Đề tài Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng

 

MỤC LỤC

 

Trang

Lời nói đầu 1

Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng 2

I. Lịch sử hình thành và phát triển của thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2

II. Thuế giá trị gia tăng của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm 4

1. Đặc điểm của thuế GTGT

2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở một số nước 6

2.1. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở Pháp. 6

2.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở Hung- ga-ri. 10

3. Kinh nghiệm chung ở các nước và điều kiện áp dụng thuế GTGT. 12

3.1. Kinh nghiệm chung ở các nước. 12

3.2. Điều kiện áp dụng. 13

III. Chế độ thuế GTGT ở Việt Nam 14

IV. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện thuế GTGT ở việt nam. 17

1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thuế GTGT. 17

1.1. Ưu điểm chủ yếu của thuế GTGT: 17

1.2. Nhược điểm 18

2. Hướng hoàn thiện. 20

Kết luận 24

Tài liệu tham khảo 25

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cung ứng dịch vụ gắn với thông thương quốc tế, giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ thuộc loại tiếp tế cho táu thuỷ, máy bay... * Căn cứ tính thuế Về cơ bản , căn cứ tính thuế TGGT đối với mọi hoạt động giao bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ là trị giá hàng hoá (hoặc tiền dịch vụ) bằng tiền hoăc bằng hiện vật. Trị giá hành hoá (hoặc tiền dịch vụ) bao gồm mọi khoản cấu thành trong giá, như chi phí vật chất, các chi phí khác, tiền lãi của đơn vị kinh doanh, các khoản thuế , lệ phí phải nộp, trừ vản thân thuế TGGT. Nói cách khác, thuế TGGT tính trên trị giá hàng hoá (hoặc tiền dịch vụ) không gồm bản thân thuế TGGT. Riêng đối với hoạt động đại lý, môi giới, thuế tính trêm tiền hoa hồng được hưởng khi có đủ điều kiện về hợp đồng và hoạt động đúng hợp đồng đại lý (hợp đồng ghi rõ giá bán, tiền hoa hồng được hưởng, thực hiện hạch toán trên sổ kế toán đầy đủ, rõ ràng). Đối với bất động sản, bao gồm cả việc mua bán bất động sản và hoạt động xây dựng, sửa sang để bán. Căn cứ tính thuế là giá ghi trên hợp đồng mua bán, hoặc bản thanh toán, hay hoá đơn hợp lệ... Đối với hàng nhập, thông thường, căn cứ tính thuế là giá hàng được xác định theo luật thuế quan, bao gồm cả những yếu tố cấu thành trong giá hàng nhập (giá CIT) và các loại thuộc lệ phí, các khoản thu lhác giống như đối với hàng hoá trong nước, trừ bản thân thuế TGGT. Thuế TGGT không tính đối với khoản tiền giảm giá do khách hàng đặt tiền trước hoạc trả tiền mặt, tiền hoa hồng được trích hay tiền phạt do người kinh doanh giao hàng chậm. *Thuế suất thuế TGGT. Từ năm 1986, thuế TGGT có 4 thuế suất: 5,5%; 7%; 18,6% và 33,3%, tuỳ mặt hàng và ngành nghề kinh doanh cần thiết nhiều hay ít cho sản xuất, đời sống nhân dân. Để đơn giản hoá cơ cấu hệ thống thuế suất, từ 1-1-1989, các hoạt động trước đây chịu thuế suất 7% đuợc gộp chung với thuế suất 5,5% và loại chịu thuế suất 33,3% được điều chỉnh dần xuống 28%, 25%, 22% rồi hoà nhập vào loại 18,6%. Hiện nay thuế GTGT ở Pháp có 2 thuế suất là: - 5.5% áp dụng đối với nông sản chưa chế biến, cho thuê nhà ở, vận chuyển hành khách, biểu diễn văn nghệ, thuốc chữa bệnh... - 18,6% áp dụng đối với các mặt hàng, dich vụ khác. * Chế độ khấu trừ thuế TGGT. Theo nguyên tắc cơ bản của thuế TGGT, nghiệp vụ tính và thu thuế TGGT qua từng khâu chỉ mang tính chất "tạm ứng". Số thuế TGGT đã nộp ở khâu trước sẽ được khấu trừ ở khâu sau cho đơn vị kinh doanh, còn đối với ngưòi tiêu dùng, không phải trả thuế TGGT đối với từng khâu riêng biệt mà phải trả toàn bộ số thuế TGGT phải nộp cho đến khi kết thúc chu kỳ kinh tế. Phần thuế TGGT được khấu trừ chỉ được giải quyết cho đối tượng nộp thuế đã thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết về đăng ký, sổ kế toán, chứng từ, hoá đơn và có cơ sở để chứng minh được là: trong toàn bộ giá thành của hoạt động giao bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ, thực tế đã có thuế TGGT nộp ở khâu trước. Khi số tiền được khấu trừ lớn hơn số thuế phải nộp, số chênh lệch sẽ được hoàn dần vào số thuế TGGT nộp lần sau cho đến khi hết số tiền được hoàn và đợc coi là một " khoản tín dụng thuế". Về nguyên tắc, thuế TGGT phải nộp vào kho bạc trong tháng phát sinh hoạt động bán hàng hoạc cung ứng dịch vụ. Trên thục tế, chỉ có vất động sản , ô tô , máy móc ... mới đựơc tính khấu trừ thuế theo nguyên tắc đó. Còn thuế TGGT đối với hàn hoá, dịch vụ khác chỉ được khấu trừ vào tháng tiếp theo sau tháng đơn vị kinh doanh phải nộp thuế. Quy định này gọi là "Quy định chênh lệch một tháng" nhằm tạo cho Nhà nước được hưởng một khoản tiền trong kho bạc tương đương với một tháng khấu trừ đối với hàng hoá, dịch vụ nói trên. Đây cũng là điều kiện không hợp lý mà Chính phủ Pháp đang nghiên cứu khắc phục. * Chế độ hoàn thuế TGGT: Các đối tượng nộp thuế có quyền làm đơn gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý cở để xin được xét hoàn lại số thuế TGGT đã nộp thừa hoặc khoản thuế được giảm nhưng chưa được gải quyết. Việc hoàn thuế được giải quyết theo năm dương lịch.Trong năm, các đơn xin hoàn thuế phảu nộp theo quý, vào các tháng 4, 7, 10 để họ được xét cho 3 quý đầu năm. Hoàn thuế theo quý được giải quyết trong trường hợp số tiền hoàn trong quý ít nhất là 5000 FRF (tương đương 1000 USD). Việc hoàn thuế cho tháng 1 năm sau được giải quyết mang tính tổng kết số thuế TGGT phải nộp cho cả năm trước. Trong chế độ thuế TGGT có quy định việc giảm thuế TGGT đối với một số trường hợp liên quan đến bất động sản mà bản thân xí nghiệp là người chịu thuế ( việc giảm thuế được định theo tỷ lệ tính trên giá trị bất động sản...). Thuế chỉ được giảm khi điều đó được ghi trong tờ khai của người chịu thuế. Khi số thuế được giảm lớn hơn số thuế phải đóng, số dư sẽ là "tín dụng thuế" và thông thường được chuyển dần cho đến hết đối với tờ khai tiếp theo. Giảm thuế đối với việc mua bất động sản sẽ bị ngừng lại khi những bất động sản không còn sử dụng cho nhu cầu kinh doanh nữa. Việc rút quyền được giảm thuế còn đựơc thực hiện trong trường hợp chuyển nhượng bất động sản giữa các ngành khác nhau. * Chế độ khoán miễn nộp thuế TGGT. Những đơn vị kinh doanh thuộc loại vừa, được áp dụng chế độ thuế TGGT khoán trong trường hợp doanh thu hàng năm (không gồm thuế TGGT) không quá giới hạn dưới đây: - 500.000 FRF đối với cơ sở buôn bán bách hoá, thực phẩm mua mang về, đồ ăn uốmg tại chỗ, cho thuê nhà. - 150.000 FRF đối với cơ sở buôn bán khác. - 175.000 FRF đối với các cơ sở kinh doanh không phải là buôn bán. Chế độ thu khoán không hoàn toàn bắt buộc mà các cơ sở này có thể đề nghị cho áp dụng chế độ thu thuế khoán hoặc chế độ thu đơn giản. Viêc lựa chọn này được áp dụng đối với các đối tượng nộp thuế lợi tức theo chế độ khoán. - Từ ngày 1-1-1991, thuếTGGT được miễn cho các cơ sở kinh doanh thuộc diện nộp thuế TGGT là loại nhỏ mà doamh thu (không gồm thuế TGGT) của năm trước không vượt quá 700.000 FRF. Nếu trong năm sau mà doanh thu vượt 70.000 FRF thì đơn vị bắt đầu phải nộp thuế TGGT từ ngày 1-1 năm tiếp theo. Trong quá trình thêo dõi hoạt động của cơ sở, nếu phát hiện doanh thu trong năm vượt 100.000 FRF thì đơn vị bắt đầu phảo nộp thuế TGGT từ 1-4-1991, thuế TGGT còn được miễn đối với các hoạt động nghề nghiệp hợp pháp của các luật sư có doanh thu của năm trước (không gồm thuế TGGT) không vươt quá 245.000 FRF. * Nghĩa vụ khai báo, nộp thuế TGGT: Về nguyên tắc, những đối tượng thuộc diện áp dụng thuế TGGT phải thực hiện đầy đủ sổ kế toán, chứng từ hóa đơn. Sổ kế toán và các tài liệu có liên quan phải được bảo quản, lưu trữ cẩn thận trong thời gian 6 năm. Nếu không thuộc diện đựoc nộp thuế TGGT khoán thì hàng tháng hàng quý tuỳ quy định của cơ quan thuế, cơ sở kinh doanh phải làm tờ khai theo mẫu về tình hình hoạt động trong tháng (hoặc quý) và phải nộp đầy đủ thuế TGGT trong thời hạn quy định. Đối với số cơ sở kinh doanh gặp khó khăn, không có điều kiện nộp tờ khai dúng hạn, có thể xin cơ quan thuế xem xét, gia hạn thời gian nộp tờ khai, nộp thuế hoặc đơn giản là tạm nộp trước khoảng 80% số thuế TGGT phải nộp. Từ 1-1-1991, những đối tượng thuộc diện nộp thuế TGGT có doanh thu trên mức quy định đối với loại thuế nộp rhuế khoán có thể được xin áp dụng chế độ thanh toán và nộp thuế theo biện pháp đơn giản, nếu doanh thu hàng năm (không gồm thuế TGGT) thấp hơn mức quy định dưới đây: - 3.500.000 FRF đối với các cửa hàng bán bách hoá, thực phẩm mua mang về, hàng uống tại chỗ hiặc cho thuê nhà. - 1.000.000 FRF đối với các cơ sở kinh doanh khác. Hàng tháng hoặc quý, các đối tượng náy phải kê khai đơn giá, tạm ứng một số thuế TGGT nhất định và thanh toán số thuế phải nộp chính thức vào cuối năm. 2.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ở Hung- ga-ri. Hung-ga -ri là nước XHCN đầu tiên áp dụng thuế GTGT từ năm 1989. Mục đích của cuộc cải cách thuế lúc ấy nhằm iảm bớt gánh nặng về thuế đối với cơ sở kinh doanh, xây dựng hệ thống thuế thống nhất hơn, đơn giản hoá việc đánh thuế và quan hệ giữa thuế với ngân sách Nhà nước. Trước đây, Hung-ga-ri áp dụng thuế chu chuyển đánh trên toàn bộ doanh thu qua từng khâu gán hàng (như thuế doanh thu ở nước ta). Loại thuế này có nhược điểm là thuế đánh trùng lên thuế, đẩy giá cả tăng cao. Sau nhiều năm chuẩn bị, năm 1989, Quốc hội Hung-ga-ri đã thông qua đạo luật thuế chu chuyển có khấu trừ thuế đã nộp ở khâu trước như kiểu VAT, nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi cũ là thuế chu chuyển. Đối tượng đánh thuế gồm tất cả các hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ, không phân biệt hàng hoá sản xuất trong nươc hay nhập khẩu. * Đối tượng nộp thuế : gồm tất cả các cá nhân, tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nhập khẩu hàng tiêu thụ. Đối với công ty nước ngoài kinh doanh ở Hung-ga-ri, nhưng trụ sở chính ở nước ngoài, có thể giải quyết theo cách khai báo doanh thu với cơ quan thuế theo luật ưu tiên có giảm trừ. Không phải nộp VAT đối với người sản xuất nông nghiệp nhỏ, người làm nghề mộc , sửa chữa nhà cửa, các tổ chức và nhân viên ngoại giao, các tổ chức, cá nhân hoạt động theo luật được miễn trừ, sản phẩm tự sản, tự tiêu. * Căn cứ tính thuế: Là doanh thu bán hàng hay cung ứng dịch vụ, không gồm VAT. Đối với hàng nhập khẩu là giá tính thuế quan (CIF) và các khoản thuế, lệ phí phải nộp VAT. * Thuế suất gồm 3 mức là 0%, 15%, 25%. - Thuế suất 0% áp dụng đối với các mặt hàng và dịch vụ xuất khẩu, xe lăn cho người tàn tật, ống tiêm thuốc, năng lượng điện, hơi nước, nước nóng, gọng kính, tân dược, than cốc, sản phẩm dầu khí... - Thuế suát 15% áp dụng đối với một số mặt hàng, dịch vụ thộm thường như bảo sưỡng sửa chữa tài sản, hàng công nghiệp tiêu dùng, hoạt động vận tải (trừ taxi và vận tải hàng không); dịch vụ về nhà cửa, dịch vụ du lịch và các dịch vụ công nghiệp khác. - Thuế suất 25% áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ khác. * Chế độ kê khai, nộp thuế, miễn thuế: - VAT nộp mỗi tháng một lần vào thời gian từ 01 đến 2 tháng sau. Các cơ sở tự tính thuế, tự nộp thuế qua ngân hàng hoặc bưu điện, quỹ tiết kiệm theo quy định của cơ quan thuế (cơ quan thuế không trực tiếp nhận tiền thuế). Đơn vị nào có nhiều mặt hàng thuộc cả ba thuế suất thì tạm nộp VAT theo thuế suất 15%; hai thuế suất 0% và 15%, tạm nộp thuế 10%. Đến ngày quyết toán theo luật định, phải kê khai tính thuế theo thuế suất cụ thể. Một số hoạt động kinh doanh quá nhiều mặt hàng (bách hoá) đợc căn cứ theo tờ khai hàng hoá năm trước để tính ra một tỉ lệ trên doanh thu áp dụng cho năm sau. Hoạt động khách sạn, du lịch áp dụng chung một thuế suất và khômg được trừ đối với hoạt động được miễn thuế. - Có hai loại hoạt động được xét miễn VAT là: + Hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo (phải hạch toán riêng trên sổ kế toán). + Buôn bán tạp hoá, kinh doanh khách sạn có doanh thu dưới 300.000 Forint/năm. Cơ quan thuế có thẩm quyền xem xét, quyết định việc miễn thuế cho các trường hợp cơ sở có khó khăn về đời sống. Sau ba năm thực hiện VAT, Hung-ga-ri đánh giá bị thất thu đến 50%, vì tình hình lập hoá đơn, sổ kế toán chưa tốt, trình độ quản lý của cán bộ còn yếu. 3. Kinh nghiệm chung ở các nước và điều kiện áp dụng thuế GTGT. 3.1. Kinh nghiệm chung ở các nước. Thuế GTGT đựơc áp dụng tuỳ theo điều kiện và quan điểm của mỗi nước. Nên các mô hính thuế ở các nước có nhiều điểm khác biệt. Qua nghiên cứu tình hình thực hiện thuế GTGT ở một số nước, những kinh nghiệm mang tính khái quát nổi lên là: - Thuế GTGT là một loại thuế có nhiều ưu điểm cần được nghiên cứu, áp dụng nhằm góp phần thúc đẩy hoạt độmg sản xuất, kinh doanh phát triển theo chế chế thị trường. Mở rộmg kinh tế đối ngoại, tạo nguồn thu ổn định và phát triển cho ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, không nên áp dụng thí điểm thuế GTGT trong phạm vi hẹp ở một số ngành, một số đơn vị và không thể triển khai một cách vội vã, thiếu thận trọng, chủ quan. - Đối tượng nộp thuế nên bao quát cho tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nhập khẩu. Có quy định rõ các trường hợp không áp dụng thuế GTGT. - Thuế suất phải quy định rõ theo sản phẩm, ngành nghề và qui định ở mức hợp lý. Số lượng thuế suất tốt nhất là áp dụng một thuế suất (không kể thuế suất 0%0.Trường hợp phải áp dụng nhiều thuế suất thì cũng không nên quá 3 mức; một thuế suất chuẩn mang tính phổ biến, phổ thông và các thuế suất cao hoặc thấp so với một số hàng hoá hay dụch vụ cụ thể, mang tính cá biệt cần được khuyến khích hay hạn chế. - Việc khấu trừ thuế, cần được xác định đầy đủ trên cơ sở thực hiện tốt chế độ hoá đơn sổ kế toán và cho khấu trừ theo kỳ tính thuế. Không nên khấu trừ theo tỷ lệ trên doanh thu hay phân bổ theo lượng sảm phẩm sản xuất. - Phải có đầy đủ thời gian cần thiết, ít nhất là 2-3 năm cho quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng thuế GTGT từ việc điều tra, khảo sát, tổng hợp, phân tích tài liệu, tình hình, thiết kế các văn bản pháp quy đầy đủ rõ ràng đến việc đào tạo, huấn luyện cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy tuyên truyền, gải thích chíng sách thuế mới, đồng thời dự kiến đầy đủ những vấn đề có thể phát sinh trong quá trình thực hiện thuế GTGT. 3.2. Điều kiện áp dụng. Từ đặc diểm và kinh nghiệm áp dụng thuế GTGT ở các nước chúng ta thấy cần phải có môi trường và điều kiện thuận lợi mới có thể áp dụng thành công luật thuế này. Những điều kiện đó bao gồm: - Nền kinh tế phát triển ổn định: Thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế ổn định đảm bảo cho giá cả khâu sau thường cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu ra thường xuyên lớn hơn thuế đầu vào.Trường hợp phải hoàn thuế hầu như rất ít xảy ra. - Nhà nước phải quản lý được nến kinh tế bằng pháp luật: Thu thuế và quản lý thuế của Nhà nước đối với nền kinh tế là hai mặt của một quá trình thống nhất biện chứng với nhau. Trong trường hợp áp dụng thuế Doanh thu, thuế được thu ở từng khâu và từng cơ sở kinh doanh nên nếu như có thất thu thuế ở một cơ sở hay một khâu nào đó chỉ là hiện tượng riêng lẻ, độc lập tạm thời. Đối với thuế GTGT nếu nhà nước không quản lý được nền kinh tế không những không thu đựoc thuế, thu được ít mà có thể mất đi một phần thuế của các khâu trước đó do phải hoàn thuế. - Các cơ sở kinh doanh đều thực hiện việc ghi chép, sổ sách kế toán phải thống nhất và hoá đơn chứng từ phải phải được sử dụng trong mọi giao dịch: Việc tính toán, theo dõi và quản lý của cơ quan thuế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở chế độ kế toán thống nhất, hoá đơn chứng từ đầy đủ. Vì vậy, mặc dù nền kinh tế có tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp, nhưng các doanh nghiệp đều phải được bình đẳng trước pháp luật, hệ thống tài khoản phải thống nhất, Điều đó chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều khiển của Nhà nước. - Quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển: Khi mà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thực hiện qua hệ thống Ngân hàng thì cũng có nghĩa là Nhà nước thông qua Ngân hàng kiểm tra, giám sát được tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp. Cơ quan thuế cũng nhờ đó kiểm tra được việc kê khai, tính thuế và nộp thuế GTGT của các doanh nghiệp. - Trình độ của cán bộ quản lý, thu thuế: Cán bộ quản lý, thu thuế phải được đào tạo, đủ trình độ và năng lực để thực hiện các qui trính, kỹ thuật, quản lý thu thuế đúng theo qui định của Luật thuế và Nhà nước. - Các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế. - Trình độ dân trí tương đối cao. Người dân phải hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép, đọc, viết, lưu giữ hoá đơn chứng từ. Đó là cơ sở cho việc tính thuế. - Phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế. Cụ thể là cần có hệ thống máy vi tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh và các cơ quan thuế cũng như nội bộ ngành Thuế. III. Chế độ thuế GTGT ở Việt Nam Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ 1/1/1999 theo Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 ngày 10 tháng 5 năm 1997. Sau hơn 5 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực trên các mặt của đời sóng kinh tế - xã hội, như: khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu và đầu tư; thúc đẩy hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và quản lý thuế nói riêng. Trong quá trình thực hiện, Luật thuế GTGT đã được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm khắc phục những tồn tại để Thuế GTGT phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Vừa qua, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT; Chính phủ đã ban hành Nghị định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT (thay thế Nghị định số 79/2000/NĐ-CP); Bộ Tài chính đã ban hánh Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị địng quy dịnh chi tiết thi hành Luật thuế GTGT. Luật thuế GTGT quy định. 1. Thuế GTGT: Là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 2. Đối tượng chịu thuế: Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiệ dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế aía trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 4 của Luật thuế GTGT. 3. Đối tượng nộp thuế: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế GTGT. 4. Nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện luật thuế GTGT: Cơ sở khinh doanh và người nhập khẩu có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn theo quy định của Luật này. Cơ quan thuế trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện đúng các quy định của Luật Các cơ quan Nhà hước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thi hành Luật thuế GTGT. Công dân Việt Nam có trách nhiệm giúp cơ quan thuế, cán bộ thuế trong việc thi hành Luật này. 5. Căn cứ tính thuế: Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT Thuế suất: Gồm 3 mức thuế suất là 0%; 5%; 10%. Mức thuế suất 0% áp dụng cho hàng xuất khẩu. Mức thuế suất 5% áp dụng cho các loại háng hoá tiêu dùng thiết yếu. Mức thuế suất 10% áp dụng cho các loại hàng hoá thông thường. Các mức thuế suất thuế GTGT áp dụng thống nhất cho từng loại hàng hoá, dịch vụ ở các khâu nhập khẩu, sản suất, gia công hay kinh doanh thương mại. 6. Phương pháp tính thuế: Thuế gía trị gia tăng phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. Trường hợp vơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khuấ trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua,bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp như sau: Phương pháp khấu trừ thuế: - Đối tượng áp dụng là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nướ ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. - Số thuế phải nộp bằng thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ. Thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Thuế giá trị gia tăng đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuấtkinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT số thuế ghi trên chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thau cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chưcs, cá nhân nước ngoài có hoatn động kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nứơc ngoài tại Việt Nam. Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng: - Đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng là: + Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Vuệt Nam; + Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căm cé tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; + Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. - Xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó GTGTcủa háng hoá, dịch vụ = Doanh số của háng hoá, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra IV. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện thuế GTGT ở việt nam. 1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thuế GTGT. Hệ thống chính sách thuế của một nước, dù hoàn hảo nhất, sau một thời gian triển khai thực hiện luôn phát sinh những vấn đề không còn phù hợp do tình hình kinh tế - xã hội thường xuyên biến động. Yêu cầu nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cải cách cả hệ thống chính sách hay từng loại thuế cho phù hợp với biến chuyển của mỗi nước, đặc biệt trong xu thế hội nhập đã trở thành đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan ở hầu hết các nước. Việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta cùng với những kết quả đạt được, trong bối cảnh nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, Luật thuế GTGT cũng bộc lộ một số tồn tại về cơ chế, chính sách và quy định 1.1. Ưu điểm chủ yếu của thuế GTGT: Trong quá trình áp dụng, thuế GTGT biểu hiện những ưu nhược điểm rõ rệt. Mặc dù đã bị phản ứng và không được chấp nhận một cách dễ dàng, gây nhiều tranh cãi ở một số nước, nhưng nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của chính sách thuế. - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. - Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá, hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu kớn cho ngân sách Nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoặc giá dịch vụ, nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doang thu đúng với hoạt động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bá để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ, thường xẩy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hoá đơn, vì đối với họ không còn xẩy ra việc khấu trừ thuế. Tuy vâỵ, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này thường không nhiều. Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế.Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó, tạo được tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thoả thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá, chuyên môn hoá sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. 1.2. Nhược điểm - Thuế GTGT có ưu điểm là tính trung lập rất cao. Đồng thời cũng lại có nhược điểm là thiếu linh hoạt, mềm dẻo, không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiếu thành phần kinh tế tham gia. - Chi phí về quản lý, thu thuế GTGT rất tốn kém. Để thực hiện tốt thuế GTGT, công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch. Trên thực tế, không phải tất cả các doanh nghiệp vừa và lớn thuộc mọi thành phần kinh tế đều làm tốt công tác này. Do đó, hầu hết các nước đang thực hiện thuế GTGT đều phải sử dụng máy vi tính để bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi, quản lý thuế chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. - Thuế GTGT có ít thuế suất nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. - Tính thuế theo phương pháp trực tiếp đối với một số ngành rất khó khăn và không chính xác, ví dụ như các ngành phục vụ, sửa chữa, nghiên cứu khoa học công nghệ... - Biện pháp ấn định mức doanh thu tính thuế đối với các hộ kinh doanh chưa th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35548.doc
Tài liệu liên quan