Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược công nghệ hoá hướng về xuất khẩu, các nước NIC Châu Á và các nước ASEAN sau này tập trung phát triển các công nghệ thu hút nhiềulao động, quy mô vốn trung bình và đòi hỏi tay nghề vừa phải. Đó là ngành dệt, maymặc, giấy, đồ chơi trẻ em, các mặt hàng da và các hàng tiêu dùng khác. Đồng thời chính sách xuất khẩu, các nước này còn lưu ý các ngành thích hợp đã có làm ngành trọng điểm xuất khẩu trong từng giai đoạn và kịp thời xây dựng, phát triển các ngành mới để tiếp tục khả năng mở rộng xuất khẩu khi các ngành đang giữ vai trò chủ đạo trong lực lượng xuất khẩu không còn nhiều hiệu quả nữa.
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những quan điểm, định hướng và giai pháp của chính sách công nghiệp hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 3 năm đầu (1988 - 1990) vốn đăng ký chỷ gần 7 triệu đôla 1 dự án thì năm 1992: 11 triệu USD, năm 1996: 24 triệu USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thể hiện trên các mặt:
- Tính đến cuối năm 1996 có khoảng 375 dự án đã đi vào kinh doanh với tổng doanh thu năm 1996 trên 4, 2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô) chiếm khoảng 45%. Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 7 - 8% GDP của năm 1995 và 1996.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Năm 1996, ngành công nghiệp có tốc độ phát triển 14,1%, trong đó công nghiệp quốc doanh 11,7%. khu vực đầu tư nước ngoài 20,62%, năm 1998, ước tính giá trị sản lượng ngành công nghiệp tăng 11,5%, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 6,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22%.
- Những ngành có tỷ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài cao là: công nghiệp 62% tổng số vốn và kết quả sản xuất. chiếm 25,1% trong tổng giá trị sản xuất năm 1996. Tiếp đến là các ngành kinh doanh khách sạn: 13,7% kinh doanh bất động sản: 10,9%, vận tải và thông tin liên lạc: 5,3% tổng số vốn. Những ngành có đầu tư nước ngoài thường là những ngành có kỹ thuật công nghệ cao như khai thác dâù khí, sản xuất ôtô, xe máy, một số mặt hàng gia dụng điện tử và thiết bị điện tử. . . Đó là những ngành có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hàng năm thu hút khoảng 3 - 4 vạn người làm việc trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 có khoảng 19 van người làm việc ở khu vực này.
5. Cơ cấu kinh tế ngành đã chuyển dịch dần theo hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu
Trong những năm đổi mới vừa qua nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất hướng nội, thay thế nhập khẩu nhưng về mặt chủ trương và biên pháp thực hiện đã coi trọng hướng vào xuất khâủ. Từ năm 1991 đến năm 1995 bình quân kim ngạch xuất khẩu đạt 16,9 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 16, 7% năm tăng gấp 2 lần tốc độ tăng bình quân của GDP, năm 1997 so với năm 1996 kim ngạch xuất khẩu tăng 20% nhập khẩu tăng 0,5% mức nhập siêu 37,5% năm 1998, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,3 tỷ USD bằng năm 1997, nhập siêu bằng 20% so với kim ngạch xuất khẩu.
Cơ cấu hàng xuất khẩu biến đổi theo hướng tăng chút ít tỷ lệ hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, hàng công nghệ và khoáng sản. Với số liệu thay đổi theo các năm như sau:
Năm
1990
1995
1996
Hàng Công Nghiệp
và khoáng sản
25, 66
25, 28
28, 73
Hàng CN nhẹ và tiểu
thủ Công Nghiệp
26, 43
28, 44
28, 95
Hàng Nông Sản
32, 57
32, 03
29, 75
Hàng Lâm Sản
5, 26
2, 82
2, 92
Hàng Thuỷ Sản
9, 94
11, 40
9, 59
Cơ cấu hàng xuất khẩu.
Nhiều ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu có sự phát triển khá năm 1995 so với năm 1990 luyện kim đen tăng 3,83 lần luyện kim màu tăng 1,86 lần, sản xuất thiết bị máy móc 1,62 hoá chất phân bón cao su tăng 2,49 lần, vật liệu xây dựng 2,28 lần.
Tóm lại cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua đã có sự chuyển dịch đúng và tích cực theo hướng: đẩy mạnh hội nhập và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có sự chuyển dịch cơ cấu như vậy là do một phần chính sách vốn phù hợp nên đã thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài do đó quy mô vốn đầu tư toàn xã hội ăng từ 15% GDP năm 1991 lên 27% GDP vào năm 1995. Đến năm 1995 đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn trong nước kể cả vốn khấu hao chiếm 17% GDP, trong đó phần vốn ngân sách 4, 2% GDP. Tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn năm 1988-1998 là 35, 4 tỷ USD với 2200 dự án chiếm 33% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội (năm 1995 là 22%).
- Cơ cấu vùng lãnh thổ:
Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng một số địa bàn kinh tế đặc biệt là một thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh gắn với thị trường.
- Cơ cấu thành phần kinh tế.
Từ năm 1986 đến nay, trong tiến trình đổi mới, đảng ta đã chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá gồm nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Do đó phải tiến hành điều chỉnh lại các thành phần kinh tế được tiến hành từng bước bổ sung và hoàn thiện cả về măt lý luận cũng như thực tiễn phù hợp với tình hình phát triển nền kinh tế của đất nước.
Đại hội lần thứ VI nêu rõ thành phần kinh tế ở nước ta bao gồm. kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và kinh tế tư nhân.
Đại hội lần thứ VII nêu lên cơ cấu thành phần kinh tế gồm : kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân.
Thực trạng cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta về tổng sản lượng công nghiệp (tính theo %).
Năm
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tư nhân
1976
68, 6
31, 4
1977
69, 2
30, 0
1987
55, 4
44, 1
1988
56, 5
43, 5
1989
57, 0
43, 0
1990
59, 0
40, 2
Đến nay kinh tế Nhà nước vẫn nắm những ngành, nông nghiệp lĩnh vực kinh tế then chốt và các doanh nghiệp trọng yếu, chiếm 70% tổng vốn đầu tư những hiệu quả kinh tế nói chung còn thấp.
Kinh tế tập thể bao gồm toàn bộ lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Từ năm 1986 đến nay, nhất là từ sau khi có nghị quyết 10 của bộ chính trị, 2/3 số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn rất ít tác dụng đối với kinh tế hộ gia đình, 1/3 chuyển sang làm chức năng dịch vụ ở một số khâu.
Kinh tế cá thể có phạm vi và đối tương đối lớn. Nhà nước đã có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh trong các ngành nghề ở thành thị và nông thôn.
Kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong các ngành do luật pháp quy định. Hình thức liên doanh giữa Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước được mở rộng tuy nhiên kinh tế tư bản tư nhân còn rất nhỏ bé. Một mặt do các nhà tư sản ở nước ta ít vốn lại chưa có đầu óc làm ăn lớn. Mặt khác họ vẫn chưa tin vào chính sách và pháp luật bảo đảm cho họ sản xuất, kinh doanh an toàn.
Nhìn chung, cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay là:
Kinh tế Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn về vốn đầu tư và chiếm lĩnh hầu hết các ngành nghề quan trọng nhưng trước mắt hiệu quả kinh doanh còn thấp. Các thành phần kinh tế cá thể phát triển chưa cân xứng với tiềm năng hiện có chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực buôn bán, dịch vụ, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào sản xuất không đáng kể, do đó chưa góp phần làm thay đổi cơ câu các thành phần kinh tế
Về mặt lý luận chúng ta đã xác định được một cơ cấu thành phần kinh tế phù hợp với tình hình hiện tại nhưng về mạt thực tế cơ cấu các thành phần chưa có sự thay đổi đáng kể.
2. Khoa học và công nghệ
Hiện nay ở nước ta công nghệ được sử dụng phần lớn là nhập từ nước ngoài trước năm 1987, công nghệ nhập chủ yếu là từ Liên Xô và các nước Đông Âu dưới hình thức viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất ưu đãi. Công nghệ nhập phần lớn là lạc hậu so với trình độ thế giới.
Từ năm 1987, sau khi có chính sách đổi mới, nhất là sau khi có luật đầu tư nước ngoài (tháng 12-1987) công nghệ đã được chuyển giao vào nước ta bằng các kênh thương mại, chủ yếu là các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp và một phần là các dự án hỗ trợ kỹ thuật của UNDP, các dự án ODA, việc mua thiết bị bằng vốn trong nước. v. . .
Với các kênh chuyển giao trên, chúng ta đã nhận được nhiều công nghệ hơn, trong đó có một công nghệ tiên tiến. Với chính sách “chú trọng công nghệ đòi hỏi mất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp tranh thủ đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ trước hết ở một số khâu có ý nghĩa quyết định việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là hàng xuât khẩu”. Cách làm này đã được hết sức coi trọng hiện nay khi khả năng vốn của ta còn nhỏ bé. Thực tế mấy năm qua nhiều cơ sở sản xuất đã thực hiện khá thành công theo hướng này. Xí nghiệp Điện tử Vietronis (Thủ Đức), Xí nghiệp Xà phòng Đánh răng P/S, xí nghiệp Gạch men Kim Long Hầu (Thái Bình)
Là những cơ sở điển hình biết lựa chọn đầu tư cho khâu mấu chốt trong quy trình công nghệ phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình, mang lại hiệu quả cao.
- Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới. Trong đó, phải kể đến ngành bưu chính viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí, một số dây chuyền sản xuất tự động đã được đưa vào trong nước như công nghệ CAD, CAM được đưa vào trong thiết kế cơ khí, chế tạo, dệt may. . . thông qua các dự án đầu tư nước ngoài một số công nghệ mới được nhập vào nước ta như sản xuất cáp quang, sản xuất ống thép bằng phương pháp cuốn và hàn tự động theo phương pháp xoắn ốc.
Nhà nước đã ban hành và sửa đổi các bộ luật đầu tư, pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam, các văn bản của chính phủ về chuyển giao công nghệ đã khuyến khích và thu hút được một số lượng lớn công nghệ nhập từ nước ngoài, có nhiều mối để nhập công nghệ các thiết bị như thiết bị sản xuất xi măng, sản xuất phân bón. v. v. . . đã được nhập vào nước ta một khối lượng lớn chất lượng công nghệ nhập ngày một cao hơn. Nhà nước ta đã biết tân dụng được lợi thế của các nước đi sau để tận dụng những công nghệ mới hiện đại đi thẳng vào phát triển các ngành mũi nhọn, trọng điểm như nhà máy dệt long an đã đầu tư nhập các thiết bị hiện đại nhất từ Mỹ, Nhật, Tây Âu để tạo ra một bước nhay vọt về chất lượng và khả năng cạnh tranh ngang tầm thế giới.
Nhà nước ta dã bắt đầu phát huy được sự phát triển của hai bộ phận công nghệ đó là bộ phận công nghệ truyền thống được hiện đại hoá và bộ phận công nghệ hiện đại bao gồm cả các ngành mũi nhọn. Hai bộ phận này thúc đẩy và cùng nhau phát triển.
- Về công tác nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ trong nước chúng ta đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách của đảng và Nhà nước. Về khoa học tự nhiên và công nghệ đã chú trọng hơn việc nghiên cứu ứng dụng, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ ưu tiên như vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin. . . Việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh được đẩy mạnh hơn.
II. Những hạn chế trong việc thực hiên các chính sách
1. Cơ cấu kinh tế
* Cơ cấu ngành :
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành diễn ra còn chậm chạp trong những năm gần đây.
Năm
Khu vực
1991
1997
Tăng giảm
Nông nghiệp
40, 5
26, 22
-14, 28%
Công nghiệp
23, 8
31, 23
+7, 43%
Dịch vụ
35, 7
42, 55
+6, 85%
- Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở khu vực đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại (năm 1995: 9,5% năm 1996: 9,3%, năm 1997: 8,8%, năm 1998: 6,1%).
- Chưa có chiến lược và quy hoạch có luận cứ khoa học và có tính khả thi.
- Chưa hình thành rõ các ngành trọng điểm và mũi nhọn.
Ngay khái niệm về ngành trọng điểm và ngành mũi nhọn vẫn chưa có sự thống nhất và sự lựa chọn ngành trọng điểm mũi nhọn vẫn chưa cụ thể. Nghị quyết 7 Trung ương và văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII có dùng khái niệm ngành trọng điểm và ngành mũi nhọn. Nghị quyết 7 (khoá VII) chỉ rõ “Chính sách công nghiệp nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải hướng tới hình thành một số ngành công nghiệp trọng yếu đối với phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm là công nghiệp chế biến và chế tác mà công nghiệp cơ khí và điện tử có vị trí hàng đầu“. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII xác định có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu. . . Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ” trong khi đó để thay cho khái niệm ngành trọng điểm và mũi nhọn có người lại cho là khái niệm ngành công nghiệp chủ lực.
- Công nghiệp chế biến còn nhỏ bé:
Công nghiệp chế biến bao gồm chế biến nông, lâm, hải sản, chế biến kim loại, sản xuất hoá chất, khoáng sản ở trình độ thấp, nhỏ bé chưa phát triển. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nguyên liệu thô chiếm trên 70%, trong đó các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là: dầu thô, gạo, cà phê hạt, cao su nguyên liệu, hàng thuỷ sản cơ chế và hàng dệt may gia công.
Công nghiệp nông thôn còn nhỏ bé, phát triển trong tình trạng bế tắc. Tỷ trọng lao động hoạt động trong công nghiệp nông thôn chỉ chiếm 1,45% (Đồng bằng Nam Bộ :3, 12%, Đồng bằng Sông Hồng: 2,12%). Giá trị tổng sản lượng công nghiệp nông thôn chiếm khoảng 9,5% - 11% giá trị tổng sản lượng các ngành sản xuất công nghiệp nông thôn chiếm 6- 8% thu nhập quốc dân, 63% sản lượng công nghiệp địa phương.
- Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của sản phẩm yếu do vậy khả năng tăng trưởng kém và hậu quả tất yếu là cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và kém hiệu quả.
- Phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa hỗ trợ và tạo điều kiện cho phát triển khu vực có vốn đầu tư trong nước nhiều mặt hàng truyền thống quan trọng chiếm tỷ trọng lớn được phát triển mạnh ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì lại suy giảm ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước như : lắp ráp các sản phẩm điện tử của khu vực có vốn nước ngoài tăng 19,8% thì khu vực trong nước lại giảm 24%, xi măng tăng 112,4% nhưng khu vực trong nước chỉ tăng 16,1%, chế tạo máy biến thế tăng 23,8% trong nước giảm 3,2%. v. v. . .
* Cơ cấu thành phần kinh tế:
Mặc dù chúng ta đã thấy được sự phát triển mất cân đối giữa các thành phần kinh tế nhưng việc khắc phục nó con rất khó khăn, phức tạp cho đến nay kinh tế Nhà nước nói chung vẫn ở trong tình trạng trì trệ, lãng phí, sản xuất kém hiệu quả. Kinh tế trong nông nghiệp đang rơi vào tình trạng bị động khi hộ gia đình được xác định là đơn vị kinh tế độc lập, kinh tế tập thể trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, thương nghiệp và dịch vụ sau một thời gian mở rộng phạm vi hoạt động đến nay cũng đang bắt đầu gặp khó khăn, chưa có giải pháp khắc phục, tạo thế đi lên.
Kinh tế tư nhân, cá thể tuy có phát triển nhưng chủ yếu là trong các ngành thương nghiệp dịch vụ, ít tham gia vào lĩnh vực sản xuất. Trong thời gian qua, tuy kinh tế tư nhân đã làm được một số việc thúc đẩy lưu thông hàng hoá, vật tư, nhưng cũng đang bộc lộ nhiều tiêu cực như buôn lậu, làm hàng giả, trốn thuế.
Trong những năm qua, cơ cấu thành phần kinh tế tuy đã được hình thành, nhưng cơ cấu kinh tế của các thành phần chuyển biến chậm. Từ cơ cấu vốn đầu tư đến cơ cấu thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào kinh tế quốc doanh. Vai trò của kinh tế tư nhân cá thể chưa được xác định rõ. Nhiều người còn lo ngại, chưa tin do đó chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.
Trình độ trang bị cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ sản xuất của các thành phần kinh tế nói chung là lạc hậu, chắp vá công suất sử dụng máy móc không cao, năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Sự liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế còn rời rạc, mạnh ai nấy làm, thiếu sự thống nhất hiệp lực trong cạnh tranh nhằm bảo đảm lợi ích của mỗi thành phần và lợi ích toàn xã hội.
Trình độ tổ chức quản lý, trình độ ngành nghề của đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân kỹ thuật còn yếu và không đồng bộ, ”nhiều thầy ít thợ”. Đặc biệt chưa có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng các nhà doanh nghiệp về luật pháp, về kiến thức kinh doanh.
Các công cụ quản lý vĩ mô bao gồm hệ thống pháp luật các văn bản pháp quy, các chính sách khuyến khích cũng như hệ thống quản lý Nhà nước chưa đủ sức quy tụ và khuyến khích các thành phần kinh tế cùng hướng vào hoạt động sản xuất kinh doanh làm giàu cho đất nước.
* Cơ cấu vùng, lãnh thổ:
Quá trình xây dựng ở nước ta (ở miền Bắc từ sau năm 1954 và trong cả nước từ sau năm 1975), chịu ảnh hưởng nặng nề của tư duy máy móc, của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu do đó phân công lao động theo lãnh thổ chưa được đẩy mạnh và chuyển biến về chất, cơ cấu lãnh thổ kinh tế quốc dân chưa có những chuyển dịch đáng kể và đúng hướng.
So với cơ cấu ngành và cơ cấu lĩnh vực thì cơ cấu lãnh thổ có tính trì trệ hơn, có sức ỳ lớn hơn. vì thế, những sai lầm trong quá trình xây dựng cơ cấu lãnh thổ có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế- xã hội, và rất khó khắc phục tuy nhiên trên thực tế điều hoàn toàn có tính quy luật này chưa được tính đến trong tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất của nước ta giai đoạn 1986-2000, trong các phương án phân vùng kinh tế và quy hoạch lãnh thổ, trong các kế hoạch và dự án phát triển kinh tế- xã hội cho các vùng, trong các luận chứng kinh tế- kỹ thuật cho từng đối tượng đầu tư xây dựng cơ bản, các công trình cụ thể v. v. . .
Các vùng chuyên môn hoá sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hình thành chưa phù hợp với những điều kiện và đặc điểm cụ thể của từng địa phương, không ổn định về phương hướng sản xuất và quy mô do đó hạn chế năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất hàng hoá các trung tâm công nghiệp và đô thị đặc biệt là các đô thị lớn, chưa phát triển đồng bộ và đúng hướng, cơ cấu kinh tế và xã hội của chúng chậm đổi mới, kém hiệu quả, do đó tạo ra được sức mạnh sẽ lôi kéo toàn bộ lực lượng sản xuất các vùng lân cận phát triển.
Mặt khác tác động quản lý vĩ mô thông qua đầu tư xây dựng còn rất yếu, thiếu định hướng. Trong nhiều trường hợp còn áp dụng quy mô và cơ cấu ngành sản xuất cho các vùng khác nhau, có những điều kiện và tiềm năng không giống nhau, chưa phát triển đồng bộ theo một trình tự hợp lý các phần tử cơ cấu lãnh thổ đặc biệt là các yếu tố kết cấu hạ tầng sản xuất, xã hội và môi trường.
2. Chính sách đổi mới khoa học và công nghệ
Nhìn chung, có thể nói rằng hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ trong thời gian vừa qua còn thấp và điều này cũng là một dấu hiệu về việc chúng ta đang ở thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá và nguyên nhân của sự kém hiệu quả chính là sự yếu kém về năng lực quốc gia.
Trong thời gian vừa qua những nghiên cứu về đổi mới công nghệ tập trung chủ yếu vào vấn đề lựa chọn và nhập công nghệ của nước ngoài nhưng chúng ta đã phải trả giá quá cao cho công nghệ cũ, lạc hậu thường không phù hợp với các nguồn lực điều kiện và mục tiêu của nơi áp dụng và do vậy được sử dụng với hiệu quả thấp.
- Khả năng và trình độ tiếp nhận công nghệ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, vì vậy đã có thời kỳ Việt Nam được coi là bãi thải công nghệ cũ của nước ngoài.
Theo những kết quả điều tra mới đây do vụ khoa học kỹ thuật bộ công nghiệp tiến hành khảo cứu trên 727 máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ nhập khẩu ở 42 nhà máy, cho thấy 76% số thiết bị hoạt động theo công nghệ thuộc thế hệ cũ ( 1950 - 1960 ), 2/3 đã hết khấu hao 50% thiết bị nhập khẩu đã được tân trang lại trước khi bán sang việt nam, những cỗ máy mới qua qua sử dụng 5 năm chỉ có 10%. Nhiều đơn kinh doanh nhập khẩu máy móc quá cũ đến mức chỉ khai thác nổi 50% công suất hoặc thậm chí không sử dụng được trong hợp tác đầu tư với nước ngoà, trừ một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong các ngành thông tin viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất và lắp ráp ô tô, xe gắn máy. v. v. . . phần lớn thiết bị đưa vào thuộc loại trung bình của thế giới và chỉ tiên tiến hơn những thiết bị hiện có. Các công nghệ nhập vào đều được định giá cao hơn giá thực tế.
- Chất lượng nhân lực của nước ta còn chưa được quan tâm, đào tạo và khai thác hết khả năng vì vậy việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào nước ta còn bị hạn chế.
- Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ vẫn còn mang nặng tính chất hành chính, những đổi mới về công nghệ vẫn chủ yếu dưa vào nguồn ưu đãi mặt khác các chính sách biện pháp quản lý công nghệ mới ban hành trong những năm đổi mới không đồng bộ, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau tạo kẽ hở cho sự nhập công nghệ cũ và trốn thuế ở nước ta.
- Chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách xuất nhập khẩu chưa khuyến khích và buộc các doanh nghiệp tích cực ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi, chưa tạo được động lực cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư tài chính của Nhà nước cho hoạt động khoa học công nghệ thấp chỉ chiếm 1% chi ngân sách.
- Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông nhưng không đồng bộ, thiếu những cán bộ thạo công nghệ giỏi quản lý những chuyên gia có khả năng chủ trì các chương trình đề tài khoa học có ý nghĩa quan trọng đối với quốc kế dân sinh. Trong nhiều năm qua khoa học nước ta, nhất là khoa học xã hội chưa có quan hệ rộng rãi với các nước nên chưa được tiếp cận nhiều với những thông tin và thành tựu mới của khoa học thế giới.
- Việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ khoa học còn nhiều thiếu sót.
Phần III
Những quan điểm, định hướng và giai pháp của chính
sách công nghiệp hoá ở Việt Nam
I. Phương hướng phát triển công nghiệp hoá của đảng cộng sản Việt Nam trong thời gian tới
1. Nhiệm vụ
Giai đoạn này là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới- đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành teo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra :
Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Nhiệm vụ tổng quát đó phải thấu suốt tư tưởng chỉ đạo.
- Thực hiện đồng thời ba mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao bền vững và có hiệu quả, ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, chuẩn bị các tiên đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng và hoàn thiện thể chế.
- Tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội công nghiệp, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đổi mới căn bản tổ chức và quản lý, nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo. Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, triển khai thực hiện luật hợp tác xã. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, phát huy khả năng của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân.
- Kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển, phát huy được lợi thế của mỗi vùng, tránh chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.
II. Quan điểm, định hướng và giải pháp của chính sách công nghiệp hoá
Về các chỉ tiêu kinh tế, Việt Nam hiện vẫn là một trong các quốc gia kém phát triển nhất khu vực để có thể vươn lên đạt trình độ ngang hàng với các quốc gia khác, Việt Nam cần phải đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong thời gian tương đối dài. Nếu tốc độ tăng trưởng trong những năm sắp tới của các nước ASEAN và NIC Châu á sẽ vào khoảng 7% năm thì Việt Nam sẽ phải đạt tới tốc độ cao hơn trên 10%. Tốc độ này đã là thực tế ở một số nước Châu á đặc biệt ở trung quốc thậm chí các tỉnh ven biển phía nam Trung Quốc đã đạt tới tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải tìm ra các giải pháp thích hợp để đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Từ năm 1991 đến 1995, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 8,3%. Động lực chính của tăng trưởng kinh tế đó là sự khởi động của các cơ chế thị trường, sự giải phóng cho các thành phần kinh tế và mở cửa cho các hoạt đông kinh tế đối ngoại. . .
Những nhân tố này trong những năm tới vẫn tiếp tục có tác động tốt. Song chỉ những tác động đó khó có thể đạt tới mức tăng trưởng mạnh mẽ như đã có. Để có tốc độ tăng trưởng cao hơn, nền kinh tế Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ hơn nữa- lực đẩy đó chỉ có thể có nhờ đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Vậy Việt Nam sẽ phải lựa chọn chính sách công nghiệp hoá nào, những ngành công nghiệp nào sẽ có vị trí quan trọng, các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và tư bản nước ngoài sẽ có vai trò gì trong quá trình phát triển kinh tế để nền kinh tế ngay càng phát triển.
1. Điều kiện cơ bản của quá trình công ngh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50690.doc