MỤC LỤC
Chương I. GIỚI THIỆU CHUNG 2
I.1. Đặt vấn đề 2
I.2. Hiệu ứng nhà kính 2
I.2.1. Khái quát về thành phần khí quyển 2
I.2.2. Khí nhà kính 3
I.2.3. Bản chất của hiện tượng hiệu ứng nhà kính 4
Chương II. CÁC KHÍ CHÍNH GÂY HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH 5
II.1. Khí carbon dioxide (CO2) 5
II.2. Khí chloroflourcarbons (CFC) 8
II.3. Khí metan (CH4) 11
II.4. Khí nitơ oxit (N2O) 12
II.5. Khí trifluoromethylsulfure (SF CF3) 13
Chương III. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY TRÊN TOÀN THẾ GIỚI DO TÁC ĐỘNG CỦA KHÍ NHÀ KÍNH 14
III.1. Tác động của khí nhà kính đến môi trường 14
III.2. Mối đe dọa từ đại dương 15
III.3. Mối đe doa đối với các loài động, thực vật 16
III.4. Thảm họa nắng nóng bất thường 17
III.5. Cường độ của các cơn bão 19
III.6. Hiện tượng El Nino 19
III.7. Kinh tế toàn cầu 20
Chương IV. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HIỆN TƯỢNG HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH 22
IV.1. Một số văn bản, quy ước quốc tế 22
IV.I.1. C«ng íc khung cña Liªn Hîp qu«c vÒ biÕn ®æi khÝ hËu (UNFCCC) .22
IV.1.2. Nghị định Kyoto (KP) 22
IV.1.3. Cơ chế đối tác đầu tư giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển (CDM) 23
IV.1.4. Thị trường mua bán phát thải khí nhà kính 23
IV.2. Một số giải pháp toàn cầu 23
IV.3. Ứng dụng năng lượng hạt nhân 24
IV.4. Một số các công nghệ có khả năng được thực thi trong một vài thập niên tới 25
IV.5. Bảo vệ môi trường ở Việt Nam 25
Chương V. KẾT LUẬN 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
28 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 4641 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiện tượng hiệu ứng nhà kính và biện pháp khắc phục hiện tượng này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô nhiễm môi trường bởi CO2 và các loại khí thải khác. Mỹ, Canada và Mêhicô đã tiêu thụ gần 40% năng lượng hóa thạch tiêu thụ trên thế giới.
Tại hội nghị Manila 1995, các quốc gia công nghiệp phương Tây bị tố cáo là thủ phạm gây ra ô nhiễm môi trường,hàng năm đã phát thải vào khí quyển 23 tỷ tấn khí CO2 phá hoại lớp ozon. Còn ở Châu Á, Trung Quốc là nước đứng đầu trong phát thải CO2 và các khí khác vào môi trường (6,6% trong tổng số), tiếp theo đó là Nhật Bản (chiếm 3,9% trong tổng số).
Chính vì những lý do trên nên có thể nói CO2 la một trong những khí có tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường hiện nay.
Khí chloroflourcarbons (CFC)
Khí CFC là một hợp chất bao gồm chlorine, fluorine và carbon. Những khí này được sử dụng để sản xuất thuốc trừ sâu, mỹ phẩm, chất làm lạnh tủ lạnh và máy điều hòa nhiệt độ. Bình thường chúng là loại khí trơ nhưng trong khí quyển, dưới tác dụng của tia bức xạ tử ngoại của mặt trời, nó giải thoát clo - mỗi nguyên tử clo phản ứng dây chuyền với 100.000 phân tử ozon và biến ozon thành oxi theo phản ứng sau:
Cl + O3 → ClO + O2 ;
ClO + O → Cl + O2 ;
Và như vậy, theo các phản ứng trên khí ozon (O3) sẽ mất đi, còn khí clo (Cl) luôn tồn tại và tiếp tục phá hủy tầng ozon.
Như đã biết, trong tầng bình lưu của khí quyển trái đất ở độ cao 18 ÷ 40km có một lớp giàu khí ozon gọi là tầng ozon. Tầng ozon xuất hiện trong khí quyển đồng thời với sự có mặt của khí oxi. Lượng khí ozon trong khí quyển vô cùng nhỏ, khoảng 4.10-7% thể tích. Tuy nhiên tầng ozon có vai trò cực kì quan trọng đối với đời sống sinh vật trái đất vì nó có khả năng hấp thụ toàn bộ năng lượng bức xạ cực tím của mặt trời với bước sóng 2900AO ÷ 2200AO, có tác động hủy diệt mọi sinh vật trên trái đất. Ngoài ra tầng ozon còn hấp thụ cả bức xạ hồng ngoại nên được xem là ranh giới ngoài của sinh quyển.
Trong khí quyển, khí ozon sinh ra và mất đi rất nhanh, nó tồn tại trong một vài phút. Các tính toán cho thấy nồng độ khí ozon trong khí quyển đạt giá trị cực đại ở độ cao 25 ÷ 30km. Trong khí quyển, nồng độ ozon cũng thay đổi trong ngày theo mùa. Nồng độ ozon vào thời gian buổi chiều cao hơn buổi sáng. Nồng độ ozon đạt giá trị cực đại vào mùa xuân và cực tiểu vào mùa thu. Nồng độ ozon ở tầng đối lưu của vùng cực theo lý thuyết thường cao gấp hai lần vùng xích đạo. Độ cao mà nồng độ ozon đạt giá trị lớn nhất ở xích đạo là 25km, khi di chuyển về hai cực sẽ giảm xuống độ cao 13km. Trong khí quyển, nồng độ ozon lớn hơn 1ppm, ở độ cao mặt biển nồng độ ozon trong khí quyển độ 0,05ppm.
Tầng ozon trong khí quyển có lợi cho con người và động vật, nó “bảo vệ, che chắn“ bức xạ tử ngoại của mặt trời. Bức xạ mặt trời chiếu qua tầng ozon xuống mặt đất, phần lớn được tầng ozon hấp thụ, điều tiết khí hậu và sinh thái trái đất. Nếu như vậy, tầng ozon trong khí quyển bị chọc thủng sẽ gây ra thảm họa hệ sinh thái ở mặt đất. Một trong nhưng nguyên nhân chính làm tầng ozon bị “chọc thủng” là do loài người đã sử dụng nhiều CFC (hợp chất florua carbon- cloflorua metan) và thải vào khí quyển.
Tầng ozon có tác dụng bảo vệ che chắn bức xạ tử ngoại của mặt trời, chính vì vậy khi tầng ozon bị chọc thủng sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và môi trường sống.
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia cũng đang áp dụng các biện pháp cắt giảm phát thải khí CFC, một số hợp chất liên quan cũng bị cấm sử dụng. Tuy nhiên CFC lại được sinh ra từ các quá trình sản xuất công nghiệp nên việc kiểm soát sự phát thải nó là rất khó khăn và nó gây ảnh hưởng đáng kể với các nền kinh tế toàn cầu.
Hiệp định Kyoto đã được soạn thảo (1997) nhằm thực hiện công ước khung của Liên hợp quốc về thay đổi khí hậu. Công ước này kêu gọi các nước công nghiệp hóa phải giảm thải khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu (đặc biệt là khí CFC) với tỷ lệ thấp hơn mức năm 1990 là 5,2% vào thập kỷ tới. Tuy nhiên các nước công nghiệp hàng đầu như Mỹ, Nga vì những tính toán thực dụng vẫn đang thoái thác không tham gia ký công ước này.
Hiện nay tình trạng suy thoái tầng ozon bình lưu xảy ra mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là hai cực trái đất.
Tại Nam Cực, kể từ khi phát hiên lỗ thủng tầng ozon vào năm 1985, theo số liệu của các cơ quan nghiên cứu quốc tế, kích thước lỗ thủng tầng ozon không ngừng tăng lên. Nó đã đạt 27,2 triệu km2 vào ngày 19/09/1998 và 28,3 triệu km2 vào ngày 03/09/2000. Hiện nay theo NASA, kích thước lỗ thủng đã ổn định nhưng nồng độ ozon trong lỗ thủng tiếp tục giảm.
Tại Bắc Cực từ tháng 12/1999 đến 03/2000, nhiệt độ phần thấp khí quyển (10 ÷ 22km) ở Bắc Cực đã giảm 40C ÷ 50C, nên quá trình phá hủy ozon gia tăng. Sự thiếu hụt tổng lượng ozon trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 03/2000 so với thời điểm năm 1976 khoảng 2950 mega tấn, gấp đôi sự thiếu hụt vào các năm 1998 và năm 1999.
Tác hại của việc suy thoái tầng ozon:
Người ta đã ước tính ràng nếu ozon bình lưu giảm 1% thì sẽ tăng 2% UVR (UVR - cường độ bức xạ mặt trời) trên bề mặt trái đất và do đó làm tăng: 0,6 ÷ 0,8% ca đục thủy tinh thể; 2% ca mắc ung thư da không sắc tố; 0,6% tỷ lệ mắc sắc tố da ác tính.
Nếu ozon tầng bình lưu giảm 10% thì ung thư da không sắc tố tăng 24%, nếu suy giảm 30% thì sẽ tăng gấp đôi và khi giảm 50% sẽ tăng gấp 4 lần.
Bên cạnh gây bệnh cho con người, UVB còn có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sơ cấp của thực vật. Theo số liệu nghiên cứu ở Châu Nam Cực thì bức xạ cực tím UVB đã làm giảm 23% năng suất sơ cấp thực vật phù du, nguồn thức ăn của 500 ÷ 700 triệu tấn thân mềm và 120 loài cá, 80 loài chim biển, 6 loài hải cẩu, 15 loài cá voi.
Có thể nói đó là những minh chứng tiêu biều cho sự tác động của việc suy thoái ozon.
Như vậy, tình trạng suy thoái tầng ozon đang là nguyên nhân làm cho mức độ tác động tiêu cực của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Khí metan (CH4)
Khí CH4 là một trong các khí có tác động mạnh mẽ gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính. CH4 là thành phần chính của khí tự nhiên, khí dầu mỏ, khí bùn ao, đầm lầy. Mặc dù CO2 là nguyên nhân chính gây hiệu ứng nhà kính, còn CH4 chỉ thải vào không khí với một lượng thấp hơn rất nhiều thế nhưng CH4 có hại cho khí hậu lớn gấp 30 lần so với cùng một lượng nhất định khí CO2.
Hiện nay, mật độ của khí CH4 đã tăng khoảng 150% từ năm 1750 đến năm 1998. Mật độ trung bình của nó trên bề mặt trái đất là khoảng 1745ppb. Mật độ ở Bắc bán cầu cao hơn vì ở đó có nhiều nguồn CH4 hơn (cả thiên nhiên lẫn nhân tạo). Mật độ của CH4 cũng thay đổi theo mùa, thấp nhất vào cuối hè.
Nguyên nhân chính làm cho hàm lượng CH4 ngày càng gia tăng là do quá trình sản xuất dầu tại nhà máy lọc dầu, quá trình nhiên liệu cháy không hoàn toàn, quá trình khai thác vận chuyển xăng dầu, sự rò rỉ đường ống khí đốt...
Sự gia tăng hàm lượng CH4 trong khí quyển trong vài thập niên trở lại đây được đo tại đảo Mauna Loa (thuộc quần đảo Hawaii – Hoa Kỳ) thể hiện rõ qua sơ đồ hình 4.
Hình 4. Sự gia tăng hàm lượng khí metan tại đảo Mauna Loa
Người ta tính trung bình cứ 100 năm, mỗi kg CH4 làm ấm trái đất gấp 23 lần so với cùng một khối lượng CO2. Khí CH4 tồn tại được trong khí quyển khoảng 9,6 năm. Ở áp suất lớn, ví dụ ở dưới đáy đại dương, CH4 tạo ra một dạng sàng rắn với nước được gọi là metan hidrat. Một số lượng lớn chưa từng xác định nhưng có lẽ là rất nhiều CH4 bị giữ lại dưới dạng này ở đáy biển. Sự giải phóng đột ngột của một thể tích lớn CH4 từ những nơi đó vào khí quyển là một giả thuyết về nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trái đất nóng lên trong quá khứ, đỉnh cao là khoảng 55 triệu năm trước. Một tổ chức đã ước tính trữ lượng metan hidrat trong đáy đại dương vào khoảng 10 triệu triệu tấn. Giả thuyết rằng nếu trái đất nóng lên đến một nhiệt độ nhất định nào đó, toàn bộ lượng CH4 này có thể một lần nữa bị giải phóng vào khí quyển, khuyếch đại hiệu ứng nhà kính lên nhiều lần và làm trái đất nóng lên chưa từng có.
Khí nitơ oxit (N2O)
N2O là loại khí gây hiệu ứng nhà kính, được sinh ra trong quá trình đốt các nhiên liệu hoá thạch. Hàm lượng của nó đang tăng dần trên phạm vi toàn cầu, hàng năm khoảng từ 0,2 - 0,3%. Một lượng nhỏ N2O khác xâm nhập vào khí quyển do kết quả của quá trình nitrat hoá các loại phân bón hữu cơ và vô cơ. N2O xâm nhập vào không khí sẽ không thay đổi dạng trong thời gian dài, chỉ khi đạt tới những tầng trên của khí quyển nó mới tác động một cách chậm chạp với nguyên tử oxy.
Khí trifluoromethylsulfure (SF CF3)
Một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Châu Âu đã phát hiện ra ở độ cao cách mặt đất từ 8 ÷ 32km có một loại khí lạ trifluoromethylsulfure (SF CF3). Loại khí này có khả năng hấp thụ ánh sáng mặt trời cực lớn, gấp 18.000 ÷ 20.000 lần khí carbon dioxide, có thể tồn tại trên tầng cao của khí quyển khoảng 3500 năm. Nguy hiểm hơn, mật độ của nó tăng rất nhanh, từ một lượng nhỏ không đáng kể vào đầu những năm 1986 đã tăng lên tới 0,12 phần tỷ vào năm 1999.
Hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa biết chính xác nguồn gốc của loại khí lạ nguy hiểm này. Tuy nhiên theo một giả thuyết, loại khí này có thể sinh ra từ sự phân hủy hoặc do phụ phẩm của quá trình sản xuất hexafluoridesunfure (SF6) - một chất lỏng cách điện được dùng nhiều trong công nghiệp điện tử hoặc từ khí CF4 phát ra từ các lò luyện nhôm. Các nhà khoa học đã lên tiếng cảnh báo về độ nguy hiểm đặc biệt của loại khí này vì nó có thể tích tụ nhiều lên và tồn tại một thời gian dài trong bầu khí quyển làm cho nhiệt độ trái đất tăng nhanh.
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG HIỆN NAY TRÊN
TOÀN THẾ GIỚI DO TÁC ĐỘNG CỦA KHÍ NHÀ KÍNH
Nhiều nhà khí tượng học cho rằng việc nhiệt độ tăng lên tới mức kỉ lục như hiện nay phần lớn là do cách ứng xử vô trách nhiệm của con người đối với môi trường. Nguyên nhân sâu xa được xem là hiệu ứng nhà kính, hậu quả thực dụng của cách hành xử thực dụng của các nước phát triển. Lượng khí carbon dioxide và nhiều loại khí thải khác trong bầu khí quyển nhiều năm trước đã khiến nhiệt độ cao hơn mức bình thường 30C ÷ 40C.
Tác động của khí nhà kính đến môi trường
Do quá trình phát triển công nghiệp mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt từ những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, bằng các hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch, phá rừng, sản xuất chăn nuôi…đã làm cho nồng độ của các khí nhà kính tăng lên nhanh chóng. Điều này khiến cho nhiệt độ trái đất tăng nhanh với tốc độ chưa từng có trong quá khứ. Hậu quả là:
Làm thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác.
Làm thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển, thổ nhưỡng quyển.
Làm di chuyển các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và các hoạt động bình thường khác của con người.
Nhiệt độ trái đất tăng lên làm băng tan ở hai cực. Mực nước biển dâng cao dẫn đến ngập úng các vùng trũng thấp trên mặt đất, làm biến động dòng chảy của các sông ngòi, phá vỡ nhiều công trình trên các dòng sông đó.
Nguồn nước: Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu, nước dùng cho các quá trình công nghệ, cho các nhà máy phát điện cũng như sức khỏe của các loài thủy sản có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào và bởi sự tăng khí bốc hơi.
Mưa tăng có thể gây lụt lội thường xuyên hơn, khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối với sông ngòi trên thế giới.
Các tài nguyên bờ biển: Chỉ riêng ở Hoa Kỳ, mực nước biển dự đoán sẽ tăng 50 cm vào năm 2100, có thể mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và 4.000 dặm vuông đất ướt.
Sức khỏe: Số người chết vì nắng nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kì dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm, nhiều loại bệnh tật mới đối với con người sẽ xuất hiện, và sẽ làm cho sức khỏe con người bị suy giảm.
Lâm nghiệp: Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện cho nạn cháy rừng dễ xảy ra hơn.
Năng lượng và vận chuyển: Nhiệt độ ấm hơn tăng nhu cầu làm lạnh và giảm nhu cầu làm nóng. Sẽ có ít sự hư hại do vận chuyển trong mùa đông hơn nhưng vận chuyển bằng đường thủy có thể bị ảnh hưởng bởi số trận lụt tăng hay bởi sự giảm mực nước sông.
Sinh vật: Sự nóng lên của trái đất làm thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật trên trái đất. Một số loài sinh vật thích nghi với điều kiện mới sẽ thuận lợi phát triển, trong khi đó nhiều loài sẽ bị thu hẹp về diện tích hoặc bị tiêu diệt.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số hiểm họa toàn cầu và tác động của hiệu ứng nhà kính.
Mối đe dọa từ đại dương
Trong một nghiên cứu kéo dài ba năm qua của nhà khoa học Na Uy- giáo sư Ola Johannessen thì vào cuối thế kỷ 21, băng Bắc Cực đã giảm 7,4% trong vòng 25 năm qua do hiệu ứng nhà kính. Theo giáo sư Johannessen, vào cuối thế kỉ 21, khí hậu toàn cầu nóng lên sẽ làm tan chảy 80% chỏm băng ở đây trong mùa hè; biển Barents ở phía Bắc của Nga và Na Uy sẽ không còn băng, thậm chí là trong mùa đông. Hiện tượng này sẽ cho phép dòng nước lạnh của Bắc Băng Dương bị thất thoát sang Thái Bình Dương khiến cho nhiệt độ của Bắc Băng Dương tăng cao hơn hàng năm, lúc này nắng nóng vào mùa hè là điều không thể tránh khỏi. Báo cáo cũng chỉ ra rằng hiện tượng trên liên quan mật thiết tới việc con người thải ra các loại khí nhà kính.
Một báo cáo khác của các nhà khoa học Ấn Độ, nước biển dâng cao đã nuốt chửng hai trong số 100 hòn đảo nhỏ tại vùng châu thổ Sunderbans và đe dọa nhấn chìm hàng chục đảo khác với 10.000 dân cư. Báo cáo cũng cho biết tiến trình lún chìm của các đảo bắt đầu từ thập niên 1940 của thế kỷ XX. Lúc đầu tiến trình này con diễn ra chậm chạp nhưng hiện nay càng ngày càng nhanh.
Ngoài ra theo báo cáo của tổ chức nghiên cứu Công nghệ và Khoa học của khối Thịnh Vượng Chung (CSRIO), hiện tượng trái đất nóng lên ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương có thể làm cho nước biển dâng cao thêm 16 cm vào năm 2030 và 50 cm vào năm 2070. Nước biển dâng lên, hàng triệu người dân các nước miền duyên hải các nước Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Bangladesh và các đảo ở Thái Bình Dương sẽ đứng trước nguy cơ mất hết nhà cửa. Núi băng Qori Kalis (Pêru) hiện chìm trung bình 200m/năm, gấp 40 lần so với năm 1978, Qori Kalis là một trong hàng trăm núi băng đang biến mất.
Mối đe doa đối với các loài động, thực vật
Theo quĩ bảo tồn động vật hoang dã thế giới WWF cảnh báo, tình trạng nóng lên của khí hậu trái đất nếu không được kiểm soát có thể đẩy 72% số loài chim trên hành tinh tới bờ vực của sự tuyệt chủng. Ngay tại thời điểm hiện nay, tình trạng nóng lên của trái đất đang gây nên những tác động xấu đối với cuộc sống của nhiều loài, kể cả chim cánh cụt và chim hút mật. Sự biến mất của nhiều loài chim cho thấy hiệu ứng nhà kính đã gây ra một chuỗi tác động đối với các hệ sinh thái trên phạm vi toàn cầu. Tình trạng thay đổi khí hậu cũng tác động tới hành vi của chim di cư. Bằng chứng là một số loài chim di cư đã không còn bản năng thay đổi nơi sinh sống nữa.
Số lượng loài chim di cư đang giảm đi ở Châu Âu và Mỹ khi nguồn thức ăn cho chúng bị biến mất bởi tình trạng nóng lên của khí hậu. Tại nhiều nơi, chẳng hạn như phía bắc vịnh Hudson của Canada, muỗi đang sinh sôi nảy nở rất nhanh và đã đạt tới mức độ kỉ lục về số lượng vào mùa xuân năm nay. Thế nhưng các loài chim biển ở những nơi này không hề thay đổi hành vi để thích ứng với những điều kiện mới. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở Hà Lan, nơi 90% số lượng cá thể ở một số loài chim đã bị biến mất trong hai thập kỉ qua.
Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng, nhiều vùng ẩm ướt ở bờ biển Địa Trung Hải – nơi sinh sống của đa số các loài chim di cư trên hành tinh – sẽ trở nên khô hạn vào năm 2080. Ngoài ra, sự tăng lên của nhiệt độ cũng sẽ hủy diệt nhiều điểm đến khác của chim di cư khiến chúng có ít chọn lựa hơn.
Cách đây hai thập niên, đảo Biscoe thuộc bán đảo Nam Cực còn là nhà của 2.800 cặp chim cánh cụt Adélie, hiện nay chỉ con chừng khoảng 1.000 cặp. Tại các đảo gần đó, dân số Adélie giảm 66%. Nghiên cứu 34 loài bướm không di cư tại Châu Âu cho thấy 75% loài này hiện đang bay xa hơn từ 3,5 ÷ 240km về phương Bắc. Nhiều loài hoa ở Châu Âu cũng đã nở sớm hơn một tuần và rụng lá muộn hơn 5 ngày so với cách đây 50 năm. Chim tại Anh cũng sinh sớm hơn trung bình 9 ngày so với giai đoạn trước thế kỷ 20 và ếch đột ngột bước vào mùa giao phối sớm hơn 7 tuần.Tại Bắc Mỹ, chim én di cư vào mùa xuân sớm hơn 12 ngày so với cách đây 25 năm. Cáo đỏ Canada cũng rủ nhau lên vùng cực, xâm phạm lãnh thổ cộng đồng cao Bắc Cực. Và cũng do ảnh hưởng thời tiết nóng dần, sâu bướm biến thành bướm sớm hơn 2 tuần.
Thảm họa nắng nóng bất thường
Người Pháp vừa chứng kiến một mùa hè nóng nhất kể từ năm 1949. Tại Bordeaux, nhiệt độ lên tới 40OC. Với 3.000 người thiệt mạng do nóng, Pháp là nước chịu hậu quả nặng nề nhất về người trong cơn giận dữ của thiên nhiên này. Có thể nói nếu so với nạn nhân của chiến tranh hoặc dịch bệnh thì số người chết vì nắng nóng không hề thua kém.
Bồ Đào Nha là nước chịu hậu quả lớn nhất về của, 54.000 ha rừng bị biến mất trong vụ cháy rừng lớn nhất hơn 20 năm qua tại nước này, vụ cháy được gọi là thảm họa quốc gia. Hậu quả là 11 người chết, hàng trăm người phải sơ tán, 3.000 lính cứu hỏa và hàng chục máy bay chữa cháy đã phải vật lộn với hơn 70 đám cháy đang hoành hành dọc khu vực biên giới Trung, Bắc và Đông Bắc đất nước.
Tại Tây Ban Nha, nhiệt độ đã lên tới 46OC so với hàng năm (40OC ), một chỉ số chưa từng có trong lịch sử. Cháy rừng cũng hoành hành tại một số vùng miền Nam và miền Trung nước này.
Tại Anh, nhiệt độ cao nhất lên tới 38OC - một điều chưa từng có tại quốc đảo sương mù. Tốc độ xe lửa được hạn chế bởi người ta lo sợ đường ray sẽ bị oằn cong do nóng.
Tại Berlin (Đức), cái nóng 40OC đã giết chết 5 người, nhiều tuyến đường sắt phải ngừng hoạt động.
Các dòng sông lớn như Rhine đã cạn kiệt, 80% diện tích hoa màu trong một số khu vực chịu nắng nóng đã bị tàn phá.
Dòng sông Po - Italia, với lưu lượng khổng lồ hiện đã giảm mực nước, thậm chí tuyết và sông băng trên những ngọn núi cao nhất đã tan với tốc độ chóng mặt.
Thảm họa vẫn liên tiếp xảy ra, lũ lụt tại Trung Quốc, Pakistan; cháy rừng ở Canada.
Nhiệt độ trung bình trên toàn cầu trong vài thập niên trở lại đây đang ngày càng tăng, sơ đồ hình 5 dưới đây cho chúng ta phần nào thấy rõ được điều đó
Hình 5. Sự biến đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu
Có thể nói chưa bao giờ sự khắc nghiệt cuả thiên nhiên và cách ứng xử vô trách nhiệm của con người đối với môi trường lại gây ra hậu quả nghiêm trọng đến thế. Các nhà khoa học tiên đoán rằng nhiệt độ trái đất trong 30 năm cuối của thế kỷ 21 do hiệu ứng nhà kính sẽ vẫn chưa có điểm dừng. Theo ước tính, lượng khí nhà kính trong khí quyển đã lên tới 7 tỷ tấn - một con số chưa từng có ở bất kì giai đoạn nào trong lịch sử phát triển của trái đất.
Cường độ của các cơn bão
Con người đã làm cho các cơn bão ngày càng trở nên hung dữ. Theo một công bố mới đây, chính những loại khí gây hiệu ứng nhà kính do con người thải ra đã làm tăng nhiệt độ nước biển- một trong những nhân tố trực tiếp làm tăng cường độ các cơn bão. Tháng 7 năm ngoái, học viện công nghệ Masschussets đã công bố một bản bảo cáo trong đó đã chỉ ra rằng: ”Thời gian, tốc độ gió tối đa và năng lượng giải phóng của các cơn bão nhiệt đới đã tăng lên rõ rệt cả ở Bắc Đại Tây Dương và Bắc Thái Bình Dương kể từ những năm 70”.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng trong vòng 15 năm qua kể từ năm 1975 đến năm 1989 đã xuất hiện 171 cơn bão cực mạnh (loại cấp 4 hoặc cấp 5) nhưng trong 15 năm trở lại đây con số đó đã tăng lên 269. Việc tăng cường độ các cơn bão chính là do nhiệt độ bề mặt nước biển - hệ quả của hiệu ứng nhà kính liên tục tăng cao trong những năm gần đây.
Tại trung tâm nghiên cứu khí quyển của Mỹ, kết quả phân tích những trận bão ở Bắc Đại Tây Dương (2005) đã cho thấy nhiệt độ bề mặt ở khu vực này đã tăng lên 0,9OC so với mức trung bình của những năm trước đó. Và sau khi so sánh nhiệt độ bề mặt ở khu vực này với các đại dương khác thì các nhà khoa học đã nhận định rằng một nửa số lần tăng nhiệt độ bề mặt ở Đại Tây Dương là do những khí thải hiệu ứng nhà kính gây ra.
Ngoài ra theo các nhà khoa học thì hiện tượng thời tiết như hạn hán, lũ lụt hay sự tan băng ở các địa cực cũng là mối đe dọa đối với hàng triệu sự sống khác.
Có thể thấy qua vài thập niên gần đây, trái đất ngày càng nóng dần đã tạo ra những chuyển biến nghiêm trọng trên bề mặt hành tinh. Nó đã gây nhiều tác động mạnh mẽ đến con người và động vật, hệ sinh thái trên hành tinh. Và nếu với cứ tốc độ gia tăng khí nhà kính như hiện nay thì sẽ có thể xảy ra một sự thay đổi đột ngột và cực mạnh, làm biến đổi hoàn toàn hệ sinh thái hành tinh.
Hiện tượng El Nino
El Nino được dùng để chỉ hiện tượng nóng lên khác thường của nước biển vả vành đai xích đạo rộng lớn dài gần 10.000 km, từ bờ biển Nam Mỹ đến quần đảo Macsan, Marudơ ở khu vực giữa Thái Bình Dương. El Nino thường gắn với một quá trình lớn của khí quyển - đại dương là dao động nam bán cầu (Southern Oscillation) và được gọi chung là ENSO. Hiện tượng ElNino thường lặp lại với chu kỳ khoảng 8 đến 11 năm, chu kỳ ngắn hơn là 2 đến 3 năm. Khi xuất hiện, ElNino gây ra những thiên tai nặng nề (mưa lớn, bão, lũ lụt ở vùng này, hạn hán cháy rừng ở vùng khác), làm thiệt hại lớn về người, thảm hoạ về kinh tế - xã hội (mất mùa, đói kém, bệnh tật...) và đặc biệt là những thiệt hại không thể khắc phục được về môi trường. Trong khoảng 100 năm trở lại đây đã có 4 lần xuất hiện ElNino gây thiệt hại lớn, đó là vào các năm 1877 - 1878, 1888; Đối ElNino (LaNina) 1973 - 1975 và đặc biệt là "ElNino thế kỷ - 1982 - 1983". Theo thống kê, tổng thiệt hại do "ElNino thế kỷ" gây ra cho toàn thế giới là 13 tỷ USD.
Hiện tượng El-Ninô mạnh kỷ lục năm 1997 - 1998, theo nguồn tin nước ngoài, ước tính thiệt hại do ElNino 1997 - 1998 gây ra cho Inđônêxia, Malaysia, Singapo và đảo Thái Bình Dương đã lên tới khoảng 20 tỷ USD. Các nhà khoa học dự tính nếu El-Nino tái xuất thì trung và tây Canada, miền tây nước Mỹ sẽ có mùa đông ấm hơn. Hạn hán, cháy rừng sẽ đe dọa miền đông Australia, Trung Mỹ, và các quần đảo tây Thái Bình Dương như Indonesia, Philippines, thậm chí cả ở Nam Ấn Độ...
Kinh tế toàn cầu
Thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu gây ra có thể làm giảm 20% kinh tế toàn cầu và có thể gây ra những đảo lộn về kinh tế - xã hội, có thể so sánh với thiệt hại của hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc đại suy thoái kinh tế trong thế kỷ trước”. Đây là nhận định của hơn 100 bộ trưởng và 6000 đại biểu là các nhà quản lý, kinh tế, khoa học tham dự Hội nghị môi trường tổ chức ở Nairobi (Kenya) mới đây nhằm đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu và cam kết giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính sau năm 2012 khi Nghị định thư Kyoto hết hiệu lực.
Các quan chức LHQ cũng cảnh báo rằng thiệt hại do hạn hán, bão lụt và những hiện tượng thời tiết bất thường gây ra trong năm 2005 đã ở mức kỷ lục 210 tỷ USD và có thể lên tới 1.000 tỷ USD vào năm 2040. Riêng thiệt hại do trận bão Katrina tại Mỹ năm qua lên tới 120 tỷ USD.
Những trận bão xảy ra từ tháng 7 đến tháng 9 - 2006 tại Trung Quốc, Nhật Bản và Philippines đã gây thiệt hại 13 tỷ USD. Tại châu Phi, nạn hạn hán và lụt lội diễn ra ở Ethiopia và Somali đã làm cho 280.000 người mất nhà ở, gây ảnh hưởng tới cuộc sống của hơn 3 triệu người.
Đại diện của Tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên hợp quốc (FAO) cho rằng, cộng đồng thế giới cần quan tâm đặc biệt tới tác động của sự biến đổi khí hậu đối với nông nghiệp, rừng và nghề cá.
Hội đồng ngũ cốc quốc tế cũng dự báo nhu cầu lương thực thế giới sẽ vượt cung trong niên vụ 2006 - 2007 và thế giới có thể thiếu hụt 64 triệu tấn lương thực. Sản lượng lương thực toàn cầu giảm do hạn hán, lũ lụt diễn ra tại nhiều nước, làm cho giá lúa mì tại Chicago, Luân Đôn, Paris và giá thóc gạo tại nhiều nước ở châu Á tăng cao.
Các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng toàn cầu sẽ thiệt hại tới 7.000 tỷ USD do hiện tượng trái đất nóng lên trong 10 năm tới nếu như các nước không thực hiện những biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh.
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HIỆN TƯỢNG
HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH
Một số văn bản, quy ước quốc tế
IV.1.1. Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC)
Trước những hiểm hoạ và thách thức lớn đối với toàn nhân loại, Liên hợp quốc đã tập hợp nhiều nhà khoa học, chuyên gia trên thế giới để bàn bạc và nhất trì rằng cần phải có một công ước quốc tế về khí hậu và coi đó là cơ sở pháp lý để tập trung cộng đồng thế giới đối phó với những diễn biến tích cực của biến đổi khí hậu. Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu đã được chấp nhận ngày 9/5/1992 ở New York. Mục tiêu cuối cùng của UNFCCC là ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu.
IV.1.2. Nghị định Kyoto (KP)
Một trong những cố gắng đầu tiên của nhân loại để giảm mức độ ấm dần do khí nhà kính là việc các quốc gia đã tham gia bàn thảo và tìm cách kí kết một hiệp ước có tên là “ Nghị định thư Kyoto “ (gọi tắt KP) vào tháng 12/1997. Hội nghị đưa ra cam kết đối với các nước phát triển về giảm lượng phát thải khí nhà kính. Cụ thể trong thời gian kí cam kết từ năm 2003 đến năm 2012
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiện tượng hiệu ứng nhà kính.doc