hơi và phụ tùng, sản phẩm men,đò điện gia dụng…
f) Ghi dấu hiệu
* Nước xuất xứ: Thông thường, người nhập hàng phải ghi rõ ở bên ngoài sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh của nước sản xuất hay chế tạo món hàng. Dấu hiệu phải ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và bền như chính tuổi thọ của sản phẩm. Nếu sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì người nhập phải trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản phẩm đó.
* Ghi dấu đặc biệt: Ngoài những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng hóa, có một số mặt hàng đòi hỏi phải có dấu hiệu đặc biệt như: chữ không được phai, chữ nổi, chữ lõm cho những mặt hàng như ống sắt hay thép, khung, xi lanh, các dụng cụ kỹ thuật, kéo kim…Có những cơ quan chỉ dẫn việc ghi những nhãn hiệu đặc biệt này. Trong trường hợp sản phẩm bị ghi sai làm người tiêu thụ hiểu nhầm sẽ không được nhập khẩu.
g) Các biện pháp hỗ trợ thương mại
* Thuế chống bán phá giá: Luật chống bán phá giá phân tích hành vi định giá của các nhà sản xuất nước ngoài. Việc phân tích luôn được thực hiện theo cách riêng biệt đối với từng công ty. Khái niệm đơn giản nhất về chống bán phá giá tại thị trường Mỹ là bán một sản phẩm ở Mỹ với mức giá thị trường thấp hơn giá của chính sản phẩm đó tại thị trường nước xuất khẩu. Mỹ sẽ áp dụng quy định tính tỷ lệ lợi nhuận đặc biệt đối với các nước mà họ coi là nền kinh tế phi thị trường như Trung Quốc, Việt Nam …Giá sản phẩm ở những nước này không được công nhận với lý do là nền kinh tế do Chính phủ điều tiết.
Một vấn đề tiếp theo được xem xét là việc xét duyệt hành chính nhằm xác định mức thuế phá giá thực tế mà người nhập khẩu phải nộp. Nếu chưa được xét duyệt, khoản tiền mặt đặt cọc nộp cho hải quan Mỹ sẽ chính thức là mức thuế chống bán phá giá. Việc định giá này có thể được thực hiện hàng năm. Còn một lệnh chống bán phá giá có thể có hiệu lực vô hạn, mặc dù cứ 5 năm một lần công tác đánh giá lại được tiến hành.
* Thuế chống trợ giá: Luật pháp Mỹ quy định những hình thức trợ giúp doanh nghiệp của Chính phủ bao gồm: trợ cấp tiền mặt,trợ cấp xuất khẩu, các khoản cho vay với lãi suất ưu đãi, các khoản bảo lãnh tín dụng, xóa nợ, giảm thuế. Giống như trong một vụ điều tra thuế chồng bán phá giá, số tiền trợ cấp được định lượng và tính theo tỷ lệ % để làm cơ sở áp thuế theo giá hàng vào tất cả các sản phẩm nhập khẩu được trợ giá.
PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004).
Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh. Qua bảng dưới ta cũng có thể thấy tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của nước ta trong mấy năm qua tăng rất nhanh, tăng từ 641,9 nghìn ha năm 2000 lên đến 959,9 nghìn ha năm 2005.
Bảng 1: Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản
giai đoạn 2000 – 2006
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006 (ước tính)
A.Tổng số diện tích nuôi trồng (nghìn ha)
641,9
755,2
797,7
867,6
920,1
959,9
1.Diện tích nước mặn, lợ
397,1
502,2
556,1
612,8
642,3
677,2
Nuôi cá
50,0
24,7
14,3
13,1
11,2
16,5
Nuôi tôm
324,1
454,9
509,6
574,9
598,0
616,9
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác
22,5
22,4
31,9
24,5
32,7
43,4
Ươm, nuôi giống thuỷ sản
0,5
0,2
0,3
0,3
0,4
0,4
2. Diện tích nước ngọt
244,8
253,0
241,6
254,8
277,8
282,7
Nuôi cá
225,4
228,9
232,3
245,9
267,4
272,1
Nuôi tôm
16,4
21,8
6,6
5,5
6,4
6,5
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác
2,2
0,5
0,4
1,0
1,1
1,2
Ươm, nuôi giống thuỷ sản
0,8
1,8
2,3
2,4
2,9
2,9
B. Tổng sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn)
2250,5
2434,7
2647,4
2859,2
3142,5
3432,8
3707,4
Khai thác
1660,9
1724,8
1802,6
1856,1
1940,0
1995,4
2155,0
Nuôi trồng
589,6
709,9
844,8
1003,1
1202,5
1437,4
1552,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Những nỗ lực trong việc đổi mới đã đem lại kết quả đáng khích lệ là ngành thuỷ sản phát triển toàn diện trên các mặt nuôi trồng, khai thác, chế biến và xuất khẩu.
Cũng từ đầu năm 2006 đến nay, toàn ngành đã khai thác được gần 3,5 triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó sản lượng thu được từ nuôi trồng thuỷ sản trên 1,5 triệu tấn và còn lại là từ khai thác biển. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của giá trị sản xuất thuỷ sản thời kỳ 1986 – 2006 đạt mức cao, gần 10%. Theo Bộ Thủy sản, tính đến ngày 24-11, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước đã đạt gần 3,1 tỉ USD, bằng 110,06% kế hoạch đề ra cho cả năm (3 tỉ USD) và tăng 24,45% so với cùng kỳ.
Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình tăng trưởng diện tích NTTS. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do năng suất nuôi trồng tăng lên.
Bảng 2:Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch sang các thị trường năm 2005
Thị trường
Số lượng(tấn)
Giá trị(USD)
Châu Á (không kể Nhật Bản)
131559.9
378035774
Châu Âu
115696.6
380904754
Mỹ
89025.6
617172589
Nhật Bản
123078.8
785875894
Thị trường khác
177018.9
576737747
Total
636379.8
2738726758
Nguồn: Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản
Tuy vậy, trong quá trình phát triển và nuôi trồng thủy sản cũng đã thể hiện nhiều bất cập như: diện tích nuôi tôm và diện tích thâm canh ở nhiều địa phương tăng quá nhanh, chưa có hoặc không theo quy hoạch đang diễn ra ở nhiều nơi. Việc quản lý chất lượng con giống và quản lý an toàn vệ sinh trong nuôi trồng thủy sản còn chưa đáp ứng yêu cầu, mặc dù đã đầu tư khá nhiều. Cả nước chỉ có 7 phòng kiểm nghiệm lớn,nhiều địa phương thiếu cán bộ và phương tiện kiểm tra. Nhiều doanh nghiệp thực hiện HACCP theo kiểu đối phó… Những bất cập trên đã tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái và hình thành nguy cơ cho sự phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững.
II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường
II.1.2.1. Đối với thị trường EU
Từ những năm 1980, sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường EU dưới một nhãn hiệu chung là Seaprodex. Ngay từ những năm đầu thâm nhập thị trường EU, sản phẩm thủy sản được xuất khẩu chung với các sản phẩm nông sản khác với số lượng ít nhưng đã gây được cảm tình của người tiêu dùng châu Âu. Vào năm 1985, 1986, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam SEAPRODEX đã được trao tặng danh hiệu “ Nhãn hiệu sản phẩm thủy sản uy tín”.
Nhận thức được rằng, quá trình tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là tiêu thụ với giá trị gia tăng thông qua xuất khẩu, là động lực bảo đảm cho sự tăng trưởng và phát triển của các hoạt động sản xuất khai thác và nuôi trồng, bên cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, ngành thuỷ sản đã chủ trương tích cực đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, trong đó EU là một trong những lựa chọn hàng đầu. Do đây là một thị trường lớn, ổn định, giá tốt nhưng có đòi hỏi rất cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là sau những vụ ngộ độc thực phẩm, nên để thu được thành công ở thị trường này, ngành đã xác định không ngừng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn sản phẩm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chiến lược xúc tiến thâm nhập thị trường. Ngành đã hướng dẫn các doanh nghiệp phấn đầu liên tục nhiền năm để tạo nên những bước chuyển biến tích cực theo hướng này. Từ Bộ Thuỷ sản đến các doanh nghiệp đã thực hiện hàng loạt biện pháp, từ cải thiện hệ thống thể chế, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao năng lực các cơ quan thẩm quyền, đổi mới cách tiếp cận trong quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm, cho đến đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cấp điều kiện sản xuất nhằm thoả mãn các điều tương đồng với các nước nhập khẩu về hệ thống pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp lý và điều kiện sản xuất của các doanh nghiệp.
Từ một hệ thống nhà máy chế biến lạc hậu và cũ kỹ, phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thị trường Nhật, với quyết tâm đổi mới cơ bản về điều kiện vệ sinh và công nghệ sản xuất, áp dụng các hệ thống đảm bảo chất lượng tiên tiến nhất theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ, gần 200 nhà máy chế biến thủy sản của Việt Nam đã gần như trải qua một cuộc lột xác với quá trình tiếp cận những phương pháp công nghệ, quản lý an toàn vệ sinh tiến tiến,... quá trình đổi mới trong chế biến phục vụ hoạt động xuất khẩu được tiến hành trên mọi mặt: từ nâng cấp điều kiện sản xuất; đổi mới công nghệ thiết bị; thay đổi cách tiếp cận trong quản lý an toàn, chất lượng theo HACCP, từ quản lý sản phẩm đầu cuối sang quản lý toàn bộ quá trình sản xuất; tăng cường hệ thống luật pháp; tăng cường năng lực hệ thống thanh, kiểm tra; đổi mới cách tiếp cận thị trường từ “bán cái mình có” sang “bán cái khách hàng cần”, chủ động tìm đến với khách hàng.
Việt Nam cũng đã thực hiện các chương trình giám sát dư lượng các hoá chất độc hại có trong thủy sản nuôi từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, giám sát vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ và được EU đánh giá cao. Và cùng với nguồn nguyên liệu nhiệt đới phong phú về chủng loại và khối lượng, chất lượng cao, thủy sản Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết để trở thành một đối tác lớn xuất khẩu thủy sản cho bạn hàng EU.
Những nỗ lực đó đã đem lại kết quả rõ rệt. Từ tháng 11/1999, Việt Nam được công nhận vào danh sách 1 (List A) các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU, sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã chính thức được công nhận về pháp lý để khẳng định được chỗ đứng tại 15 nước EU. Đến 01/01/2006, Việt Nam có 171 doanh nghiệp (trong tổng số 394 doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn của cả nước) đủ tiêu chuẩn được cấp phép (code) xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU.
Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số liệu thống kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam đạt 26,9 triệu USD, năm 1998 tăng lên 92,5 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Tin học Bộ Thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm 1999 đạt 89,1 triệu. Trong những năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị chững lại và có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng các chất kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu đôla, năm 2004 - 231,5 triệu đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là mặt hàng có kim ngạch đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 380,9 triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch
(triệuUSD)
71,8
90,7
73,7
116,7
231,5
380,9
Khối lượng (tấn)
20.290,8
26.659,1
28.612,8
38.186,8
73.459,2
115.696,6
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là cá, tôm, mực, bạch tuộc, cá ngừ, đồ hộp. Trong giai đoạn từ 2000-2001, mặt hàng có khối lượng nhập khẩu lớn nhất của EU từ Việt Nam là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông lạnh năm 2000 đạt 38,6 triệu đôla, năm 2001 - 43,6 triệu đôla. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam có giảm sút, chỉ còn 15,7 triệu đôla. Thời gian đó, một số lô tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang EU bị phát hiện có dư lượng kháng sinh cao quá mức cho phép và bị huỷ, gây thiệt hại lớn cho nhà xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn được công bố trong Sách Trắng của EU đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng EU quy định “cấm” sử dụng 16 loại hoá chất trong đó có chloramphenicol và nitrofuran có trong thực phẩm, tức phải hiểu là “dư lượng kháng sinh bằng 0”. Trong thực tế EU cho phép dư lượng kháng sinh dưới 0,3 phần tỷ là đạt yêu cầu.
Từ năm 2002, thương mại tôm giữa Việt Nam và EU đã có những dấu hiệu phục hồi và có sự gia tăng cả về giá trị và khối lượng tôm xuất sang thị trường này trong năm 2003 và 2004. Năm 2003, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 5316 tấn tôm sang EU, tăng 28% so với 4000 tấn năm 2002. Năm 2004, tôm Việt Nam đã thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới tại khu vực EU, khi các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam chuyển hướng từ Bỉ, thị trường truyền thống số một tại EU, sang các thị trường khác như Anh, Đức, Italy. Đối với mặt hàng tôm của Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, ngoài ra không bị cản trở bởi các biện pháp phi quan thuế nào khác.
Cá đông lạnh cũng là mặt hàng có mức tăng xuất khẩu sang EU đều và đáng kể. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường này đã vượt xa tôm không những về khối lượng mà cả về giá trị, vươn lên đứng trên Nhật (66 triệu USD năm 2003), chỉ sau Mỹ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004, xuất khẩu cá của Việt Nam sang EU tiếp tục tăng trưởng với giá trị xuất khẩu đạt 231,5 triệu USD, gấp 3 lần so với năm 2003, chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu thủy sản sang EU. Sản phẩm cá chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường này là cá tra, cá basa (pangasius) và cá ngừ.
II.1.2.2. Đối với thị trường Mỹ
Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh thổ thứ ba mà chủ yếu là Singapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng đáng kể.
Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng 12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển nhảy vọt. Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, đưa Hoa Kỳ trở thành một trong những thị trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam.
Bảng 4 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ
năm 2000 - 2004
Đơn vị : Nghìn USD
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
Tôm nước lợ
185,12
308,70
368,62
468,93
277,45
Cá sống
175
216
201
271
357
Cá sấy khô, ướp muối, hun khói …
374
596
722
1,005
3,549
Hải sản thân mềm, nhuyễn thể
8,17
6,16
5,82
7,44
6,18
Cá đông lạnh (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác)
6,80
10,22
9,23
10,70
14,71
Cá tươi (không bao gồm cá filê hoặc cá thịt khác)
9,59
16,64
24,67
23,66
25,38
Cá filê và cá thịt khác tươi, hoặc đông lạnh
32,61
41,72
69,17
56,45
78,36
Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ có sự điều chỉnh mạnh và Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999 và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ, tôm chiếm tỷ trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ (về khối lượng đứng hàng thứ 7). Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ.
Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt 654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do tác động của thuế chống bán phá giá.
Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Hoa Kỳ các mặt hàng như mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 602.9 triệu USD. Hoa Kỳ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD.
Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ có phần giảm sút, thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% thị phần xuất khẩu của Việt Nam.
II.2. CÁC HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN CHỦ YẾU CỦA EU VÀ MỸ ĐỐI THỦY SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
II.2.1. Đối với thị trường EU
Các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thủy sản vào thị trường EU, chủ yếu là các loại thủy sản nước ấm. Thị trường EU là môi trường lý tưởng cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam thể hiện sức mạnh của mình vì đây là thị trường tương đối ổn định. Nhưng để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này các nhà xuất khẩu của Việt Nam cần phải vượt qua những rào cản thương mại chủ yếu là hàng rào phi thuế quan ngày càng có xu hướng chặt chẽ hơn.
EU là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) nên có chế độ quản lý nhập khẩu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều những biện pháp phi thuế quan. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so với các cường quốc kinh tế lớn và có xu hướng giảm nhưng EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì có những rào cản kỹ thuật và hàng rào an toàn thực phẩm, dịch bệnh thủy sản rất nghiêm ngặt.Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi ngươi tiêu dùng của EU, được cụ thể hóa bằng năm tiêu chuẩn của sản phẩm là: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn về lao động.
* Đối với tiêu chuẩn chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy, các nước đang phát triển ở Châu Á trong đó có Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hóa của những doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. ISO 9000 là hệ thống quản lý chất lượng. Nói một cách khái quát, ISO 9000 do tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra để giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm, để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất, phù hợp với giá thành.
* Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: các công ty chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bặt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thủy, hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU. Dần dần HACCP trở thành đòi hỏi chung của các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển nếu không muốn mất thị trường, chỉ còn cách áp dụng hệ thống HACCP trong sản xuất để thuyết phục các nhà nhập khẩu EU rằng họ đã đi theo đúng các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừa nguy cơ này.
* Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan trọng số một trong việc lưu thông hàng hóa trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan tới sức khỏe mà người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của EU.
* Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trường: thị trường EU yêu cầu hàng hóa có liên quan đến m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0704.doc