PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 3
I. KHÁI NIỆM ĐIỀU TIẾT THU NHẬP VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI, ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC: 3
1. Khái niệm “điều tiết thu nhập”: 3
2. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của các học thuyết trước C. Mác: 4
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển: 4
2.1.1. Lịch sử ra đời: 4
2.1.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học cổ điển: 5
2.2. Kinh tế chính trị học tầm thường: 6
2.2.1. Lịch sử ra đời: 6
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường: 6
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản: 6
2.3.1. Lịch sử ra đời: 6
2.3.2. Đặc điểm lý luận: 7
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC VỀ QUY LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP: 7
1. Lý luận về tiền công: 7
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển: 7
1.1.1. William Petty (1623 – 1687): 7
1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790): 8
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823): 9
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường: 10
1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844): 10
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832): 11
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản – Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842): 11
2. Lý luận về lợi nhuận: 11
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển: 11
2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790): 11
2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823): 12
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường: 13
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844): 13
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832): 13
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842): 14
3. Lý luận về địa tô: 14
3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển: 14
3.1.1. William Petty (1623 – 1687): 14
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790): 14
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823): 15
3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường - Jean Baptiste Say (1767 – 1832): 16
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842): 16
III. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN: 16
1. Ý nghĩa lý luận: 16
2. Liên hệ thực tiễn: 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
20 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/02/2022 | Lượt xem: 979 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những thành tựu nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập, ý nghĩa lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủng hoảng có chu kỳ. Sau nước Anh, phương thức sản xuất TBCN cũng được xác lập ở các nước khác. Từ năm 1830, sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản được xác lập ở Anh và Pháp, nhưng giai cấp vô sản cũng ngày càng lớn mạnh, phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, nay mang tính chất chính trị, đe dọa sự tồn tại của CNTB.
Việc xuất hiện những hình thái khác nhau của CNXH không tưởng tiêu biểu là Saint Simon, M. Fourier và R. Owen đã phê phán kịch liệt chế độ tư bản gây tiếng vang trong giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại CNXH không tưởng và bảo vệ CNTB. Trước bối cảnh đó, kinh tế chính trị tầm thường xã hội đã biểu hiện sự phản ứng của giai cấp tư sản đối với phong trào cách mạng và những tư tưởng của CNXH không tưởng.
2.2.2. Đặc điểm của kinh tế chính trị học tầm thường:
Thứ nhất, nếu các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã tìm toàn bộ hiện thực và nội tại của những quan hệ sản xuất trong xã hội tư sản thì KTCT tầm thường chỉ xem xét hệ thống hóa các hiện tượng bề ngoài, không nghiên cứu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế.
Thứ hai, nếu KTCT cổ điển với phương pháp duy vật (tuy còn siêu hình), xem xét khách quan các hiện tượng nghiên cứu, vạch ra quy luật vận động của nền sản xuất, thì KTCT học tầm thường lại duy tâm chủ quan. Xuất phát từ chỗ bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư sản, biện hộ cho CNTB một cách có ý thức.
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản:
2.3.1. Lịch sử ra đời:
Kinh tế chính trị tiểu tư sản ra đời và tồn tại ở châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh:
Cách mạng công nghiệp nổ ra, nền công nghiệp bằng máy móc ra đời. Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa, trong đó giai cấp vô sản ngày càng phụ thuộc vào giai cấp tư sản. Sự bần cùng, thất nghiệp, tình trạng sản xuất vô chính phủ, phân hóa xã hội có xu hướng ngày càng tăng lên ở các nước công nghiệp phát triển. Ở các nước mới bước vào cách mạng công nghiệp, nền sản xuất nhỏ còn chiếm ưu thế, thì những mâu thuẫn xã hội diễn ra gay gắt hơn.
Đây là miếng đất làm nảy sinh kinh tế chính trị tiểu tư sản.
2.3.2. Đặc điểm lý luận:
Kinh tế chính trị tiểu tư sản là một trường phái muốn phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản. Những người thuộc trường phái này cho rằng chủ nghĩa tư bản là chèn ép, làm phá sản người sản xuất nhỏ, là nguyên nhân gây ra nạn bần cùng và thất nghiệp. Họ đề nghị chuyển nền sản xuất tư bản chủ nghĩa về với sản xuất nhỏ.
Đặc điểm nổi bật trong lý luận của họ là đã áp dụng phương pháp chủ quan trong phê phán chủ nghĩa tư bản; chuyển việc nghiên cứu vào các quan hệ đạo đức, phẩm hạnh, phẩm giá con người thay cho các quy luật kinh tế khách quan đã được kinh tế chính trị cổ điển tôn trọng. Họ phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản.
Đại biểu của trường phái này là Sismondi (1773 – 1842) và Proudhon (1809 – 1865)
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁC HỌC THUYẾT TRƯỚC CÁC MÁC VỀ QUY LUẬT ĐIỀU TIẾT THU NHẬP:
1. Lý luận về tiền công:
1.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
1.1.1. William Petty (1623 – 1687):
Lý thuyết về tiền công của William Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Ông coi lao động là hàng hóa, tiền lương là giá cả tự nhiên của lao động.
Petty lấy lý luận giá trị làm cơ sở cho lý luận về tiền công. Ông không định nghĩa phạm trù tiền công mà chỉ nêu lên quan điểm về mức tiền công. Ông cho rằng, tiền công không thể vượt quá những tư liệu sinh hoạt cần thiết. Mức tiền công cao thì công nhân sẽ uống rượu say và không muốn làm việc. Muốn bắt họ làm việc thì phải hạ mức tiền công xuống mức tối thiểu. Ông kịch liệt phản đối những trường hợp tăng mức tiền công quá cao. Sở dĩ như vậy bởi vì trong thời đại của Petty, nhà tư bản chưa có thể bắt công nhân lệ thuộc vào công nhân (lệ thuộc vào cung trên thị trường lao động) mà phải dựa vào sự ủng hộ của nhà nước. Ông là người luận chứng cho việc đề nghị phải có đạo luật cấm tăng mức tiền công. William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết “Quy luật sắt về tiền lương”.
Ông xem xét tiền công trong mối quan hệ với lợi nhuận, giá cả các tư liệu sinh hoạt với cung – cầu về lao động trên thị trường. Theo ông, nếu mức tiền công cao thì lượng lợi nhuận giảm và ngược lại; nếu giá cả của lúa mì tăng lên thì sự bần cùng của công nhân cũng tăng lên (tức là tiền công tỷ lệ nghịch với giá lúa mì); số lượng lao động tăng lên thì mức tiền công sẽ giảm xuống.
William Petty đã nêu được cơ sở khoa học của tiền công là giá trị các tư liệu sinh hoạt cho công nhân.
1.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều điểm đúng đắn về lý luận. Ông cho rằng trong xã hội nguyên thủy, tiền công được xác định bởi năng suất, vì ở giai đoạn khởi đầu ấy, “khi mà chưa có sự chiếm hữu đất đai và tích lũy vốn, toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc về người lao động. Họ chẳng có chủ đất mà cũng chẳng có chủ xưởng để chia sẻ phần sản phẩm”. Nhưng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tiền công là thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần giá trị mà lao động của công nhân tạo ra. Cơ sở để xác định mức tiền công là số lượng giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi nổi công nhân và gia đình họ. Ông nghiên cứu mức bình thường của tiền lương và chỉ ra giới hạn tối thiểu của nó. Theo ông, nếu tiền lương thấp hơn mức tối thiểu này thì thảm họa cho sự tồn tại của dân tộc.
Adam Smith đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương. Trước hết, ông cho rằng, tiền lương phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Tiền lương thấp hơn mức tối thiểu chỉ có ở những nước đang diễn ra sự suy thoái về kinh tế. Chẳng hạn, ở Ấn Độ lúc bấy giờ có tiền lương thấp hơn mức tối thiểu, ở Trung Quốc tiền lương chỉ cao hơn mức tối thiểu không đáng kể, vì ở đó nền kinh tế đang bị đình trệ. Còn ở các nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tiền lương lớn hơn mức tối thiểu. Phần lớn hơn này do định mức tiêu dùng, truyền thống văn hóa, tập quán dân tộc quy định.
Trong một nước, nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương phụ thuộc vào đặc điểm lao động của con người, điều kiện làm việc, tính chất công việc, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp.
Ông đã thấy được mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chủ và thợ, mâu thuẫn giai cấp trong vấn đề tiền công, đã phát hiện ra rằng: “Người thợ muốn có càng nhiều tiền công càng hay, nhưng người chủ lại muốn trả công càng ít càng tốt. Thợ kết hợp với nhau để đòi tăng lương; chủ kết cũng hợp với nhau để hạ tiền công lao động”.
Nếu Petty đề nghị trả tiền công thấp hơn mức tối thiểu, thì Smith tán thành trả tiền công cao. Theo ông, tiền công không thể hạ thấp quá giới hạn nhất định, phải bảo đảm cho công nhân cuộc sống để họ lao động. Phải để cho “những người nuôi xã hội nhận được một số thức ăn, quần áo và nhà ở khả dĩ có thể chịu được”. Một xã hội không thể “phồn vinh và hạnh phúc nếu một bộ phận rất lớn những thành viên của nó nghèo nàn và khổ sở”. Ông đã chứng minh có sức thuyết phục rằng tiền công cao là sự cổ vũ, khuyến khích sự cần cù và tính siêng năng, và theo bản chất của con người, sự cần cù siêng năng lại càng cao khi khuyến khích vật chất lại càng lớn. “Khi nhận được tiền công cao, người thợ làm việc tích cực, chăm chỉ và khẩn trương hơn khi nhận được tiền công thấp”.
Smith nghiên cứu tiền công trong cơ chế thị trường. Cho rằng, có hai yếu tố quyết định mức tiền công là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư liệu sinh hoạt thiết yếu. Lượng cầu về lao động quyết định mức tư liệu sinh hoạt, giá cả quy định số tiền công mà công nhân nhận được. Từ luận điểm này, Smith phân biệt sự khác nhau giữa tiền công danh nghĩa với tiền công thực tế. Sự khác nhau đó là do tính chất dễ chịu hay khó chịu của công việc, mức độ khó khăn và đắt đỏ trong việc dạy nghề, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của công việc, mức độ tín nhiệm, khả năng thành đạt và tình hình di chuyển lao động. Ông chỉ ra mức tiền công trung bình ở mỗi nước hay mỗi địa phương là do trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh và tính chất đặc biệt của kết hợp lao động và tư bản.
Smith không chỉ nghiên cứu tiền công ở tầm vi mô (sự lựa chọn quyết định giữa chủ và thợ), mà còn nghiên cứu nó cả ở tầm vĩ mô. Ông cho rằng, mức tăng thu nhập và vốn của mỗi nước là điều kiện để tăng quy mô tiền công, làm tăng thêm cầu thuê mướn thêm lao động. Nhu cầu này không tăng, nếu của cải quốc dân không tăng. Mức tiền công cao trong những năm phồn vinh, thấp trong những năm suy thoái. Tiền công tăng tất yếu làm cho giá nhiều mặt hàng cũng tăng theo bằng cách tăng phần cấu thành tiền công trong giá hàng và cho đến nay có xu hướng làm giảm mức tiêu thụ ở trong nước và ở nước ngoài. Tuy vậy, việc tăng tiền công vốn có xu hướng làm tăng năng suất lao động khiến cho một lượng lao động ít hơn có thể làm ra một lượng sản phẩm nhiều hơn. Điều này lại thúc đẩy tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Ngoài ra, mức tiền công cao hay thấp còn phụ thuộc vào sự điều chỉnh của luật pháp.
1.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
David Ricardo phát triển quan điểm Adam Smith về những thu nhập lần đầu của ba giai cấp cơ bản trong xã hội. Lý thuyết thu nhập của ông được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động.
Ông cho rằng, lao động là hàng hóa, tiền công là giá cả của lao động. Ông viết: “Lao động, giống như các hàng hóa khác có thể mua và bán, có thể tăng giảm về số lượng, cũng như có giá tự nhiên và giá thị trường. Giá cả tự nhiên của lao động là giá cần thiết cho phép người lao động tồn tại và duy trì nòi giống mà không gây nên bất cứ sự gia tăng hay suy giảm nào”. Ông phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả của thị trường lao động. Giá cả tự nhiên của lao động tăng lên khi giá cả lương thực và các tư liệu sinh hoạt khác tăng lên, và hạ xuống khi giá cả những thứ đó hạ xuống. Giá cả tự nhiên của lao động còn phụ thuộc vào phong tục tập quán tiêu dùng của nhân dân. Theo tiến trình phát triển của xã hội, giá cả tự nhiên của lao động có chiều hướng tăng lên.
“Giá thị trường của lao động là giá thực sự trả cho lao động trên cơ sở hoạt động bình thường của cung tương xứng với cầu; lao động đắt khi khan hiếm và rẻ khi dư thừa”. Giá cả thị trường của lao động chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung – cầu về lao động. Tuy có sự biến động, nhưng giá cả thị trường của lao động sẽ phù hợp với giá cả tự nhiên của lao động. Nếu không kể đến sự thay đổi trong giá trị của tiền, thì mức tiền công lên xuống do hai nguyên nhân:
Một là, do sự thay đổi trong quan hệ cung và cầu về lao động;
Hai là, do những biến động trong giá cả của những hàng hóa mà người ta dùng tiền công để mua.
Theo Ricardo, việc đánh giá mức tiền công cao hay thấp phải căn cứ vào số lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu mà tiền công đem lại cho anh ta, chứ không phải dựa vào quy mô tiền công. Nhưng ông chủ trương trả tiền công thấp, chỉ đủ những tư liệu sinh hoạt ở mức tối thiểu và cho rằng tiền công thấp là quy luật tự nhiên trong mọi xã hội. Chỉ trong điều kiện đặc biệt thuận lợi, khả năng tăng lực lượng sản xuất mới vượt khả năng tăng dân số, còn trong điều kiện bình thường, với đất đai hạn chế và sự giảm sút hiệu quả của đầu tư bổ sung, sẽ làm cho của cải tăng chậm hơn dân số. Khi đó, cơ chế điều tiết tự phát sẽ hoạt động. Điều đó sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số. Ông ủng hộ quan điểm của William Petty về quy luật sắt về tiền công. Mặt khác, ông cũng thừa nhận rằng công nhân nhận được mức tiền công quá ít là một nguy cơ lớn. Việc thay lao động của con người bằng máy móc đem lại những tổn thất rất lớn cho lợi ích của giai cấp công nhân.
Ông ủng hộ việc nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị trường lao động, phê phán sự giúp đỡ đối với người nghèo, vì theo ông, làm như vậy sẽ ngăn cản hoạt động của quy luật tự nhiên.
1.2. Kinh tế chính trị học tầm thường:
1.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus đã sử dụng yếu tố tầm thường trong học thuyết của Adam Smith tức là việc quy định tỷ giá lao động.
Theo Malthus, tiền công là chi phí về lao động sống. Tiền công giảm là do dân số tăng lên nên tăng cung về lao động
1.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Lợi dụng yếu tố tầm thường của Smith khi coi tiền công, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc cấu thành giá trị hàng hóa, kết hợp với lý thuyết giá trị ích lợi (tính hữu dụng) của mình, Say đưa ra lý thuyết “Ba nhân tố sản xuất” và “Ba nguồn thu nhập”.
Theo Say, tham gia vào sản xuất có ba yếu tố: lao động, tư bản và ruộng đất. Mỗi nhân tố đó đều có công phục vụ, mà cái gì tạo ra sự phục vụ đều là sản xuất. Do đó, không chỉ có lao động, mà cả tư bản và tự nhiên đều tạo ra giá trị. Cả ba yếu tố đều có công phục vụ: lao động tạo ra tiền công, tư bản tạo ra lợi nhuận, ruộng đất tạo ra địa tô. Vì vậy, phải có quyền nhận được thu nhập tương xứng: công nhân nhận được tiền công, nhà tư bản hưởng lợi nhuận, địa chủ nhận được địa tô.
Từ sự phân tích đó, ông khẳng định, tiền công của công nhân tương ứng với phần đóng góp của công nhân vào giá trị sản phẩm, lao động của công nhân giản đơn, thô kệch thì sẽ thu được tiền lương thấp hơn lợi nhuận và ngược lại. Từ đó cho rằng, ai cũng được hưởng phần thu nhập, không ai bóc lột ai. Chỉ có tư bản cho vay mới là bóc lột.
1.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản – Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi theo quan điểm của A. Smith, coi tiền công phụ thuộc vào tích lũy tư bản và số lượng công nhân, cung – cầu về lao động. Đồng thời, ông lại theo quan điểm của kinh tế chính trị tầm thường, khi cho rằng tiền công và sự tăng dân số có quan hệ trực tiếp với nhau; từ đó khẳng định thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên.
Ông chống lại luận điểm cho rằng việc dùng máy hơi nước làm giảm nhu cầu lao động ở ngành này, nhưng lại tăng nhu cầu lao động ở ngành khác.
2. Lý luận về lợi nhuận:
2.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
2.1.1. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Theo ông, lợi nhuận là “phần khấu trừ thứ hai từ sản phẩm của người lao động”. Nó không chỉ xuất hiện trong nông nghiệp (điều mà chủ nghĩa trọng nông đã vạch ra), mà còn có cả trong ngành công nghiệp. Đây là phát hiện đúng và là thành tựu cao nhất của kinh tế chính trị tư sản cổ điển vì đã nêu lên được quan hệ kinh tế cơ bản nhất trong xã hội tư bản. Các Mác đã đánh giá cao phát hiện này, cho rằng “Smith đã nắm được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư”.
Smith còn cho rằng mức lợi nhuận tăng hay giảm tùy thuộc vào những nguyên nhân làm giảm hay tăng tiền công, mức độ cạnh tranh hay độc quyền trên thị trường và tình trạng tăng, giảm của cải của xã hội. Ông đã thấy xu hướng hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân do tác động cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
Từ quan điểm trên, Smith cho rằng lợi tức là một phần của lợi nhuận, được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi tức của tư bản đi vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần túy và do mức lợi nhuận thuần túy quyết định.
2.1.2. David Ricardo (1772 – 1823):
Ricardo không có ý định truy tìm nguồn gốc của lợi nhuận mà chỉ đi tìm các yếu tố ảnh hưởng đến nó mà thôi. Điều này dễ hiểu, bởi vì học thuyết kinh tế mà ông xây dựng nhằm bảo vệ lợi ích các nhà tư bản công nghiệp, nên không muốn phân tích nguồn gốc thật sự của lợi nhuận từ giá trị lao động, mà ông lại cho rằng nó là một thuộc tính cố hữu của tư bản, có trước và nằm ngoài quá trình sản xuất ra giá trị. Mặc dù vậy, ta có thể thống qua một số luận điểm của ông về giá trị, về mối quan hệ giữa các thu nhập “tiền công thấp chỉ là một tên gọi khác đi đôi với các lợi nhuận cao”, để khẳng định rằng ông đã hiểu lợi nhuận là kết quả lao động, là phần giá trị lao động do công nhân tạo ra ngoài tiền công.
Ricardo giải thích không đúng yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, cho rằng do độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm sút, nên nhà tư bản phải chi phí một lượng lao động ngày càng lớn hơn để sản xuất ra số lương thực cần thiết phụ thêm, làm cho tiền công tăng và lợi nhuận bị giảm.
Việc tích lũy tư bản có ảnh hưởng gì tới lợi nhuận? Theo Ricardo, nó sẽ không làm giảm lợi nhuận một cách lâu dài, vì tư bản cuối cùng sẽ tìm được những bàn tay cần thiết cho nó. Tư bản tăng lên thì công việc do tư bản thực hiện cũng tăng theo cùng một tỷ lệ.
Thành công quan trọng trong hệ thống lý luận của Ricardo là luận giải đúng quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Ông xuất phát từ hai giả định cổ điển về nền kinh tế thị trường: Các nhà tư bản luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận và tư bản có thể dịch chuyển hóa tỷ suất lợi nhuận trong điều kiện tự do cạnh tranh. Trên cơ sở đó, Ricardo cho rằng: “Cái khát khao không cùng của các nhà tư bản là rời bỏ chỗ có ít lợi nhuận sang chỗ có nhiều lợi nhuận hơn tạo nên một khuynh hướng mạnh mẽ san bằng tỷ suất lợi nhuận ở mọi nơi, hay là cố định chúng ở một tỷ lệ nhất định cho phép, theo dự tính của các bên, loại trừ mọi lợi thế có hoặc dự tính là có khả năng xuất hiện trong một ngành nào đó”. Với mức tỷ suất lợi nhuận được san bằng, các nhà tư bản trong mọi lĩnh vực đều nhận được mức “lợi nhuận thông thường” hay “lợi nhuận bình quân”.
2.2. Kinh tế chính trị tầm thường:
2.2.1. Thomas Robert Malthus (1766 – 1844):
Malthus cho rằng chi phí để tạo ra hàng hóa gồm chi phí mua lao động vật hóa, chi phí mua lao động sống và lợi nhuận tư bản ứng trước. Như vậy, lợi nhuận là khoản dôi ra ngoài chi phí lao động sống, tách lợi nhuận ra khỏi lao động sống.
Ông khẳng định lợi nhuận không liên quan đến lao động của công nhân, nó được coi như một yếu tố cấu thành của giá trị. Công nhân không tạo ra lợi nhuận cho nhà tư bản, không bị tư bản bóc lột.
Theo Malthus, lợi nhuận không thể xuất hiện trong việc trao đổi giữa các nhà tư bản. Malthus nhận định trong phạm vi khả năng những người đảm nhiệm sản xuất (tức là nhà tư bản và công nhân) không thể tìm ra lượng cầu có khả năng thanh toán phần lượng cung do lợi nhuận đại biểu. Do đó, tình trạng thừa hàng hóa sẽ xuất hiện. Xã hội chỉ có nhà tư bản và công nhân thì không thể tránh khỏi tai họa đó.
Theo Malthus, lối thoát của CNTB là phải tăng mức tiêu dùng của giai cấp không sản xuất như quý tộc, tăng lữ, nhân viên Nhà nước những người chỉ mua, không bán, “những người thứ ba” phải hoang phí hơn để tạo nên lượng cầu đầy đủ cho nhà tư bản.
2.2.2. Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Trong lịch sử, cho đến thời của Say, đã có ba quan niệm về lợi nhuận:
Một là, lợi nhuận do lưu thông tạo ra, là kết quả của việc mua rẻ, bán đắt;
Hai là, lợi nhuận do sự tiết dục, nhịn ăn tiêu của nhà tư bản;
Ba là, lợi nhuận là hiệu suất đầu tư do tư bản mang lại.
Say ủng hộ quan niệm thứ ba và cho rằng đầu tư thêm tư bản vào sản xuất, thì sẽ làm tăng thêm sản phẩm, tăng thêm giá trị. Máy móc tham gia vào sản xuất cũng làm tăng thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Từ đó, ông giải thích lợi nhuận dựa vào hiệu suất đầu tư của tư bản.
Say phân biệt nhà tư bản với nhà kinh doanh. Theo ông, nhà tư bản chính là người có tư bản cho vay để thu lợi tức, còn nhà kinh doanh là người mạo hiểm, dám chấp nhận nguy hiểm trong cuộc chơi. Họ vay tư bản, thuê nhân công, sản xuất ra hàng hóa bán trên thị trường. Vì vậy, họ cũng lao động như công nhân, lợi nhuận mà họ thu được cũng giống tiền công của công nhân. Đó là một hình thức đặc biệt của tiền công mà nhà tư bản tự trả cho mình. Cho rằng, chỉ có lợi tức của kẻ sở hữu tư bản mới là con đẻ của bản thân tư bản.
Say cho rằng, tiến bộ kỹ thuật có vai trò đặc biệt. Việc sử dụng máy móc đem lại “hậu quả” tốt lành không chỉ cho giai cấp tư sản mà còn cho cả giai cấp công nhân. Tuy trong thời kỳ đầu, việc sử dụng máy móc mới gây ra “điều bất tiện” là gạt bỏ một bộ phận công nhân, khiến cho họ “tạm thời” không có việc làm, nhưng về sau do việc sử dụng máy móc tăng lên, việc làm cũng tăng lên. Việc sử dụng máy móc sẽ làm ra sản phẩm có giá rẻ hơn, công nhân là người “có lợi nhất” và điều này cũng làm cho lợi nhuận tăng lên. Thực chất, Say muốn chứng minh sự hòa hợp lợi ích giữa nhà tư bản và người lao động.
2.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi phát triển quan điểm của Adam Smith, coi lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ tư vào giá trị sản phẩm và cho rằng đó là khoản thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai họa kinh tế của giai cấp vô sản.
Từ đó cho rằng, việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá hủy những tư bản cố định bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp.
3. Lý luận về địa tô:
3.1. Kinh tế chính trị học cổ điển:
3.1.1. William Petty (1623 – 1687):
Theo ông, địa tô là số chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất bao gồm tiền công và tiền giống. Trong phân tích về địa tô, William Petty một mặt, đã đồng nhất nó với lợi nhuận; mặt khác, lại cho rằng đó là kết quả của sự bóc lột. Thực ra, ông không rút ra được lợi nhuận của kinh doanh ruộng đất, không trực tiếp đề cập đến vấn đề bóc lột. Nhưng theo phân tích logic của ông, chúng ta có thể rút ra được kết luận rằng, công nhân chỉ nhận được tiền công tối thiểu, số còn lại là lợi nhuận của địa chủ. Logic bên trong của quan niệm đó là sự thừa nhận có bóc lột.
Từ luận điểm này, Mác nhận xét công lao của Petty là đã dự đoán đúng bản chất của giá trị thặng dư, là người đầu tiên nêu ra mầm mống của lý luận về bóc lột theo lối tư bản chủ nghĩa.
3.1.2. Adam Smith (1723 – 1790):
Smith có nhiều luận điểm đúng đắn và khoa học về địa tô. Theo ông, địa tô do chế độ độc quyền về đất mà có, nó là: (1) Khoản khấu trừ thứ nhất vào sản phẩm lao động, là kết quả của việc bóc lột người sản xuất trực tiếp; (2) Giá phải trả cho việc sử dụng đất, nó là giá cao nhất mà người thuê có khả năng trả trong những điều kiện đất đai hiện nay.
Hai luận điểm đó đã phải ánh được mối quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp trong quan hệ ruộng đất tư bản chủ nghĩa.
Smith đã chứng minh quan hệ giữa địa tô và giá cả nông phẩm. Cho rằng, quy mô địa tô nhiều hay ít là kết quả của giá cả nông phẩm. Địa tô phụ thuộc vào tình hình giá cả nông phẩm có vượt quá số tiền đủ để bù lại tiền công và lợi nhuận hay không. Theo ông, dân số tăng lên kéo theo yêu cầu về nông phẩm tăng làm cho giá nông phẩm “bao giờ cũng có một số dư nào đó dành cho địa tô của người chủ ruộng”. Vì vậy, địa tô là kết quả của giá cả nông phẩm cao chứ không phải là nguyên nhân của giá cả cao.
Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô: địa tô trên những đất có màu mỡ và địa tô do vị trí của đất. Cho rằng mức địa tô đương nhiên là giá độc quyền. Các yếu tố độc quyền liên quan đến việc xác định địa tô là độ màu mỡ và vị trí của đất. Đất thích hợp với một sản phẩm đặc biệt đều có có độc quyền. Như vậy, ông đã biết đến địa tô chênh lệch. Tuy nhiên, ông không chỉ ra được địa tô chênh lệch do thâm canh mà có mặc dù đã phân biệt địa tô với tiền thuê ruộng, cho rằng trong tiền thuê ruộng có địa tô và lợi tức của tư bản đã chi phí vào việc cải thiện đất đai.
3.1.3. David Ricardo (1772 – 1823):
Với quyền sở hữu đất đai, địa chủ cho thuê và thu tiền sử dụng đất, gọi là địa tô. Theo Ricardo, địa tô là phần sản phẩm của đất đai được trả cho địa chủ về việc sử dụng những lực lượng đầu tiên và chưa bị phá hoại của đất đai.
Khi giải thích nguồn gốc của địa tô, Ricardo xuất phát từ lý luận giá trị lao động. Ông phê phán J.B.Say coi địa tô là do sự phục vụ có tính chất sản xuất của ruộng đất. Theo ông, địa tô là bộ phận của sản phẩm lao động, là một phần giá trị do lao động tạo ra, là một hình thức phái sinh của lợi nhuận. Nó là kết quả của phân phối lại.
Sở dĩ xuất hiện địa tô như vậy “chỉ vì đất đai có giới hạn về lượng và không đồng đều về chất, vì tiến trình phát triển dân số đã buộc người ta phải canh tác trên những mảnh đất kém màu mỡ hơn, vị trí giao thông bất tiện hơn, người ta mới phải trả tiền cho việc sử dụng đất”. Việc trả loại tiền này là do tồn tại chế độ tư hữu về ruộng đất. Như vậy, chỉ có những mảnh đất màu mỡ và gần đường giao thông, địa chủ mới thu được địa tô này. Ricardo đã giải thích đúng cơ sở của địa tô chênh lệch I và cho rằng nó là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân mà những người thuê ruộng phải nộp trả địa chủ.
3.2. Kinh tế chính trị học tầm thường - Jean Baptiste Say (1767 – 1832):
Theo Say, địa tô là khoản thu nhập chính đáng của địa chủ vì ruộng đất cũng tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra giá trị của hàng hóa.
Như vậy, ruộng đất tạo ra địa tô.
3.3. Kinh tế chính trị tiểu tư sản - Đại biểu là Sismondi (1773 – 1842):
Sismondi cho rằng, địa tô là kết quả của sự cướp bóc công nhân. Ông phê phán quan điểm của David Ricardo cho rằng ruộng đất xấu không có địa tô và khẳng định ruộng xấu cũng phải nộp địa tô do chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất quy định. Ông đã thừa nhận địa tô tuyệt đối.
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Ý nghĩa lý luận:
Nghiên cứu những thành tựu trong nghiên cứu trước C. Mác về quy luật điều tiết thu nhập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc xác định thu nhập của mỗi yếu tố sản xuất sẽ được xác định như thế nào. Hay nói cách khác, theo cách tiếp cận vĩ mô, tiêu dùng và tiết kiệm chiếm tỷ lệ bao nhiêu tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nhung_thanh_tuu_nghien_cuu_truoc_c_mac_ve_quy_luat_di.docx