CHƯƠNG 1 NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á NĂM 1997 2
1.1 Những diễn biến chính của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 2
1.2.Những ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính châu á tới nền kinh tế thế giới 5
1.2.1.Đối với các nước châu á 5
1.2.2.Đối với các nước châu Mỹ 7
1.2.3.Đối với các nước châu Âu 9
1.2.4.Đối với các nước Châu úc 11
1.2.5.Đối với các nước châu Phi 12
CHƯƠNG 2 NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH DẪN ĐẾN CUỘC KHỦNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á NĂM1997 13
2.1.Đó là sự đánh giá quá cao đồng USD 13
2.2. Đó là do việc tự do hoá thị trường tài chính một cách quá mức 14
2.3.Chính sách kinh tế "hướng ngoại"chưa hợp lý của các nước Đông Nam Á 17
CHƯƠNG 3 NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 19
3.1.Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến Việt Nam 19
3.2 Những bài học kinh nghiệm 21
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 26
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng tài chính tiền tệ Châu Á năm1997, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đánh giá của Viện kinh tế thế giới ( ở Washington ) ước tính Mỹ sẽ mất từ
75 - 100 tỷ USD trong năm 1998 vì sụt giảm đáng kể kim ngạch xuất khẩu của Mỹ sang Châu á .Các nhà máy của Mỹ nhiều khi không bán được hoặc phải giảm giá một số mặt hàng .Do vậy khó mà tiếp tục đầu tư để nâng cao sản lượng thêm nữa .Và nếu cả đầu tư ( chiếm 10% GDP ) lẫn xuất khẩu đều giảm ,Mỹ sẽ phải chịu một ảnh hưởng kép về suy giảm .Ngay từ giữa tháng 6 / 1998 ,cổ phiếu bán ra đã giảm hơn 100 điểm theo chỉ số DowJones Industrial .Và khi giảm 2 %thì dự tính đã có 60 triệu cổ đông ở Mỹ bị thiệt hại . Cũng vào thời điểm này các ngành xuất khẩu tạo việc làm cho 11 triệu người Mỹ và các công ty Mỹ cũng đã bắt đầu thấy có ít lợi nhuận hơn .Sự chậm trễ các đơn đặt hàng từ châu á đã góp phần làm giãn thợ ồ ạt và tăng nhanh khoảng cách thương mại .Thâm hụt thương mại của Mỹ tăng lên đạt mức tồi tệ nhất kể từ năm 1992 .Thâm hụt tài khoản vãng lai cũng ở mức kỷ lục 47,2 tỷ USD trong quý I năm 1998 ,tăng 4,8% so với quý trước .Chỉ tính tháng 4 /1998 thâm hụt thương mại với các nước bên bờ Thái Bình Dương ,kể cả Trung Quốc ,Nhật Bản ,Hàn Quốc ,Indonexia đã lên đến 46,7 tỷ USD ,cao hơn cùng kỳ năm 1997 .Ngày càng nhiều khu vực kinh tế và địa lý của Mỹ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu á .Riêng trong năm 1997 ,Mỹ đã phải rút khoảng 3 tỷ USD khỏi các quỹ tương hỗ của Châu á và các hợp đồng mới về đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã giảm 39% .Mỹ đang giảm được sức ép lạm phát ,duy trì được đồng USD mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác .Tuy nhiên , nhịp độ phát triển kinh tế Mỹ sẽ không mấy sáng sủa một khi đồng USD yếu đi nếu các nước châu á tăng cường nhập khẩu trong thời gian tới .Lúc này , hàng hoá của Mỹ bán sang cá nước châu á trở nên đắt đỏ hơn do đồng USD tăng giá cao so với các đồng tiền các nước châu á ,làm cho hàng hoá Mỹ giảm sức cạnh tranh dẫn đến xuất khẩu của Mỹ giảm đi .Nhìn chung ,triển vọng kinh tế Mỹ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 2,4% năm 1998 và 1,9% vào năm 1999 so với 3,8% của năm 1997 .Tỷ lệ thất nghiệp chỉ là 4,7% ,giảm 0,3% so với năm 1997 .Theo báo cáo của chính phủ Mỹ ,quý I _1998 ,sản lượng của Mỹ tăng 6% so với 4,.9% quý IV năm 1997 ,số giờ lao động tăng 4,8 % so với 3,5% ,giá lao động tăng 3,1% ,năng suất lao động tăng ,1,1% .Trong tháng 4/ 1998 ,tỷ lệ lạm phát của Mỹ là 4,3% ,thấp nhất trong vòng 28 năm qua . Tuy nhiên các ngân hàng của Mỹ không bị ảnh hưởng lắm do cuộc khủng hoảng nhờ có một hệ thống ngăn ngừa hoàn hảo và nhờ vào việc Mỹ không cho vay các thị trường non trẻ của châu á những số tiền lớn .
Các nước Mỹ La tinh ,trước đó nhiều năm đã từng gánh chịu một cuộc khủng hoảng tương tự ,cũng bị ảnh hưởng khá lớn .Cuối năm 1997 quĩ tiền tệ quốc tế IMF ước tính cuộc khủng hoảng ở châu á sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn bộ khu vực này giảm khoảng 1% năm nay và năm 98 là 3,5% .Tại Brazil ,AFP dự đoán rằng năm 98 sẽ là năm khô hạn đối với Brazil với việc GDP sẽ giảm 3-4% thay vì 2% như dự đoán trước đây ,lãi suất cao cũng ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động kinh tế .Trong khi đó tại URugoay so phụ thuộc vào nền kinh tế Brazil nên thành công hay thất bại của khu vực công nghiệp nước này trong năm 98 sẽ phụ thuộc vào chương trình cải cách về cơ cấu của Brazil .Tại Achentina ,cuộc khủng hoảng ĐNA đang gây ra những mối lo ngại rằng xuất khẩu nước này sẽ mất khả năng cạnh tranh trong khu vực và đặc biệt là Brazil sẽ giảm bớt việc mua bán các sản phẩm của Achentina .Tại Mêhi co ,thống đốc ngân hàng trung ương Guillermo ortiz cho biết ,tốc độ tăng trưởng kinh tế dự tính sẽ giảm xuống trong năm do những sức ép giảm phát và lãi suất tăng . Tại Peru ,nhìn chung các quan chức ở đây không lo ngại lắm về cuộc khủng hoảng do sức mạnh của nền kinh tế Pêru ,tuy nhiên ảnh hưởng cũng sẽ có ở một số ngành công nghiệp đặc biệt là dệt vì các mặt hàng dệt xuất khẩu của châu á đang làm cho các mặt hàng dệt trong nước mất giá .Tại Vênêzuela,các chính sách của chính phủ gần đây đã bị ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng .Các nhà phân tích cho biết ,cuộc khủng hoảng đã làm cho nhu cầu của châu á về dầu lửa của Vênêzuela giảm khoảng 500 triệu thùng mỗi ngày ,khiến cho giá dầu nước này giảm .
1.2.3.Đối với các nước châu Âu
Châu Âu cũng chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á song mức độ có thể nhẹ hơn so với Nhật và Mỹ .Hoạt động xuất khẩu và hoạt động của các ngân hàng khu vực bị ảnh hưởng lớn ,tình trạng thất nghiệp cũng gia tăng .CHLB Đức là nước phải chịu tác động mạnh nhất vì nước này thường xuất khẩu nhiều máy móc thiết bị có hàm lượng vốn cao ,đặc biệt là những hàng hoá được sử dụng trong những dự án phát triển lớn của chính phủ .Những dự án lớn này đang bị trì hoãn hoặc loại bỏ do hầu hết các nước Châu á phải tập trung vốn đối phó với khủng hoảng .Các hợp đồng mua bán từ châu á giảm liên tục từ 2-3% trong những tháng diễn ra khủng hoảng .Hãng chế tạo máy bay khổng lồ thì còn vấp phải các khó khăn trong việc thu hồi tiền bán máy bay qua Đông á .Các hãng ở châu Âu phải liên tục điều chỉnh kế hoạch đầu tư do sự sút giảm trong doanh thu và điều này có quan hệ mật thiết với vấn đề việc làm ở đây .Pháp và Đức là hai nước có tỷ lệ thất nghiệp tăng cao ( tính đến cuối tháng 2 năm 1998 đã gấp đôi tỷ lệ ở Mỹ ) .Tại Anh ,một thị trường đầu tư đầu tư được ưa chuộng nhất ở châu Âu của các công ty Châu á -các khoản đầu tư vào nước này đã từng là một nguồn thúc đẩy tăng trưởng và tạo việc làm cho quan trọng cho khu vực này- nay giảm sút một cách đáng lo ngại ,một số dự án đầu tư phải đình hoãn .Thêm vào đó ,các công ty con trực thuộc các các tập đoàn lớn của châu á đang làm ăn và sử dụng nhân công ở các nước EU cũng buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động ,cắt giảm việc làm và đẩy công nhân nước sở tại lâm vào tình trạng thất nghiệp .Các ngân hàng châu Âu cũng bị suy yếu lây .Người ta đang phân tích xem liệu các ngân hàng có phải lập ra những khoản dự trữ mới hay không để đương đầu với những khoản vay không trả được của khách hàng .Tính đến thời điểm nổ ra khủng hoảng ,các nước Châu á nợ các ngân hàng quốc tế 389 tỷ USD ,trong đó 44% là nợ các ngân hàng châu Âu .Đầu tư nhiều nhất vào "những con rồng Châu á " là các ngân hàng Đức ( gần 43 tỷ USD ) ,Anh ( 32 tỷ USD ) ,Hà Lan ( 17 tỷ USD ) và các ngân hàng Pháp .Đa số các khoản vay mới dành cho Thái Lan và Hàn Quốc đều là các khoản vay ngắn hạn ,phải thanh toán tối đa trong vòng một năm .Ngày nay ,cũng giống như đối với các ngân hàng Nhật Bản hay Mỹ thì chúng cũng trở thành " nợ khó đòi" khiến các ngân hang châu Âu mất đi một khoản tiền lớn .Công ty Standard and Poor ( S & P ) đánh giá ,các ngân hàng châu Âu nói trên có thể chịu một khoản thua lỗ lên tới 20 tỷ USD từ các khoản cho vay sang Châu á. Tổng số vốn các ngân hàng cho vay sang các nước Indonexia ,Malaixia ,Hàn Quốc ,Thái Lan là từ 110 tỷ USD tới 130 tỷ USD ,nhiều khoản cho vay này sẽ trở thành khó đòi .Trong đó khoảng 30% vốn cho Thái Lan ,50% số vốn Indonexia vay bị liệt vào loại khó đòi trong năm 1998 .Xét trên tổng thể ,tuy thương mại và khu vực tài chính ngân hàng có bị ảnh hưởng bởi hậu quả từ châu á thì 15 nước thành viên EU vẫn đạt mức tăng trưởng GDP bình quân trong 6 tháng đầu năm 1998 là 2,7% . Cao nhất là CHLB Đức với mức 3,0% so với 2,4% năm 97 ,của Pháp là 3% so với 2,3% năm 1997 ,Anh có tỷ lệ tăng trưởng 2,2% so với 3,45% trong năm 97 .Tỷ lệ thất nghiệp như trên đã đề cập là có gia tăng ở một số ngành song xét một cách toàn diện thì có giảm đôi chút ,10,5% năm 1998 so với mức 11,3% trong năm 1997 .Tuy ảnh hưởng tiêu cực lan truyền ở nhiều khu vực ,nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn châu lục này sẽ đạt 3% trong năm 1998 ,cao hơn 0,5% so với năm 1997 và cũng là mức tăng cao nhất từ năm 1990 đến nay .
1.2.4.Đối với các nước Châu úc
Australia cũng phải chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi có mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế với các nước trong khu vực .Đồng đôla nước này đã tụt giá xuống mức thấp nhất trong 12 năm qua do cuộc khủng hoảng tiền tệ từ châu á lan sang .Cuối tháng 6 /1997 ,tỷ giá 1AU$ / 0,73USD thì ngày 10/6/1998 chỉ còn 1 AU$ / 0,59USD .Điều này có nghĩa chỉ trong vòng 8 ngày đầu tháng 6 ,thị trường chứng khoán Australia đã mất khoảng 25,5 tỷ USD hoặc tính từ giữa tháng 4/1998 đến nay thì giá trị chứng khoán tại Australia đã bị thiệt hại 52,5 tỷ USD .Dầu mỏ, kim loại , vàng ,kẽm ,nhôm xuất khẩu bị giảm giá và lượng mà các hãng nhập khẩu lại tăng ,buôn bán mậu dịch với các nước châu á của Australia ngày càng trầm trọng .Chính phủ phải hạ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đến 0,75% so với mức dự tính trước đây ,nạn lạm phát và thất nghiệp sẽ gia tăng ,đồng AU$ sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà chuyên đầu tư vào thị trường tài chính quốc tế .Một loạt các ngân hàng Australia đã phải tăng lãi suất đối với các khoản tiền vay mua nhà theo lãi suất cố định ,tất nhiên sẽ kéo theo sự gia tăng lãi suất các khoản vay khác .Cho đến cuối tháng 6 / 1998 ,khối lượng hàng hoá xuất khẩu của nước này vẫn đang có chiều hướng đi xuống trong khi ngành chế biến cũng đang trong tình trạng suy giảm .Có thể trong 2 năm tới đây nền kinh tế nước này còn đứng trước nguy cơ suy thoái .
Newzealand cũng đang lâm vào khủng hoảng kinh tế đầu tiên kể từ năm 1992 do tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á ,lãi suất tăng đã làm giảm sút chi tiêu tiêu dùng và nhu cầu xuất khẩu .Nền kinh tế đã bị chững lại trong quý 1 và tiếp tục trì trệ trong quý 2 năm 1998 .Hiện nay lãi suất ở Newzealand vào hàng cao nhất thế giới ,làm khó khăn cho các doanh nghiệp vay vốn sản xuất cũng như hạn chế mức tiêu dùng xã hội .Tỷ giá đồng tiền nước này đang ở mức thấp nhất trong vòng 12 năm qua .Tính đến hết năm tài chính ,tức ngày 31/3/1999 ,nhịp độ phát triển kinh tế có lẽ cũng chỉ tăng 2,5%.
1.2.5.Đối với các nước châu Phi
Nền kinh tế châu Phi cũng bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng lan truyền từ châu á .Điều này thể hiện ở giá nguyên liệu xuất khẩu giảm mạnh song tốc độ tăng trưởng GDP năm 1998 vẫn có thể đạt 4,5% so với 3,7% của năm 1997 ,bất chấp khủng hoảng ở châu á .Tuy vậy tích luỹ kém và nợ nước ngoài cao vẫn là căn bệnh của khu vực này .
Qua phần trên có thể thấy kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 1998 khá ảm đạm .Ai lạc quan nhất cũng chỉ dám đánh giá sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ chỉ diễn ra vào cuối năm 1999 .Hiện giờ người ta phải hết sức thận trọng với vấn đề cơ cấu kinh tế .Thế giới đã thành công bước đầu trong việc tránh đổ vỡ hàng loạt và hạn chế phần nào sự lây lan rộng ra của khủng hoảng ,nhưng cú sốc châu á lại thổi bùng lên những mâu thuẫn về thương mại .Những rối loạn về tài chính tiền tệ ,nhất là tỷ giá hối đoái sẽ làm suy yếu quá trình toàn cầu hoá về tài chính ,buộc người ta tìm ra những biện pháp hữu ích hơn để can thiệp vào thị trường chứng khoán toàn cầu ...
Nói tóm lại ,cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á với những hậu quả ảnh hưởng lan toả ra toàn cầu càng chứng tỏ nhận định tiên đoán đúng đắn của C.Mac và F. Angghen ,lãnh tụ của giai cấp vô sản thế giới ghi trong " tuyên ngôn của Đảng Cộng sản " cách đây hơn 150 năm rằng tư bản với đầy khuyết tật của nó theo chu kỳ sẽ tàn phá nền kinh tế thế giới ,mỗi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ lần sau sẽ lại nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng lần trước .Chính các lực lượng thị trường được hệ thống thị trường tự do khuyến khích là nguồn gốc chủ yếu của cuộc khủng hoảng đã diễn ra ở châu á ( thu hút tư bản quá mức ,tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu quá mức và tự do hoá tài chính cũng quá mức ) ,nó bắt Phương Đông lệ thuộc vào phương Tây .Và rút cuộc ,theo đúng chu kỳ phát triển tư bản thì cuộc khủng hoảng này - dù đang làm gia tăng lạm phát ở các nước khu vực bị lâm vào khủng hoảng - đang báo hiệu một áp lực về hiện tượng thiểu phát trên toàn cầu .
Chương 2 Những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng tài chính tiền tệ châu á năm1997
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng thì có nhiều . Song ở đây chúng ta hãy xem xét đến các nguyên nhân thuộc về một nền kinh tế "hướng ngoại " yếu kém của các nước Đông Nam á .Từ đó rút ra những bài học về một nền kinh tế vững vàng trong xu hướng toàn cầu hoá cao độ như hiện nay ,có thể hội nhập tốt đẹp với thế giới .Vậy ta cùng tìm hiểu một số nguyên nhân sau :
2.1.Đó là sự đánh giá quá cao đồng USD
Nguyên nhân đầu tiên được các nhà kinh tế nhất trí , đó là việc các nước Đông Nam á đã neo tỷ giá của mình quá chặt vào đồng USD.Các nhà hoạch định chính sách của các nước này đã quá tin tưởng vào sự ổn định của đồng USD mà quên đi một quy luật tỷ giá quan trọng ,đó là quy luật tỷ giá thực .Tất cả các đồng tiền đều có tỷ giá riêng của mình do chính những điều kiện của đất nước đó quy định .Thế nhưng việc neo chặt tỷ giá của mình vào đồng USD đã làm cho tỷ giá thực tế bị kéo rất xa so với tỷ giá thực .Điều này được thấy rõ ở Thái Lan ,khi chưa xảy ra khủng hoảng ,tỷ giá thực của đồng Bath là 30,27Bath/ USD ,thế nhưng chính phủ Thái Lan đã không lắng nghe ý kiến của các chuyên gia phát ra rằng đồng Bath bị đánh giá quá cao so với tỷ giá danh nghĩa .Do đó đã kéo đồng Bath lên giá 27,16 Bath / USD rồi tiếp tục lên 25,29 Bath / USD và cuối cùng giữ ổn định ở mức hơn 25,5Bath/USD trong suốt 13 năm mặc cho tỷ giá thực lên đến 30,27 Bath/ USD.
Có thể nói việc chính phủ duy trì một quan hệ tỷ giá cứng nhắc trong một thời gian dài và gắn chặt với đồng đôla Mỹ mà không tính đến những thay đổi của mối quan hệ giá trị thực tế của đồng tiền nội địa là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng .Thật vậy ,sự can thiệp của nhà nước để duy trì tỷ giá hối đoái ổn định trước áp lực tăng giá USD của thị trường đã tạo môi trường đầu tư ổn định giả tạo thu hút đầu tư nước ngoài .Chính sách này ban đầu phát huy được hiệu quả khi nó tạo lòng tin cho các nhà đầu tư vào sự ổn định tiền tệ ,do đó ,nguồn vốn nước ngoài tiếp tục gia tăng khiến cho những tổn thất của việc nâng giá đồng bản tệ bị che lấp và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn cao theo sự gia tăng của luồng vốn này ,Nhưng về lâu dài ,chính sách này sẽ khoét sâu lỗ thủng thâm hụt tài khoản vãng lai vì nhập khẩu sẽ tăng nhanh hơn xuất khẩu do xuất khẩu mất dần tính cạnh tranh và đồng thời lại khuyến khích nhập khẩu những hàng hoá đắt tiền như ô tô ,hàng điện tử .Như vậy lãi của các dự án đầu tư trong nước chảy ra ngày càng nhiều và nó gây ra những vết nứt ngầm trong nền kinh tế .Thêm vào đó nhờ sự ổn định này mà các nước Đông Nam á đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng cao nhất thế giới ,và chính tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã che mờ những nguy cơ tiềm ẩn của cuộc khủng hoảng này .
2.2. Đó là do việc tự do hoá thị trường tài chính một cách quá mức
Vào những năm 90 ,các nước Đông Nam á đã có những những nỗ lực lớn nhằm mở cửa thị trường tài chính đối với vốn nước ngoài .Các thị trường tài chính trong nước được hình thành và thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn từ bên ngoài ,được khuyến khích thông qua tỷ lệ lãi suất cao ở thị trường trong nước .Đồng thời với những nỗ lực này là quá trình tự do hoá thị trường tài chính ,bao gồm cả tự do hoá tỷ lệ lãi suất ,nới lỏng các quy định về số lượng các giao dịch tài chính ,tự do hoá các hạng mục kinh doanh tài chính .Cả hai quá trình này đều khuyến khích nguồn vốn nước ngoài ,tạo khả năng duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ở mức cao .Tuy nhiên ở một khía cạnh khác ,hệ thống quản lý các tổ chức tài chính chưa phát triển đủ mạnh và việc cung cấp các thông tin cũng chưa đáp ứng phù hợp với các quá trình này .Thật vậy ,việc này cộng với việc đánh giá quá cao đồng USD đã tạo điều kiện cho giới đầu tư vay đồng USD với lãi suất thấp ,cho vay lại bằng đồng nội tệ cao ăn chênh lệch mà không lo sợ rủi ro bị phá giá đồng nội tệ .Tuy nhiên ,cho đến năm 1995 ,đồng USD đã tăng giá khoảng 20% so với đồng DM và đồng Yen ,điều đó dẫn đến xuất khẩu của các nước Đông Nam á bị chậm lại ,hệ thống tài chính ngân hàng bắt đầu bộc lộ yếu kém ,tăng trưởng chung có dấu hiệu giảm sút .Đây thực sự là một điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu cơ bắt đầu hoạt động .Nạn đầu cơ có thể nói là một cú đẩy khủng khiếp vào một nền kinh tế vốn đã cực kỳ chông chênh và nó thực sự lật nhào tất cả .
Xung quanh việc đầu cơ tiền tệ ,có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc nó có phải là nguyên nhân trực tiếp làm cho các đồng tiền Đông Nam á bị giảm giá hay không .Vậy trước hết chúng ta hãy xem xét cơ chế của hành động đầu cơ tiền tệ .Đó thực chất là việc kiếm lời phi rủi ro bằng phương pháp bán khống tiền tệ .Nguyên tắc bán khống khá đơn giản ,khi ta dự đoán một đồng tiền nào đó sắp sửa bị hạ giá ,ta đầu cơ bằng cách mua bằng nội tệ các hợp đồng tỷ giá tương lai (FRA), rồi sau đó ,với các hợp đồng này ,ta có thể bán ra một khối lượng nội tệ gấp 100 lần giá trị của hợp đồng .Điều này ngay lập tức sẽ làm cho giá trị bản tệ sụt xuống ,USD tăng lên do cầu về USD đã bị kích lên giả tạo đến 100 lần .Như vậy chỉ với một số lượng nội tệban đầu để mua FRA ,ta đã có lãi gấp nhiều lần do giá USD tăng lên một cách giả tạo .Đây quả là một mức siêu lợi nhuận cực kỳ hấp dẫn .ở Thái Lan và các nước Đông Nam á ,bán khống lại được luật pháp cho phép nên các nhà đầu cơ tiền tệ đã tha hồ làm mưa làm gió trên thị trường tiền tệ .Sức mạnh đầu cơ đã nâng số cầu USD lên một cách giả tạo và đẩy tỷ giá vượt xa tỷ giá thực .Chỉ một ngân hàng nước ngoài Bacrley ở Thái Lan trong ngày 19/5/97 đã bán khống ra 51 tỷ Bath để mua 2 tỷ USD .Theo ước tính ở Thái Lan các nhà đầu cơ tiền tệ đã bán khống và tạo được một cầu về USD lên tới 10 tỷ .Điều này đã làm cho các con nợ và nhân dân đua nhau mua USD để tránh mất giá nội tệ và tình hình cũng ngày càng trầm trọng thêm .Những cố gắng vô ích của chính phủ Thái Lan bỏ ra 5 tỷ USD để hòng đáp ứng được số cầu này từ tháng 5/97 đã không cứu vãn nổi tình hình và đành buông tay thả nổi đồng Bath vào ngày 2/9/97.Kết quả là hàng loạt đồng tiền của các nước Đông Nam á bị mất giá một cách nghiêm trọng .
Việc tự do hoá thị trường tài chính một cách thái quá đã dẫn các nước Đông Nam á đến một cuộc khủng hoảng nợ đồng USD một cách trầm trọng .Vào những năm 90,các thị trường tài chính Đông Nam á nổi lên như là những thị trường hấp dẫn nhất thế giới .Các ngân hàng ,các nhà đầu tư ở Mỹ và Châu âu ,nơi mà thị trường đã quá bão hoà và thất vọng ,đã tìm thấy những thị trường mới nổi ở châu á cực kỳ hấp dẫn với mức lợi nhuận cao ,lãi suất cao và đặc biệt là rủi ro thấp ( do các đồng tiền đã bị neo giá chặt vào đồng USD ) .Và thế là vào giữa những năm 93-96,các nhà cho vay của Mỹ ,châu Âu và Nhật đã đổ các khoản tín dụng ngắn hạn vào châu á ,làm cho nền kinh tế của Thái Lan,Inđonexia ,Malaixia trở nên "nóng " như lên cơn sốt .Theo tính toán ,tín dụng ngắn hạn nước ngoài của Thái Lan đã lên tới 7-10% GDP mỗi năm trong giai đoạn 94-96 ,tổng nợ nước ngoài của Thái Lan -cả khu vực tư nhân và nhà nước -đã tăng từ 38,3% GDP năm 90 lên đến 50,9% sáu năm sau đó .
Các ngân hàng nước ngoài cho vay một cách mù quáng ,và với việc "mở cửa" một cách tự do không kiểm soát ,các ngân hàng nội địa cũng vay một cách rất "mạnh tay ".Theo số liệu của IMF ,cuối năm 96 ,các ngân hàng châu Âu đã cho vay tổng cộng là 318 tỷ USD ,các đồng nghiệp của họ là Nhật và Mỹ cũng cho vay tới 260 tỷ USD và 46 tỷ USD ,phần lớn trong số đó lại là cho vay ngắn hạn .Nước vay lớn nhất là Hàn Quốc 100 tỷ USD ,đứng thứ hai là Thái Lan 70,2 tỷ USD .ở Thái Lan ,công ty xi măng Siam là một công ty tư nhân và nợ nước ngoài của nó lên tới 4 tỷ USD ,cao nhất trong số các công ty tư nhân ở Thái Lan
Cuối cùng ,tự do hoá tài chính và mở cửa thị trường đối với vốn nước ngoài là những nhân tố góp phần vào việc hình thành nên một bong bóng kinh tế ở các nước Đông Nam á .Hiện tượng bong bóng kinh tế rất phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề mà trong đó cơ bản nhất là nhân tố tỷ giá hối đoái thực tế tăng .Các nước Đông Nam á ,là những nước có phát triển gắn liền với đầu tư và tăng trưởng xuất khẩu với việc hoạt động tích cực của vốn nước ngoài . Có thể thấy, các khoản tín dụng ngắn hạn tuồn vào các nước Đông Nam á nhanh và nhiều như trên nhưng việc sử dụng chúng lại bị sai mục đích một cách trầm trọng .Phần lớn các khoản vay này dùng để đầu tư vào lĩnh vực bất động sản và địa ốc .Các toà nhà cao tầng đua nhau mọc lên ,cung lớn hơn cầu đã dẫn tới tình trạng thừa " địa ốc " làm cho các nhà đầu tư bắt đầu khó khăn trong việc thu hồi vốn trả nợ ,và những khoản nợ ngắn hạn này bắt đầu chuyển thành những khoản nợ khó đòi .Người ta ví những khoản nợ này như những " bong bóng " phập phùng trong nền kinh tế .Đến một lúc nào đó ,những bong bóng này sẽ nổ tung hàng loạt .Tại Hàn Quốc ,với tổng vay nợ nước ngoài lên tới 153 tỷ USD trong đó 2/3 là nợ ngắn hạn ,8 trong số 50 chaebol hàng đầu đã ngay lập tức bị phá sản ,số còn lại thì đương đầu với vấn đề trả nợ không dễ giải quyết .
Như vậy ,qua đây ta có thể thấy việc mở cửa thị trường tài chính là chủ yếu nhằm mục đích khuyến khích vốn nước ngoài hơn là nhằm vào việc xây dựng một hệ thống tài chính có hiệu quả hơn . Do đó ,nó cũng chính là một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước này.
2.3.Chính sách kinh tế "hướng ngoại"chưa hợp lý của các nước Đông Nam á
Đối với nền kinh tế Đông Nam á về chiến lược phát triển người ta dễ dàng nhận thấy rằng các nền kinh tế này đã đi theo mô hình tăng trưởng hướng về xuất khẩu của Đông á và nhờ đó đã đạt được những thành tựu rất xuất sắc liên tục trong suốt gần 2 thập kỷ qua .Song đối với tình trạng khủng hoảng tài chính đã diễn ra ở khu vực này ,các nhà kinh tế học cũng đề cập đến những nguyên nhân chủ yếu có liên quan với những chính sách nhằm thực thi chiến lược này .Vậy ta hãy cùng xem xét .Có thể thấy mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Nam á về cơ bản là dựa trên việc tập trung ưu tiên cho một số ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực mà quốc gia có lợi thế so sánh .Các nước Đông Nam á không chỉ giống với các Nies Đông á trước đây ở lợi thế so sánh có nguồn lao động dồi dào và giá rẻ mà còn khác ở chỗ có thêm lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới .Nhìn vào cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước Đông Nam á thời gian qua người ta thấy khá rõ rằng ,về cơ bản các nước này đã đi đúng theo hướng khai thác được các lợi thế này và đã đạt được tốc độ tăng trưởng rất cao .Nhưng các chính sách này đã tạo nên một cơ cấu kinh tế rất không cân đối ở các nước này cùng với sự cứng nhắc và không thích nghi nhanh với những thay đổi trên thị trường thế giới đã làm cho nó không những không còn tác dụng như trước mà còn ngược lại .Điều này thể hiện rất rõ ở mặt hàng điện tử bán dẫn .Trong một thời gian dài ,tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực có sự đóng góp lớn của việc xuất khẩu sản phẩm điện tử bán dẫn .Cũng cần phải nói rằng cầu về mặt hàng này trên thị trường thế giới khá ổn định trong một thời gian dài và thực sự nó đã góp phần duy trì mức tăng trưởng cao của khu vực .Tuy nhiên , trong thời gian này Trung Quốc lại nổi lên như một đối thủ cạnh tranh mạnh nhất về mặt hàng này mà thị trường thế giới lại không được mở rộng tương ứng do vào khoảng năm 95-96 nhu cầu về mặt hàng này trên thị trường Mỹ và Châu Âu giảm mạnh theo chu kỳ .Vì thế tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu của các nước Đông Nam á ,đặc biệt là Thái Lan suy giảm đột ngột ,từ mức tăng bình quân 25% năm thời kỳ 1985-1995 xuống còn 4% năm 1996 .Nói cách khác với một tỷ lệ 40% trong kim ngạch xuất khẩu của khu vực ,đây thực sự là một cú sốc lớn cho cơ cấu kinh tế của các nước Đông Nam á .
Chương 3 Những ảnh hưởng đối với Việt Nam Và bài học kinh nghiệm
3.1.Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến Việt Nam
Trên đây chúng ta đã phân tích những nguyên nhân cũng như ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 đến các nước trong khu vực cũng như trên thế giới .Qua đó ta có thể thấy một điều rất rõ là sự sụt giảm của các quốc gia trên thế giới đều bị ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ cuộc khủng hoảng tiền tệ .Những quốc gia bị ảnh hưởng đó đều có những đặc điểm chung trong nền kinh tế như : sự sụt giảm của chỉ số chứng khoán ,sự phá sản đóng cửa một số hay hàng loạt các ngân hàng và công ty tài chính và những ảnh hưởng nhiều hay ít đến cán cân xuất nhập khẩu .Song điều đáng nói là trong cơn lốc tiền tệ đó ,Việt Nam gần như đứng ngoài bán kính tâm bão ,những ảnh hưởng trực tiếp là không xảy ra . Vậy phải chăng nền kinh tế nước ta đã cực kỳ "vững chắc " đến mức có thể ngăn ngừa mọi sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ? Điều này là không thể bởi nước ta vẫn là một trong những nước đang phát triển và không thể gọi là có được một nền kinh tế mạnh .Vậy ta cùng tìm hiểu nguyên nhân tại sao nước ta lại tránh được cuộc khủng hoảng trên.
Thứ nhất , đồng tiền nước ta không phải là một đồng tiền được chuyển đổi tự do ra ngoại tệ .Không phải hễ có VND là chúng ta có thể dễ dàng chuyển đổi ra USD như các đồng tiền Bath ,Rupi của các nước khác trong Đông Nam á .Quy mô giao dịch của ta còn quá ít do thị trường vốn còn quá sơ khai và đóng cửa ,những giao dịch lớn đều chịu sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương .Luồng chảy ngoại tệ vào và ra vùng biên giới bị kiểm soát rất chặt chẽ bởi các chứng từ nhập khẩu ,xuất khẩu .Nhờ đó nạn đầu cơ tiền tệ được xem như là không thể xảy ra ở nước ta
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29604.doc