MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 4
I. Tình hình giá cổ phiếu ở Việt Nam trong thời gian qua 4
1) Giai đoạn từ 24/6/2006 đến 12/3/2007 4
2) Giai đoạn 13/3/2007 đến 23/4/2007 5
3) Giai đoạn từ 24/4/2007 đến nay 5
II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu ở thị trường Việt Nam. 6
1. Các yếu tố kinh tế 6
a) Tăng trưởng kinh tế 6
b) Quan hệ cung cầu 7
c) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp 11
d) Cổ tức 11
e) Lãi suất 14
f) Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO 15
2. Yếu tố phi kinh tế 16
a) Yếu tố chính trị 16
b) Yếu tố văn hoá 16
c) Yếu tố thị trường 18
III. Giải pháp liên quan đến cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam 20
1. Giải pháp vĩ mô 20
2. Giải pháp vi mô 20
PHẦN KẾT 22
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7664 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những nhân tố tác động tới giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu chuyển đổi khổng lồ tung ra thị trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể: Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định (ngày 29/12/2006) phê duyệt danh sách 53 tập đoàn, tổng công ty nhà nước sẽ thực hiện cổ phần hóa trong giai đoạn 2007-2010. Nhiều chuyên gia thị trường chứng khoán nhận định, 2 cổ phiếu “bia rượu” lớn sau khi cổ phần hóa và lên sàn sẽ tạo ra sự kiện lớn hơn nhiều sự kiện Vinamilk và Sacombank lên sàn trong năm 2006. Cổ phiếu của MobiFone và Vinafone cũng sẽ xuất hiện trên thị trường OTC và có thể lên sàn vào cuối năm 2007, sau khi Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Trần Đức Lai khẳng định MobiFone chắc chắn sẽ cổ phần hóa xong trong năm 2007. Năm 2007 có thể sẽ là năm “đại náo” cổ phiếu của 4 ngân hàng quốc doanh trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam sẽ có mặt trên thị trường.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cổ phần cũng sẽ tiếp tục tạo ra một “cơn lốc” tăng vốn điều lệ thông qua phát hành cổ phiếu và dự kiến đến cuối năm 2007, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần sẽ có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng. Minh chứng rõ nhất là hàng loạt ngân hàng thương mại công bố tăng vốn điều lệ nhiều đợt trong năm 2006 và 2007.
Trên thị trường trái phiếu, ngoài trái phiếu chính phủ, chính quyền, năm 2007 sẽ có số lượng rất lớn trái phiếu của các tập đoàn phát hành như Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn Dầu khí...
Theo nhận định của một số chuyên gia, tổng giá trị niêm yết cổ phiếu vào cuối năm 2007 sẽ tăng gấp khoảng 3 lần và đến cuối năm 2008 sẽ gấp 5 lần hiện nay.
Về phía cầu, giá cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau: Ngày 28/12, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối, trong đó quy định: người không cư trú là nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tín dụng được phép để thực hiện đầu tư tại Việt Nam và được dùng tài khoản VND này để mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng để chuyển ra nước ngoài. Như vậy, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài từ năm 2007 sẽ rất thuận lợi vào Việt Nam và cũng tiềm ẩn khả năng rút vốn ồ ạt chuyển ra nước ngoài khi có một “cú sốc” nào đó xảy ra. Tuy nhiên, theo TS. Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời gian gần đây là các nhà đầu tư tương đối lớn, nhà đầu tư chiến lược, họ kỳ vọng vào lợi nhuận lâu dài, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp ngắn hạn của nước ngoài vào Việt Nam chỉ khoảng 1%, không đáng kể.
Do thị trường chứng khoán Việt Nam “bùng nổ” trong năm 2006 nên nhiều quỹ đầu tư đã và đang đổ hàng tỷ USD đầu tư gián tiếp vào Việt Nam. Trong năm 2007, chủ yếu là vốn của các quỹ đầu tư, tập đoàn tài chính và ngân hàng lớn với chiến lược đầu tư dài hạn. Nhu cầu của nước ngoài đầu tư vào chứng khoán Việt Nam không hề giảm độ nóng. Theo HSBC, trên thế giới hiện có 43 quỹ chuyên đầu tư vào Việt Nam, trong đó có 23 quỹ mới thành lập từ tháng 11 năm ngoái. Tổng giá trị tài sản ròng (NAV) của tất cả các quỹ đầu tư vào Việt Nam hiện lên đến 5,6 tỉ đô la Mỹ. Những tháng gần đây, các quỹ đầu tư vào Việt Nam liên tiếp ra đời ở Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Israel. Chỉ riêng tại Hàn Quốc, số tiền mà các quỹ này gọi được đã là 871 triệu đô la Mỹ (xem bảng). Ông Chy Jang Oak, Chủ tịch bộ phận thị trường chứng khoán của Korea Exchange, trong chuyến thăm TPHCM tháng 4 vừa qua, cho TBKTSG biết Việt Nam đang là đề tài nóng của giới đầu tư tài chính Seoul. Họ đánh giá cao sự tăng trưởng của các công ty niêm yết Việt Nam. Ông Chy Jang Oak thậm chí nói rằng Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc sẽ giúp giảm bớt chi phí cho các công ty Việt Nam niêm yết trên thị trường Hàn Quốc.
Một yếu tố nữa có thể tác động không nhỏ đến cầu trên thị trường chứng khoán năm 2007: ngày 29/12/2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã hoàn tất dự thảo về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Trong đó, có quy định làm xôn xao giới kinh doanh cổ phiếu, đó là cấm không cho các ngân hàng cho vay doanh nghiệp mà ngân hàng nắm quyền kiểm soát hoạt động trong lĩnh vực tiềm ẩm rủi ro cao là kinh doanh chứng khoán, không được cho vay không có bảo đảm đối với các khoản vay nhằm đầu tư kinh doanh chứng khoán. Nếu quy định trên được chính thức ban hành và có hiệu lực thì nguồn cầu đầu tư vào cổ phiếu sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ.
Mặt khác, sự "ấm" lên của thị trường bất động sản đã làm giảm lượng vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán và thậm chí nó còn hút một phần vốn từ thị trường chứng khoán chuyển sang. Các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn giữa hai thị trường này.
Diễn biến giá cổ phiếu hiện bị tác động chủ yếu bởi quy luật cung cầu. Tuy nhiên, cầu cũng có loại thật và ảo. Cầu ảo dễ dàng được tạo ra bởi những nhà đầu tư nắm trong tay khối lượng cổ phiếu lớn hoặc tài khoản đầy tiền. Cầu ảo được tạo ra bằng những lệnh mua mà người đặt biết chắc chắn rằng lệnh đó không được khớp hoặc có khớp thì cũng chỉ được một khối lượng rất thấp. Với quy trình khớp lệnh định kỳ, lệnh nhập phải thông qua công đoạn thủ công tại sàn và trình tự ưu tiên khớp theo thời gian đặt lệnh. Nhà đầu tư có ý định tạo cầu ảo căn cứ vào diễn biến giao dịch để đặt lệnh sát giờ khớp, thường là trong đợt giao dịch thứ ba, đủ để lệnh được vào hệ thống nhưng không được khớp. Như vậy, khối lượng này sẽ trở thành dư mua nhưng lại không phản ánh đúng nhu cầu thị trường mà mang tính chất đổ thêm dầu vào lửa. Nhà đầu tư ít kinh nghiệm chỉ biết căn cứ vào khối lượng dư mua thông báo lên tới hàng trăm ngàn cổ phiếu để cho rằng cầu đang rất lớn nghĩa là giá sẽ còn tăng. Mánh này đặc biệt phát huy tác dụng trong thời điểm lượng bán quá ít và giá liên tục khớp mức trần."Anh ơi bao nhiêu thì mua được"? Đó là câu hỏi rất thường thấy tại các sàn giao dịch vì phần đông nhà đầu tư mới tham gia rất ít kinh nghiệm, thậm chí còn chưa đọc thông bảng giao dịch điện tử. Kỹ thuật “rải đinh" tung hoả mù trên bảng giao dịch đã được nhiều nhà đầu tư lão luyện "bật mí" từ lâu và không còn là bí mật, thậm chí người nước ngoài cũng học được và sử dụng.
Điểm cân bằng của thị trường sẽ phụ thuộc nhiều vào cung cầu. Cung hiện ra sao? Nguồn cung đang tăng lên (IPO các doanh nghiệp tầm cỡ), nhưng điểm rơi của nguồn cung dường như chưa đúng lúc. Hai tháng cuối năm ngoái, nguồn cung tăng cấp tập với hàng chục công ty lên sàn, nhưng cầu còn tăng mạnh hơn do khi ấy thị trường đang trên đà đi lên. Bây giờ khi cung được tung ra ở thời điểm thị trường đang xuống dốc, thì hàng hóa chất lượng tốt vẫn có nhu cầu, song sẽ đẩy nhanh sự phân hóa cổ phiếu. Nói ngắn gọn là cầu vẫn đang rình rập chờ, sẵn sàng vào, nhưng không vào với bất cứ giá nào.
c) Hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp
Giá của cổ phiếu hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động kinh doanh hay sức khỏe của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp hoạt động ổn định mà không gặp phải những biến cố bất ngờ dẫn đến phải thanh lý hay phá sản thì dòng tiền mà người nắm giữ cổ phiếu nhận được là cổ tức được chia hàng năm. Con số này có sự dao động và đôi khi cũng có những khoản bất thường nào đó, nhưng nhìn chung bình quân trong dài hạn nó chính là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Về bản chất, giá cổ phiếu do dòng tiền này và sự biến động của nó quyết định và sự nóng lên của thị trường là do sự tăng giá của các cổ phiếu gây ra.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
Thu nhập công ty hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Ví dụ, giá cổ phiếu của công ty cổ phần Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
d) Cổ tức
Mua cổ phiếu cũng chính là một cách đầu tư. Mục đích cuối cùng là nhằm thu được lợi nhuận cao. Cổ đông sẽ được hưởng cổ tức và phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua cổ phiếu. Họ mong đợi vào mức chênh lệch hơn là cổ tức được hưởng. Tuy nhiên, cổ tức cũng được đánh giá là nhân tố cơ bản tác động đến giá cổ phiếu. Trong tất cả các nhân tố sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
Cổ tức là khoản tiền mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ đông. Người ta thường tính cổ tức trên một cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu, các nhà đầu tư thường chọn mua cổ phiếu có cổ tức cao hơn. Ví dụ, cổ phiếu A có cổ tức 2USD/năm, cổ phiếu B có cổ tức là 3USD/năm. Như vậy, cổ phiếu B sẽ được nhiều nhà đầu tư chú ý hơn. Do đó, giá cổ phiếu B có thể sẽ cao hơn cổ phiếu A. Tuy nhiên, điều đó chưa hẳn đã đúng hoàn toàn. Khi so sánh cổ tức giữa các công ty, bạn lại phải quan tâm tới tỷ suất cổ tức. Tỷ suất cổ tức là một tỷ lệ phần trăm giữa cổ tức và thị giá cổ phiếu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ cổ tức bạn sẽ nhận được so với số tiền bạn phải trả để mua cổ phiếu. Ví dụ ở trên, đối với cổ phiếu A, nếu bạn nhận được 2 USD/năm từ mỗi cổ phiếu và thị giá cổ phiếu là 50 USD thì tỷ suất cổ tức sẽ là 2 USD/50 USD = 4%. Đối với cổ phiếu B, thị giá cổ phiếu là 100 USD thì tỷ suất cổ tức là 3 USD/100 USD = 3%. Rõ ràng đầu tư vào cổ phiếu A sẽ hiệu quả hơn cổ phiếu B. Vì khi bỏ ra 1 USD sẽ thu được 0,04 USD với cổ phiếu A, nhưng chỉ thu được 0,03 USD với cổ phiếu B.
Tuy nhiên, những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao chưa hẳn đã là sự lựa chọn tốt nhất. Giả sử, cổ phiếu A nói trên có cổ tức 2 USD và tỷ suất cổ tức 4%, tức là cao hơn hẳn tỷ suất trung bình của thị trường (2%). Điều này không có nghĩa là mua cổ phiếu đó là tốt nhất. Hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu công ty đó không thực hiện được kế hoạch thu nhập và giá cổ phiếu sụt trong vòng 1 đêm từ 50 USD xuống còn 40 USD một cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là giá cổ phiếu giảm 20% và đẩy tỷ suất cổ tức lên tới 5% (2 USD/40 USD). Liệu bạn có muốn đầu tư vào một cổ phiếu như vậy chỉ vì tỷ suất cổ tức cao hơn? Có lẽ là không. Ngay cả những cổ phiếu mang lại nhiều cổ tức, thì bạn cũng phải chắc chắn là công ty đó không có vấn đề gì về tài chính. Vì thế, yếu tố cổ tức chưa hẳn đã tác động đến giá cổ phiếu theo tỷ lệ thuận mà còn do ảnh hưởng của các nhân tố khác.
Một chỉ số nữa về cổ tức cũng ảnh hưởng không nhỏ tới giá cổ phiếu, đó là tỷ lệ trả cổ tức. Khi bạn tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, cần xem xét tỷ lệ trả cổ tức của công ty. Chỉ số này thể hiện tỷ lệ phần trăm lợi nhuận được trích ra để trả cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Nếu tỷ lệ này vượt quá 75% có nghĩa là công ty không tái đầu tư lợi nhuận một cách hợp lý. Một tỷ lệ trả cổ tức cao thường hàm ý là thu nhập của công ty được sử dụng phần lớn để trả cho cổ đông và có nghĩa là công ty đang cố gắng thu hút các nhà đầu tư mua cổ phiếu của mình. Do đó, tỷ lệ này phải ở mức hợp lý mới có thể thu hút các cổ đông và làm cho giá cổ phiếu đó tăng.
Không phải bất cứ cổ phần nào cũng đem lại cho bạn cổ tức. Nếu một công ty đang tăng trưởng nhanh có thể làm lợi cho các cổ đông bằng cách tái đầu tư. Trong trường hợp đó, công ty sẽ không trả cổ tức hoặc trả với tỷ lệ cổ tức rất thấp. Ví dụ, công ty Microsoft không trả cổ tức nhưng các cổ đông của công ty không hề phàn nàn gì về điều này. Và cổ phiếu của công ty vẫn luôn đứng trong danh sách những cổ phiếu có giá cao nhất. Một cổ phiếu không được trả cổ tức không hẳn là cổ phiếu của công ty đang làm ăn thua lỗ.
Vì vậy, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng. Cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Nguyên tắc quan trọng là doanh nghiệp nên xác định và duy trì cổ tức nên ở mức khá thấp và chỉ nên tăng mức cổ tức khi có những khoản thu nhập tăng thêm.
Việc thanh toán, chi trả cổ tức cho cổ đông, có khả năng bằng tiền mặt hoặc không dùng tiền mặt, dưới 2 hình thức:
♦ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, giữ tiền mặt cho đầu tư phát triển, nếu mức chi trả đó chiếm tỷ lệ nhỏ, khoảng 2-5% tổng số cổ phiếu đã phát hành, thì nhà đầu tư không chú ý đến "loãng giá" (giá cổ phiếu sẽ giảm xuống), ảnh hưởng không đáng kể đến thu nhập. Nhà đầu tư yên tâm khi họ nhận được cổ phiếu nhiều hơn; nhưng thực tế họ không nhận được gì, vì khi công bố trả cổ tức bằng cổ phiếu, thì giá cổ phiếu sẽ giảm xuống tương ứng với tỷ lệ trả cổ tức bằng cổ phiếu.
♦ Chi trả cổ tức bằng tách cổ phiếu. Tách cổ phiếu sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành và làm giảm mệnh giá cổ phiếu tương ứng với tỷ lệ tách. Do đó, giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ giảm tương ứng và giao dịch được thực hiện dễ dàng hơn. Việc tách cổ phiếu thường được thực hiện khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng quá cao làm cho các giao dịch sẽ khó thực hiện và điều này sẽ làm giảm tính thanh khoản của cổ phiếu. Vì vậy, khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường thì việc tách cổ phiếu là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch cổ phiếu. Đồng thời, sau khi tách giá cổ phiếu thường có xu hướng tăng lên. Mặt khác, sau khi tách cổ phiếu, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty. Qua đó góp phần làm hạn chế khả năng công ty bị thâu tóm.
Ví dụ, một công ty cổ phần ABC có 1 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 10 tỷ đồng) và giá thị trường tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Công ty tiến hành tách cổ phiếu theo tỷ lệ 1:2 (nghĩa là người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 2 triệu cổ phiếu mệnh giá 5.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị niêm yết vẫn là 10 tỷ đồng nhưng giá thị trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 50.000 đồng/cổ phiếu. Cho đến nay, nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu chưa xảy ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhưng nhiều nhà đầu tư rất quan tâm đến nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu của các công ty cổ phần như trường hợp Công ty cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông (SACOM) vừa có dự định tách cổ phiếu để nâng cao giá trị công ty. Do đó, rất có thể trong tương lai gần, giá cổ phiếu của công ty này sẽ tăng sau khi tách. Như vậy, các tổ chức phát hành vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để đầu tư phát triển, đồng thời tăng thêm cổ phiếu cho các cổ đông, nguồn cung cấp cổ phiếu cho thị trường t ăng, do đ ó l àm giảm biến động giá cả thị trường, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.
e) Lãi suất
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Lãi suất tăng sẽ rất có khả năng làm giảm giá các loại cổ phiếu trên thị trường. Người mua cổ phiếu của công ty mới niêm yết thường trông chờ cổ tức thấp thôi. Nhưng đổi lại, họ mong giá cổ phiếu sẽ tăng trên thị trường chứng khoán. Giả thử một người mua cổ phiếu có cổ tức chừng 4% và giá trị cổ phiếu tăng chừng 10% sau một năm. Cộng lại, người đó sẽ hưởng chừng 14% trên số tiền bỏ ra đầu tư mua cổ phiếu - cao hơn lãi suất giả định 10% nói ở trên. Tuy nhiên, khi lãi suất tăng kéo theo lãi suất trái phiếu tăng chắc chắn người ta sẽ trông đợi lợi nhuận có được từ việc mua cổ phiếu sẽ phải cao hơn mức 14% đề bù vào những rủi ro của cổ phiếu so với trái phiếu. Trước mắt giá cổ phiếu phải giảm để nâng mức lợi nhuận này.
Để giải thích rõ chiều hưởng ảnh hưởng của lãi suất tới giá cổ phiếu cần phải xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
♦ Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
♦ Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng. Do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa hai nhân tố này càng lớn.
♦ Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Cụ thể là khi xảy ra lạm phát thì chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất xấu đến giá cổ phiếu. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa lãi suất và giá cổ phiếu càng lớn.
Đối với những trường hợp ngược lại, đó là khi lạm phát và lãi suất giảm sẽ dẫn đến kết quả ngược với các trường hợp trên. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm vì ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lái suất.
f) Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
Khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại này, nền kinh tế Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển và nó sẽ kéo theo sự phát triển của các công ty và nhiều thị trường, nhất là thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy khi quốc gia này trở thành thành viên của WTO, giá của một số cổ phiếu tăng trưởng nhiều lần so với trước 2001. Cổ phiếu Việt Nam cũng sẽ tăng trưởng như thế khi mà giá hiện nay chỉ cao hơn vài chục lần đến vài trăm lần mệnh giá. Giá cổ phiếu sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Chính vì vậy mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào đây và họ đánh giá được tiềm năng cũng như sự hấp dẫn của thị trường này.
Công ty Merri Lynch (một trong những hãng tư vấn đầu tư nổi tiếng của Mỹ) nói rằng chỉ cần bạn bỏ tiền đầu tư vào cổ phiếu blue-chip ở Việt Nam và yên tâm 10 năm sau bạn sẽ kiếm được một khoản khá lớn mà không cần phải làm gì. Công ty bluechip đó sẽ kiếm lời cho bạn. Câu nói này cho thấy đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam siêu lợi nhuận như thế nào. Các nhà đầu tư nước ngoài dám bỏ tiền ra để đầu tư vào cổ phiếu Việt Nam, lẽ nào người Việt Nam lại không?
Thêm một lý do nữa để cho rằng bây giờ là thời điểm thích hợp để đầu tư vào thị trường chứng khoán chính là thuế. Lợi nhuận kiếm được từ việc mua bán cổ phiếu không bị đánh thuế, phải đến 2009 nhà đầu tư mới bị đánh thuế thu nhập. Đầu tư cổ phiếu vì giá trị gia tăng của cổ phiếu trong tương lai. Các công ty niêm yết sẽ không được ưu đãi thuế vào năm sau, điều này không quan trọng lắm. Vấn đề là công ty niêm yết làm ăn như thế nào. Và đều này cũng không làm ảnh hưởng lớn đến sự hấp dẫn của thị trường, vốn còn rất nhỏ bé nhưng lại đầy tiềm năng.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
2. Yếu tố phi kinh tế
a) Yếu tố chính trị
Kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị. Điều kiện chính trị là một trong những yếu tố vĩ mô quan trọng, làm nền tảng cho sự biến động, tăng trưởng cũng như phát triển của mọi nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Do đó, khi đề cập đến các nhân tố tác động tới xu thế giá chứng khoán, chúng ta không thể bỏ qua những yếu tố trong môi trường chính trị hay sự biến động của tình hình chính trị.
Lấy ví dụ như, sau vụ bắn thử tên lửa của cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên vào giữa năm 2006, do quan ngại về những bất ổn chính trị và sự giảm sút lòng tin của giới đầu tư, thị trường tài chính tiền tệ châu Á đã trải qua nhiều biến động lớn: giá cổ phiếu và tiền tệ giảm mạnh trong khi giá trái phiếu và vàng bạc tăng vọt. Cụ thể, chỉ số chứng khoán Nikkei trung bình giảm 0,6% xuống còn 15,546.78, chỉ số chứng khoán KOSPI của Hàn Quốc giảm tới 2%, chỉ số chuẩn của Đài Loan (TWII) giảm 0,4%. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi các nhà đầu tư đều thấy rõ mối nguy hiểm với tài sản tích trữ trong bối cảnh xáo trộn hay bất ổn chính trị. Tuy nhiên, trong điều kiện chính trị ổn định hiện nay của Việt Nam (không có chiến tranh, không có các thay đổi chế độ chính trị…) đồng thời vào thời điểm này khi thị trường chứng khoán non trẻ của Việt Nam chưa thực sự hoà nhập với biến động của thị trường chứng khoán thế giới, yếu tố này hầu như tác động rất ít tới sự biến động giá chứng khoán.
b) Yếu tố văn hoá
Nhắc đến văn hoá ở đây không có nghĩa chỉ là văn hoá xã hội truyền thống hay yếu tố dân gian, dân tộc của Việt Nam. Mỗi một lĩnh vực từ đời sống, xã hội hay kinh tế, kĩ thuật đều tồn tại một thứ văn hoá của riêng lĩnh vực ấy, ví như văn hoá công ty, văn hoá ngành…Cũng như vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù còn non trẻ, mới được thành lập từ năm 2000, chưa hoàn thiện được văn hoá của mình nhưng cũng đã có những yếu tố riêng đặc trưng, phần nào tác động tới xu thế giá chứng khoán.
Trước hết, việc ứng dụng các mô hình phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật để dự báo tỷ suất sinh lợi chứng khoán là rất cần thiết đối với các nhà đầu tư mang tính chuyên nghiệp. Tuy nhiên, những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua là bằng chứng cho thấy sự thiếu vắng các công cụ dự báo này. Đa số các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay là các nhà đầu tư cá nhân (chiếm 99%). Thông thường đối tượng này trình độ hiểu biết còn hạn chế, họ chủ yếu thực hiện các quyết định đầu tư một cách cảm tính hay theo trào lưu với tư tưởng chộp giật, đầu cơ. Hơn nữa, việc ứng dụng các mô hình dự báo trên cũng còn những hạn chế do hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam nghèo nàn về chủng loại, ít ỏi về số lượng và đặc biệt là thiếu các hàng hóa cao cấp để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư lâu dài hay hấp dẫn các nhà đầu tư chuyên nghiệp có nguồn tài chính lớn cộng với tình trạng rò rỉ thông tin, không công khai, minh bạch. Một số dư luận còn cho thấy cứ đầu tư theo tâm lý bầy đàn còn chắc ăn hơn đầu tư theo phân tích. Chính đặc điểm này khiến cho giá chứng khoán Việt Nam biến động một cách khó lường và không phản ánh xác thực các thông tin trên thị trường cũng như giá trị thực của nó.
Mặt khác, sự thay đổi về công nghệ, sự khác nhau trong phương thức giao dịch, hệ thống giao dịch cũng gây ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Gần đây có hiện tượng một số cổ phiếu khi chuyển sàn lại tăng giá mạnh. Ví dụ cổ phiếu PPC lúc còn ở sàn Hà Nội chỉ là 65.000 đồng, khi chuyển sang sàn TP.HCM lại tăng lên 105.000 đồng. Đó chính là do sự khác nhau trong hệ thống giao dịch giữa các sàn. Hệ thống giao dịch ở sàn Hà Nội (khớp lệnh báo giá) đòi hỏi nhà đầu tư phải biết “định giá đúng”. Do khớp lệnh liên tục nên nếu người chơi không biết định giá sẽ bị thiệt. Ví dụ thị trường đang định giá cao cổ phiếu đó, nhưng nếu không biết nên nhà đầu tư bán với giá sàn thì ngay lập tức sẽ có người mua. Trong khi đó tại sàn TP.HCM (khớp lệnh định kỳ), người bán này có thể không bị thiệt do hệ thống giao dịch tìm ra mức giá thị trường, mà mức giá này thường cao hơn mức giá sàn (trừ trường hợp thị trường giảm giá quá mức). Cách khớp lệnh này đã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp liên quan đến cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.docx