Công nhân ghi công việc mình làm trong từng ngày, định mức lao động cho bước công việc, số lượng sản lượng làm ra và thời gian thực tế tiêu hao. Qua đó xác định tỷ lệ % hoàn thành mức và sản lượng vượt so với định mức.
Phần ghi chú là phần công nhân ghi hết những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình thực hiện công việc. Để đảm bảo chính xác, công nhân phải ghi hàng ngày vào cuối ca hoặc đầu giờ làm việc của ngày hôm sau và phải có sự kiểm tra của tổ trưởng tổ sản xuất hoặc nhân viên thống kê lao động trong phân xưởng.
Đến cuối tháng nhân viên thống kê của phân xưởng sẽ tập hợp các phiếu ghi năng suất lao động cá nhân và ghi lên bảng tổng hợp thanh toán lương sản phẩm cho từng công nhân.
62 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những lý luận chung về công tác quản lýđịnh mức lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có nhiệm vụ sửa lớn nhà xưởng ,xây dựng mới nhà xưởng. .
Như vậy nhiệm vụ của từng phân xưởng có ảnh hưởng rất lớn đến xây dựng và thực hiện định mức lao động .Định mức cho 1 sản phẩm được xây dựng trên cơ sở tổng hợp đinh mức của các bước công việc được làm qua các phân xưởng theo quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm đó.
7.Đặc điểm về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Công ty có 1 giám đốc ,2 phó giám đốc ,và 8 phòng ban .Trong đó giám đốc toàn quyền chỉ đạo và chịu trách nhiệm về mọi mặt trước tổng công ty máy và thiết bị công nghiệp .Các phó giám đốc kĩ thuật và kinh doanh sẽ giúp cho giám đốc tìm nguồn cung cấp vật liệu ,mở rộng thị trường ,.. Tuy nhiên giám đốc vẫn trực tiếp xuống chỉ đạo và kiểm tra thường xuyên mỗi ngày tại các phân xưởng ,điều này giúp giám đốc lắm được các thông tin phản hồi từ công nhân một cách nhanh nhất .Đây cũng là điểm thuận lợi cho công tác định mức lao động ở công ty .8 phòng ban đều có chức năng, nhiệm vụ riêng .Đó là các phòng tổ chức lao động bảo vệ ,phòng tài vụ kế toán ,phòng kế toán vật tư,phòng KCS, phòng kĩ thuật công nghệ ,cơ điện và phòng kinh doanh
Trong đó phòng tổ chức lao động bảo vệ và phòng công nghệ là 2 phòng có liên quan đến công tác xây dựng ,thực hiện sửa đổi mức.
Phòng tổ chức lao động bảo vệ ngoài trách nhiệm bảo vệ tài sản của Công ty ,quản lý lao động từ khi tiếp nhận ,giải quyết việc làm ,thực hiện các chế độ chính sách ,tham mưu giúp việc về công tác tổ chức biên chế sử dụng lao động, ngoài ra còn có nhiệm vụ xây dựng định mức ,quản lý định mức, xây dựng kế hoạch .
Phòng công nghệ :phụ trách vấn đề sản phẩm , nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới ,chuẩn bị các bản vẽ, quy trình gia công các sản phẩm,..
Qua biểu số cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng phát triển.Để có được những kết quả như vậy là do công ty đã chọn cho mình hướng đi đúng ,nắm bắt được nhu cầu của thị trường từ đó đáp ứng kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng .
2. Phân tích thực trạng công tác định mức lao đông ở công ty
DCCKXK
Biểu số 5 :Hệ thống định mức lao động cho một số côngviệc
STT
Công việc
Định mức
thời gian
Định mức sản lượng
1
Tiện vít M12,kìm KB30
3’06’’
120
2
Phay răng mỏ tĩnh kìm KB30
1’55’’
250
3
Phay răng mỏ động kìm KB30
3’26’’
125
4
Tiện bước 1 thanh giảm xóc
6’34’’
254
5
Tiện cần khởi động
26’30’’
19
6
Tiện mép gờ tuýp puzi FD110
1’22’’
1176
7
Phay đuôi kìm 180 mạ
1’04’’
139
8
Vát mép 2 đầu tuýp puzi VMEP
2’00’’
606
9
Tiện bước 1 thanh hãm phanh
5’57’’
205
10
Sửa via 2 đầu thanh giảm xóc
55’’
1340
Để thấy được thực trạng công tác quản lý định lao động ở công ty chúng ta phải làm rõ phương pháp xây dựng mức ,công tác tổ chức triển khai thực hiện mức và công tác điều chỉnh mức diễn ra như thế nào ,chịu tác động bởi nhân tố gì
2.1 Phương pháp xây dựng mức .
2.1.1 Những căn cứ để xây dựng mức :
- Bước công việc :
Căn cứ vào bản vẽ kỹ thuật từ phòng công nghệ ,quy trình chế tạo sản phẩm chia thành các bước công việc theo mức độ tham gia của công nhân vào quá trình hoàn thành bước công việc . Bước công việc phân thành bước công việc nửa thủ công nửa cơ khí ,bước công việc cơ khí và tự động hoá .Việc phân chia này là phù hợpvới tính chất công nghệ sản xuất ,loại hình sản xuất đang áp dụng ở công ty .Bước côngviệc được xác định là đối tượng trực tiếp để định mức kỹ thuật lao động .Trong xây dựng mức cán bộ định mức không phân tích đến tính hợp lý của các thao tác của người công nhân trong sản xuất mà coi như phương pháp là hợp lý và không phải định mức kỹ thuật lao động cho từng thao tác.Tuy cách làm này giúp cho số lượng mức giao cho công nhân trong công ty có phần hạn chế ,quản lý mức có phần thuận lợi nhưng không thể hiện được các tác dụng của mức lao động .Do đó không xác định được những bất hợp lý trong quá trình thực hiện bước công việc ,nguyên nhân gây ra lãng phí thời gian lao động .
- Kết cáu thời gian làm việc của công nhân ở công ty hiện nay :
Thực tế các loại thời gian hao phí ở công ty chưa được nhận định rõ ràng .
Thứ nhất : đó là thời gian chuẩn kết
Theo đặc điểm của loại thời gian này là hao phí 1 lần cho cả nhóm sản phẩm ,chỉ xảy ra khi bắt đầu và kết thúc công việc ,không phụ thuộc vào số lượng sản phẩm của loạt và thời gian của ca làm việc .Để xác định 1 cách chính xác thời gian chuẩn kết đòi hỏi cán bộ định mức phải hiểu rõ về nó từ đó xác định thời gian dùng vào việc gì là thời gian chuẩn kết ,nhưng ở đây không có sự nhận định rõ ràng về điều này .
Thứ hai : là thời gian phục vụ .
Công tác tổ chức và phục vụ nơi làm việc ở công ty chưa được tốt ,máy móc hao mòn lớn .Điều này làm cán bộ định mức không đánh giá được thực trạng công tác phục vụ diễn ra như thế nào.
Thứ ba : là thời gian gia công :
Thời gian gia công chủ yếu là thời gian tiện ,phay ,mài ,mạ .Thời gian gia công chiếm tỷ trọng lớn trong thời gian ngày làm việc .Tuy nhiên để có thể tính chính xác được thời gian gia công cần phải xác định được thời gian gia công chính ,thời gian gia công phụ.
Thứ tư : là thời gian nghỉ vì nhu cầu
Loại thời gian này được xác định bao gồm ;thời gian nghỉ uống nước , đi vệ sinh, nghỉ trưa giữa ca làm việc.
Việc nhận định như vậy là đúng, nhưng tỷ trọng của nó trong thời gian làm việc thì không đựợc xác định (chỉ trừ thời gian nghỉ trưa một giờ ), còn thời gian nghỉ uống nước, đi vệ sinh không được xác định rõ.
Về thời gian lãng phí do công nhân, do nguyên nhân kĩ thuật, tổ chức thì không được tính đến.
Như vậy, trong kết cấu thời gian làm việc trong ngày của người công nhân, thời gian có ích được nhìn nhận, còn thời gian lãng phí được coi như không có. Cách nhìn nhận này là không hợp lí vì trong thực tế luôn luôn tồn tại hai loại thời gian này, chỉ có một điều là phải tìm mọi biện pháp để khắc phục thời gian lãng phí.
- Trình độ lao động, hình thức phân công lao động ở công ty
Năm 98 : công nhân kỹ thuật bậc 3 - 4 là 387 người, cấp thợ bình quân 3,7. Số lao động dưới 30 tuổi chiếm khoảng 55% tổng số lao động. Đây là những thuận lợi lớn cho công ty trong việc hoàn thành định mức vì ở độ tuổi này người lao động đang rất sung sức, làm việc tận tình với quyết tâm cao. Hơn nữa với cấp thợ bình quân 3,7 chứng tỏ trình độ nghiệp vụ chuyên môn của công nhân đã tạo điều kiện cho việc xây dựng và thực hiện mức lao động.
Để sử dụng tốt chất lượng lao động công ty đã áp dụng hình thức phân công lao động theo nghề ( theo tính chất công nghệ ) là chủ yếu. Tức là sắp xếp những người có cùng chuyên môn nghiệp vụ, cùng một nghề vào một nhóm ( một tổ ). Căn cứ cơ bản là dựa vào tính chất quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm. Đặc điểm quy trình chế tạo sản phẩm ở công ty phải trải qua nhiều bước công việc. Mỗi bước công việc được thực hiện ở một phân xưởng. Do đó trình độ chuyên môn hoá của người lao động ở mức cao, điều này giúp cho người công nhân nhanh chóng nắm bắt được kỹ năng, kỹ xảo của nghề nghiệp ,đẩy mạnh phong trào thi đua trong công ty. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo mức xây dựng tiên tiến, người công nhân có khả năng đạt và vượt được mức đặt ra.
Tuy nhiên sự hợp tác giữa các bộ phận quản lý với các xưởng, giữa các phân xưởng với nhau và trong cùng một phân xưởng chưa chặt chẽ. Điều này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng và thực hiện mức.
2.1.2 Những điều kiện đảm bảo xây dựng và thực hiện mức:
- Công tác giáo dục công nhân:
Đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo xây dựng và thực hiện mức. Công tác định mức lao động có quan hệ trực tiếp đến quyền lợi của người lao động nhất là công nhân sản xuất. Nếu như người công nhân không nhận thấy vai trò quan trọng của định mức lao động trong sản xuất thì họ sẽ không quan tâm đến định mức lao động, từ đó sẽ không phấn đấu thực hiện nhằm nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập của mình.
Trong công ty dụng cụ cơ khí xuất khẩu, vai trò của công tác giáo dục công nhân không được quan tâm một cách đúng mức.Người cán bộ định mức cho rằng chỉ cần xây dựng mức, khi áp dụng vào sản xuất người công nhân bắt buộc phải chấp hành - quan điểm này hoàn toàn sai.
Thực tế cho thấy vì không đánh giá đúng vai trò của công tác giáo dục công nhân nên trong quá trình xây dựng và thực hiện mức dã gặp phải nhiều cản trở rất lớn.
Thứ nhất: khi tiến hành xây dựng mức, người công nhân tỏ thái độ không hợp tác thể hiện ở chỗ: họ không làm việc đúng khả năng của mình, các thao tác làm việc nhiều khi không đúng với yêu cầu kĩ thuật và trình tự thực hiện công việc.Đại bộ phận cho rằng: “mức xây dựng càng thấp thì tiền lương của người công nhân càng cao”.
Thứ hai: khi mức xây dựng được áp dụng vào sản xuất, người công nhân tỏ ra nghi ngờ độ chính xác của nó và không hưởng ứng thực hiện,... Do đó nhiều mức khi áp dụng vào thực tế không phát huy được tác dụng của nó “...là cơ sở để xác định rõ trách nhiệm và đánh giá kết quả lao động của mỗi người, để tăng năng suất lao động,...”.
Tóm lại : do công ty không làm tốt công tác giáo dục công nhân, đó là không phổ biến cho họ phương pháp làm việc hiệu quả, trang bị những hiểu biết về vai trò của định mức lao động trong sản xuất dẫn đến kết quả là mức xây dựng thiếu chính xác, hợp lí, khi đưa vào áp dụng trong sản xuất không phát huy được tác dụng.
- Tổ chức và phục vụ nơi làm việc
+ Tổ chức nơi làm việc là tập hợp các biện pháp nhằm đảm bảo cho nơi làm việc có tất cả các điều kiện vật chất kĩ thuật cần thiết để tiến hành quá trình sản xuất đạt hiệu quả lao động cao nhất và phù hợp với tâm sinh lí người lao động.
Giữa nơi làm việc của cán bộ và các phân xưởng được bố trí cách biệt làm cho nơi làm việc của cán bộ quản lí được yên tĩnh, sạch sẽ.
Khoảng cách giữa các phân xưởng được bố trí gần nhau tạo điều kiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm giữa các phân xưởng được nhanh chóng và thuận tiện.
Trong từng phân xưởng, máy móc thiết bị được trang bị đầy đủ, bố trí gọn gàng theo ba hàng dọc. Các lối đi trong phân xưởng rộng rãi, các giá để vật liệu được xếp gọn gàng phù hợp với đặc điểm của quá trình sản xuất.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo ra một nơi làm việc có trật tự, khoa học. Tuy nhiên, có một khó khăn đối với người công nhân khi vận hành máy móc là do máy móc thiết bị ở công ty chủ yếu là do Liên Xô, Hungari sản xuất so với tầm vóc nhỏ bé của người Việt Nam đã gây ra một số trở ngại ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân.
Muốn khai thác tốt các điều kiện vật chất kĩ thuật ở nơi làm việc và những điều kiện tổ chức nơi làm việc đã tạo ra thì phải tổ chức công tác phục vụ nơi làm việc.
+ Phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các phương tiện vật chất kĩ thuật cần thiết để tiến hành hoạt động sản xuất có hiệu quả.
Chức năng phục vụ ở công ty rất đa dạng, hệ thống phục vụ bao gồm các chức năng sau:
Thứ nhất: chức năng phục vụ nguyên vật liệu, bán thành phẩm.
Qua qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm ở công ty, chúng ta nhận thấy rằng tất cả nguyên vật liệu phục vụ sản xuất đều qua phân xưởng rèn dập để tạo phôi, sau đó mới chuyển xuống các phân xưởng cơ khí. Việc cung cấp nguyên vật liệu cho phân xưởng rèn dập tạo phôi luôn đầy đủ, nhưng quá trình sản xuất ở đây không được tổ chức hợp lý dẫn đến cung cấp phôi liệu cho các phân xưởng cơ khí không đồng bộ. Tình trạng chờ phôi liệu diễn ra thường xuyên, một phần là do phân xưởng rèn dập chưa chuyển xuống và một phần do khâu tổ chức cấp phát phôi liệu ngay tại các phân xưởng cơ khí không hợp lý.
Trong các phân xưởng tình trạng công nhân chính phải đi nhận vật liệu tại kho là phổ biến ( chỉ có một vài bộ phận được cung cấp vật liệu tại nơi làm việc ) mà kho vật liệu thường ở cách xa nơi làm việc từ 60m – 100m do đó mất rất nhiều thời gian vào việc đi nhận phôi liệu.
Như vậy trong giai đoạn tới công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc ở các phân xưởng cần phải được tổ chức chặt chẽ hơn, có như vậy năng xuất lao động mới được tăng lên.
Thứ hai : Chức năng bảo dưỡng sửa chữa
Chế độ bảo dưỡng sửa chữa ở công ty được thực hiện chưa được tốt. Ngoài công việc tra dầu mỡ, lau máy được giao cho công nhân chính làm trong ca làm việc, còn chỉ khi máy móc hỏng mới có cán bộ đến xem xét sửa chữa. Nếu việc sửa chữa đơn giản do nhân viên sửa chữa ở phân xưởng đảm nhiệm, còn nếu phức tạp thì giao cho nhân viên kỹ thuật ở phân xưởng cơ điện. Tuy nhiên hiệu quả của những công việc sửa chữa này không cao.
Mặt khác do máy móc thiết bị ở công ty đã hao mòn khá lớn lên chế độ vận hành không được đảm bảo, thời gian máy hỏng, trục trặc nhiều.
Nhìn chung việc chuẩn bị các điều kiện vật chất như: Máy móc thiết bị nguyên vật liệu chưa tốt do đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến công việc xây dựng và thực hiện mức ở công ty.
- Tổ chức công tác ghi chép thống kê:
Việc ghi chép, thống kê trong xây dựng và thực hiện mức do cán bộ định mức đảm nhận. Người cán bộ này sẽ theo rõi tình hình thực hiện mức thông qua bảng tiền lương cuối tháng của công nhân. Từ đó sẽ xem xét đánh giá mức có hợp lý không. Việc thống kê tình hình thực hiện mức được tiến hành hàng tháng, quý. Kết quả thu được nhiều khi không phản ánh được thực trạng tình hình thực hiện mức như thế nào.
- Phương tiện dụng cụ xây dựng mức: ở công ty hiện nay các phương tiện dụng cụ xây dựng mức không được đảm bảo cung cấp đầy đủ và kịp thời nên ảnh hưởng rất lớn đến công việc phục vụ cho quá trình xây dựng và thực hiện mức.
2.1.3Phương pháp xây dựng mức:
Hiện nay công ty đã có hệ thống mức cho 100% sản phẩm của mình. Hệ thống mức này được điều chỉnh từ hệ thống mức cũ ( Xây dựng bằng phương pháp khảo sát bấm giờ tại nơi làm việc ) việc điều chỉnh do một cán bộ định mức của phòng tổ chức lao động và bảo vệ thực hiện trên cơ sở quy trình kỹ thuật do phòng công nghệ đề xuất. Vấn đề ở chỗ cán bộ định mức điều chỉnh, xây dựng mức mới theo kinh nghiệm thực tế của mình mà không tiến hành điều chỉnh, xây dựng mức mới theo các phương pháp phân tích, khảo sát khoa học.
Quá trình xây dựng định mức lao động ở công ty cho một sản phẩm mới như sau:
Ví dụ : xây dựng mức lao động cho bước công việc tiện cần khởi động.
Cán bộ định mức nhận bản vẽ kỹ thuật từ phòng công nghệ. Qua bản vẽ thấy được yêu cầu về cấp bậc công việc, hình dáng kích thước, yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm. Sau đó cán bộ định mức sẽ chọn công nhân theo cấp bậc công việc quy định và cho tiến hành sản xuất thử, đến cuối ca đếm số sản phẩm thu được, ở bước công việc này là 17sp/ca.
Mức thời gian quy định cho bứơc công việc được tính như sau:
Tca
Mtg = ––––
SLca
Trong đó: Mtg : mức thời gian cho bước công việc
Tca : thời gian làm việc trong ca
Slca : số sản phẩm làm được trong ca
Ta có:
480 * 60
Mtg = ––––– = 1694 (giây/sp) = 28’14”
17
Mức sản lượng được tính:
17
Msl = 105 * –––– = 18(sp)
100
Như vậy mức sản lượng và mức thời gain được xây dựng cho bước công việc tiện cần khởi động là: Mtg = 28’14”/1sp
Msl = 18sp/1ca
Trong hệ thống mức của công ty không có mức phục vụ vì theo đặc điểm của máy móc thiết bị cứ một máy thì có một công nhân vận hành cho dù đó là sản xuất loại sản phẩm nào. Cho nên dù không xây dựng mức phục vụ nhưng cũng đã ngầm hiểu là số công nhân phục vụ một thiết bị là một hay ngược lại.
Qua cách xây dựng mức thời gian, mức sản lượng như trên đã phản ánh được thực trạng công tác định mức ở công ty diễn ra như thế nào.
- Mức thời gian:
Việc xác định mức thời gian theo công thức:
Tca
Mtg = ––––
SLca
là không có căn cứ ,bởi vì qua cách tính Tca / Slca chỉ xác định được thời gian trung bình để chế tạo một sản phẩm trong ca mà thôi.
Hơn nữa chỉ quan sát một lần, quan sát một công nhân có cấp bậc đúng theo yêu cầu của bước công việc mà đã căn cứ vào đây để tính Mtg là không hợp lý. Để xây dựng mức thời gian đòi hỏi phải quan sát nhiều lần, quan sát nhiều công nhân có năng suất trung bình tiên tiến thì số liệu thu được mới chính xác từ đó mức sẽ đảm bảo tính tiên tiến hiện thực.
- Mức sản lượng: ở đây mức sản lượng được xác định bằng 105% sản phẩm sản xuất được trong ca. Cách tính này hoàn toàn không có căn cứ khoa học mà chỉ dựa trên kinh nghiệm của người định mức mà thôi.
Tóm lại, phương pháp xây dựng mức ở công ty chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của cán bộ định mức mà không xác định theo các phương pháp khoa học dẫn đến mức xây dựng không đảm bảo tính chính xác tiên tiến.
2.2 Tổ chức triển khai thực hiện mức:
Mức xây dựng sau khi được Giám đốc ký quyết định ban hành sẽ được áp dụng vào sản xuất. Kèm theo quyết định của giám đốc là thông báo trong đó nêu rõ ngày tháng áp dụng , mức xây dựng cho bước công việc nào, ở đâu, mức thời gian, mức sản lượng được xác định bằng bao nhiêu.
Thông báo này được gửi tới phòng tổ chức lao động bảo vệ, phòng kỹ thuật và các phân xưởng liên quan.
Tuy nhiên trong thông báo không đề cập đến những điều kiện khi triển khai thực hiện mức như:
- Cần đảm bảo các điều kiện tổ chức kỹ thuật đúng như quy định khi tiến hành xây dựng mức để tạo điều kiện cho công nhân đạt và vượt mức
- Hướng dẫn sản xuất cho công nhân: giới thiệu và chỉ rõ cho công nhân phương pháp làm việc để đạt và vượt mức với chất lượng cao.Giới thiệu qui trình công nghệ hợp lý ( trình tự thực hiện các thao tác cách thực hiện từng thao tác, chế độ làm việc của máy móc thiết bị, công cụ dụng cụ, đồ gá lắp cần thiết để hoàn thành bước công việc ) và phương pháp kinh nghiệm để tránh làm ra hàng xấu, hàng hỏng . . .
- Thời gian công nhân tiến hành sản xuất thử để làm quen mức sau đó mới áp dụng chính thức.
Để theo dõi tình hình thực hiện mức, cán bộ định mức không theo dõi bằng bảng biểu mà căn cứ vào tiền lương cuối tháng của công nhân sản xuất và thái độ của họ đối với việc thực hiện định mức để có sự đánh giá và điều chỉnh mức. Do đó cách làm này không khoa học, không phản ánh được thực tế người công nhân thực hiện mức như thế nào: có đạt mức không ? tỷ lệ thực hiện mức bằng bao nhiêu ? tình hình sử dụng thời gian làm việc của công nhân như thế nào .
Chứng minh mức hiện hành không tiên tiến, khoa học ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu tình hình sử dụng thời gian làm việc ở phân xưởng cơ khí 1 làm dẫn chứng bằng cách chụp ảnh ngày làm việc của 3 công nhân : Nam, Kiên, Hà. Đây là 3 công nhân có năng suất lao động trung bình, thực hiện ba bước công việc khác nhau: Phay răng mỏ tĩnh, phay răng mỏ động kìm KB30 và tiện cần khởi động.
Phiếu chụp ảnh ngày làm việc
(cho một công nhân)
Công ty dụng cụ CKXK Hà nội
Phân xưởng cơ khí I
Tổ nguội phay
Ngày quan sát 15,16,17/4
Thời gian quan sát
7h30-12h
13h-16h30
Thời gian 8h
Người quan sát
Lê Thuý Thanh
Công nhân
Công việc
Máy (thiết bị)
Họ và tên
Nguyễn Văn Nam
Nghề nghiệp: Thợ phay
Cấp bậc 3/7
Bước công việc: phay thăng mỏ tĩnh kìm KB 30
Bậc công việc: 3/7
Kiểu máy A62-LX
Hoạt động bình thường
Tổ chức phục vụ nơi làm việc
-Tình hình chung : Đảm bảo có đủ dụng cụ cần thiết, dao cùn tự đi mài
- Chế độ cung cấp vật liệu : Công nhân phải đi nhận phôi liệu tại kho, cách nơi làm việc 80m.
- Chế độ điều chỉnh chăm sóc: máy hỏng có công nhân đến sửa
-ánh sáng tự nhiên và 1 bóng điện 100W
- Thoáng gió: nhiệt độ 20oC - 27oC
Phiếu chụp ảnh ngày làm việc
cho công việc Phay răng mỏ tĩnh kìm KB30
Ngày 15 / 4
STT
Tên các hao phí
Thời gian tức thời
Thời hạn
Kí hiệu
Ghi chú
1
Bắt đầu ghi chép
7h30’
0
2
Đến nơi làm muộn
7h35’
5
Tlpcn 1
3
Bàn bạc máy bên cạnh
7h37’
2
Tlpcn 2
4
Đi lấy phôi
7h47’
10
Tck 1
5
Lắp và phay
8h20’
33
Tgc 1
6
Chỉnh máy
8h26’
6
Tpvkt 1
7
Nghỉ nói chuyện
8h40’
14
T trùng
Trong khi làm việc
8
Lắp và phay
8h55’
29
Tgc2
9
Nghỉ uống nước
9h02’
7
Tnc 1
10
Lắp và phay
9h31’
29
Tgc 3
11
Máy trục trặc
9h36’
5
Tlpkt1
12
Lắp và phay
10h00’
24
Tgc4
13
Tháo dao đi mài
10h15’
15
Tpvkt2
14
Lắp và phay
10h50’
35
Tgc5
15
Chỉnh đường nước sối
10h55’
5
Tpvkt3
16
Lắp và phay
11h15’
20
Tgc6
17
Công nhân nói chuyện
11h20’
5
Tlpcn3
18
Lắp và phay
11h40’
20
Tgc7
19
Công nhân nghỉ sớm
12h00’
20
Tlpcn4
20
Nghỉ trưa
12h-13h
21
Vào muộn
13h02’
2
Tlpcn5
22
Chờ phôi
13h08’
6
Tlptc1
23
Phay
13h40’
32
Tgc8
24
Nói chuyện
13h43’
3
Tlpcn6
25
Phay
14h10’
27
Tgc9
26
Tra dầu vào máy
14h20’
10
Tpvkt4
27
Lắp và phay
14h50’
30
Tgc10
28
Đi vệ sinh và uống nước
15h03’
13
Tnc2
29
Lắp và phay
15h32’
29
Tgc11
30
Mài dao phay
15h43’
11
Tpvkt5
31
Hết phôi phải chờ
15h57’
14
Tlptc2
32
Phay
16h19’
22
Tgc12
33
Giao sản phẩm ,lau máy
16h27’
8
Tck2
34
Nghỉ sớm
16h30’
3
Tlpcn7
Các bước công việc và các ngày khảo sát khác tiến hành tương tự .
Dựa vào kí hiệu phân loại hao phí thời gian trên các phiếu chụp ảnh ta tiến hành tổng hợp thời gian hao phí thực tế
Căn cứ vào bảng tổng hợp thời gian hao phí thực tế, tính hao phí bình quân 3 ngày khảo sát để xác định hao phí trung bình cho mỗi loại thời gian và tính tỷ lệ % của nó trong tổng thời gian quan sát
Biểu số 8:Tổng hợp thời gian hao phí trung bình từng loại.
Kí hiệu
Công nhân Nam
(Phay răng mỏ tĩnh)
Công nhân kiên
(Phay răng mỏ động)
Công nhân Hà
(Tiện cần khởi động)
Lượng thời gian
% so với thời gian quan sát
Lượng thời gian
% so với thời gian quan sát
Lượng thời gian
% so với thời gian quan sát
Tck
20,67
4,31 %
18,33
3,82 %
27,33
5,69 %
Tpv
30,67
6,39 %
35,67
7,43 %
62,33
12,99 %
Tnc
22,67
4,72 %
13,33
2,78 %
21,67
4,51 %
Tlpcn
49,33
10,28 %
52,00
10,83 %
31,00
6,46 %
Tlpkt
13,00
2,7 %
15,00
3,13 %
9,00
1,88 %
Tlptc
13,33
2,78 %
16,67
3,47 %
Tgc
330,33
68,82 %
345,67
72,01 %
312,00
65 %
480,00
100 %
480,00
100 %
480,00
100 %
Qua bảng phân tích tình hình sử dụng thời gian của công nhân,ta tính được:
Với công nhân Nam :
-Hệ số thời gian gia công
Tgc 330,33
Hgc = –– = ––– = 0,6882 hay 68,82%
T 480
-Hệ số khả năng sử dụng ngày lao động
Tổng thời gian tiết kiệm 49,33 +13 + 13,33
Hld = –––––––––– = –––––––– = 0,1576 hay 15,76%
T 480
-Hệ số khả năng tăng năng suất lao động
Hld 15,76
Hw = –––– = ––––– = 0,1871 hay 18,71%
100 - Hld 100-15,76
Theo tài liệu khảo sát trong ngày 15, 16,17/4,sản lượng trung bình của công nhân Nam là 270 cái/ca với định mức cũ 250 cái/ca. Như vậy tỷ lệ hoàn thành mức thực tế là :
270
––– * 100 = 1,08%
250
Cũng tính toán tương tự cho công nhân Kiên và Hà , kết quả thu được trong biểu số 9:
Biểu số 9:Tình hình thực hiện định mức
Tên công nhân
Sản lượng ca trung bình 3 ngày quan sát
Định mức sản lượng
(cái / ca)
Tỷ lệ hoàn thành mức
Hệ số thời gian gia công
Hệ số khả năng sử dụng ngày lao động
Hệ số khả năng tăng năng suất lao động
Nam
270
250
108 %
68,80 %
15,76 %
18,71 %
Kiên
153
125
122,4%
72,01 %
13,9 %
16,23 %
Hà
34
19
178,9%
65 %
11,81%
13,39 %
Qua sự phân tích ở trên ,căn cứ vào hệ thống mức ở công ty chúng ta thấy mức sản lượng ở công ty xây dựng hiện thời quá thấp (hay mức thời gain quá cao) cho các bước công việc tiện , phay dẫn đến hậu quả :
-Tính đơn giá không đúng giữa các bước công việc do đó ảnh hưởng tới nguyên tắc phân phối theo lao động
-Làm tăng giá thành sản phẩm
-Tăng quỹ lương
Người công nhân dễ dàng hoàn thành vựơt mức đặt ra ngay khi thời gian lãng phí còn chiếm khá lớn ,
ví dụ như trường hợp của công nhân Hà :
Tlpcn = 6,46 % thời gian ca
Tlpkt = 1,88 % thời gian ca
Tlptc = 3,47 % thời gian ca
Vậy mà công nhân Hà vẫn hoàn thành vượt mức 178,95 % .Việc dễ dàng vượt mức đặt ra khiến công nhân không tìm tòi sáng tạo ,nâng cao năng suất lao động ,...
Nguyên nhân của mức sản lượng quá thấp (mức thời gian quá cao) chính là do phương pháp xây dựng mức không khoa học dựa vào kinh nghiệm,suy nghĩ chủ quan của cán bộ định mức.
2.3 Công tác điều chỉnh mức :
Việc đIều chỉnh mức được thực hiện như sau :
Trước tiên căn cứ vào tiền lương sản phẩm của công nhân :
TLsp = ĐG x SL
Trong đó : TLsp : là tiền lương sản phẩm của công nhân cuối tháng
ĐG : là đơn giá sản phẩm .
SL : là số lượng sản phẩm làm ra trong tháng .
Sau 3 tháng ,cán bộ định mức tiến hành kiểm tra sổ trả lương cho công nhân của nhân viên thống kê các phân xưởng. Ví dụ : Đơn giá của bước công việc tiện cần khởi động là 2200 đồng.Công nhân Hà làm trong 26 ngày của tháng 3 được 328 cái.Như vậy tiền lương của công nhân Hà là :
TL = 2200 x 328 = 7216 Nhưng cũng trong tháng 3 làm việc 26 ngày công nhân Hằng thực hiện phay phẳng ,phay nghiêng kìm đIện 160 được 9000 cáI với đơn giá 66 đồng sễ được lĩnh :
TL = 9000 x 66 = 594000 (đồng).
Như vậy công nhân Hằng sẽ phản ứng vì cùng làm việc với cường độ như nhau ,bậc thợ 3 / 7 mà công nhân Hằng được hưởng lương ít hơn .
Sau khi xem xét cán bộ định mức sẽ giảm mức thời gian đối với công nhân Hà (vì đối với công nhân Hằng định mức này đã được áp dụng từ trước cán bộ định mức sẽ không thay đổi mà chỉ thay đổi định mức mới áp dụng cho sản phẩm công nhân Hà sản xuất) .
Cán bộ định mức đIều chỉnh sao cho thu nhập của công nhân Hà xấp xỉ bằng thu nhập của công nhân Hằng và bắt đầu ước chừng : tăng mức sản lượng tức là giảm mức thời gian , giảm mức thời gian thì kéo theo đơn giá cũng giảm xuống .
Và cuối cùng định mức cho bước công việc tiện cần khởi động là :
Msl = 19 .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0048.doc