MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Lời mở đầu
PHẦN 1: Khái niệm, phân loại và vai trò của nợ nước ngoài Việt Nam
1.1. Khái niệm
1.2. Phân loại nợ nước ngoài
1.3.Vai trò của Nợ nước ngoài
1.4. Phương pháp xác định
PHẦN 2: Thực trạng về nợ nước ngoài ở Việt Nam nguyên nhân và hạn chế của công tác quản lý nợ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam
2.1.2.1 Tình hình chung
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây
2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam
2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam
2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA
2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện
2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được cải thiện
2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao
2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay
2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô
2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài
2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài
2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được cấp từ nợ nước ngoài
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Yếu tố lịch sử
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý.
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém
PHẦN 3:Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vay và quản lý các khoản vay nợ nước ngoài của Việt Nam
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài
3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối
3.2. Các giải pháp làm giảm chi phí vay nợ
3.2.1.Chính sách tỷ giá hối đoái
3.2.2. Ổn định lạm phát
3.2.3.2. Gia tăng hệ số tín nhiệm quốc gia
3.3. Các biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả
3.3.1.Kiểm soát nợ nước ngoài
3.3.2. Các biện pháp nhằm sử dụng nợ nước ngoài có hiệu quả
3.4. Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài
3.5. Các biện pháp hỗ trợ
3.5.1. Ổn định môi trường thể chế
3.5.2. Cải thiện môi trường đầu tư
29 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5827 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nợ nước ngoài của Việt Nam: Thực trạng và các biện pháp đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ
2.1. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
2.1.1. Các phương thức vay nợ chủ yếu của Việt Nam
Ngoài yếu tố tiết kiệm trong nước, các quốc gia đang phát triển – có thể cho là các quốc gia thiếu vốn - cần sự “giúp đỡ” từ yếu tố “ngoại sinh”, Chính phủ cần phải huy động các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nợ của Chính phủ chủ yếu xuất phát từ ba nguồn chủ yếu sau đây:
Nợ ODA (Nguồn vốn vay phát triển chính thức - phần cho vay ưu đãi trong khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA).
Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương.
Phát hành trái phiếu quốc tế (một hình thức vay nợ nước ngoài vừa mới được Chính phủ áp dụng).
2.1.2. Tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam.
2.1.2.1 Tình hình chung.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XII, cho biết: “Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006 tương đương 32,5 tỷ USD tăng 4,6 tỷ USD so với năm trước, và dư nợ công bằng 56,7% GDP ”. Do dư nợ tăng, tổng lượng tiền mà ngân sách phải dành để trả các đối tác nước ngoài trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD), tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009.
Trong khi đó, theo cảnh báo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008.
Bảng 2.1: Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010:
Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài đang có xu hướng giảm dần qua các năm, năm sau giảm hơn năm trước (ngoại trừ chỉ tiêu nợ dịch vụ). Đặc biệt trong giai đoạn 2008- nay, khi thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế và xảy ra nhiều biến động trên thế giới thì nợ nước ngoài của Việt Nam không những không tăng mà còn có xu hướng giảm.
Về chỉ tiêu nợ dịch vụ có xu hướng tăng theo các năm trong giai đoạn gần đây, điều này thể hiện xu thế tất yếu của tình hình kinh tế trong nước cũng như trên thế giới. Đặc biệt trong năm 2006, năm đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Kèm theo đó, các yếu tố thuận lợi từ việc gia nhập WTO đã dần thể hiện rõ nét, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Trong hướng phát triển của nền kinh tế, yếu tố dịch vụ phải ngày càng gia tăng trong tỷ trọng thành phần của nền kinh tế. Nên việc yếu tố nợ dịch vụ ngày càng gia tăng trong nền kinh tế là đều tất nhiên, chúng ta phải “đi trước đón đầu”, phải gia tăng nợ dịch vụ để nền kinh tế tiến kịp với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả sử dụng tránh “ rước cọp về làng”.
2.1.2.2 Lãi suất vay nợ của Việt Nam hiện nay.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Điều này có thể là hệ quả của việc Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cũng như việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin.
Hiện nay Việt Nam được vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99% /năm (chiếm 65,5% tổng dư nợ). Khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10% một năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009.
Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,1%/năm.
Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ, một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.
2.1.2.3 Cơ cấu nợ vay của Việt Nam.
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Trên lý thuyết, điều này được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới. Tỷ trọng cao của các khoản vay bằng USD (22,95%) và JPY (38,25%) gây nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng; và JPY đang lên giá so với USD.
Bảng 2.2 : Các chỉ tiêu về giám sát nợ nước ngoài của Việt Nam.
(Nguồn: IMF & Bản tin nợ nước ngoài số 5 )
Đề tài:
Nếu quan sát diễn biến nợ nước ngoài trong một thời gian dài sẽ dễ dàng nhận thấy xu hướng gia tăng nợ đã diễn ra trong những năm gần đây, từ mức 14,208 tỷ USD năm 2005 lên 27,928 tỷ USD năm 2010. Nếu tiếp tục xu hướng này và không có các biện pháp kiểm soát và quản lý nợ có thể khiến nợ nướcngoài trở nên không an toàn. Nếu đặt nợ nước ngoài trong quan hệ đầu tư và tiết kiệm, ta thấy nợ nước ngoài là nguồn bổ sung cho khoảng chênh lệch tiết kiệm trong nước thấp và mức đầu tư tăng cao. Như vậy, để nợ nước ngoài không mất an toàn thì cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, khuyến khích tiết kiệm toàn dân. Nếu xem xét nợ nước ngoài trong quan hệ cán cán cân thương mại dưới góc độ xuất nhập khẩu thì đây là một khoản vay mà các nhà đầu tư nước ngoài cho Chính phủ và người tiêu dùng trong nước vay để thanh toán cho việc tiêu dùng quá mức, khi đó để giảm nợ nước ngoài cần cải thiện cán cân thương mại, thực hiện các giải pháp gia tăng xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu.
Bảng 2.3: Quan hệ giữa thâm hụt thương mại và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2005-2009
(Nguồn: Thống kê tài chính của IMF và Bộ Tài Chính)
Tóm lại, nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay vẫn còn trong giới hạn an toàn nhưng xu hướng nợ nước ngoài đang gia tăng cho thấy, nếu không có những giải pháp hợp lý kèm theo, thì nợ nước ngoài có thể mất an toàn và gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô.
2.1.2.4 Các khoản nợ nước ngoài của việt nam một số năm gần đây.
Phân theo chủ nợ của khoản nợ chính thức ta có các chủ nợ song phương và đa phương. Gồm có các nước chủ nợ sau : Angeri, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản… và các tổ chức sau EIB, IBRD, IDA, IFAD, IMF, NDF, NIB, OPEC, ADB…
Nợ song phương : Mức nợ song phương lớn nhất của Việt Nam hiện nay là Nhật Bản với mức nợ hằng năm đều > 50% tổng nợ vay của các chủ nợ lớn. Tiếp đến là Pháp và Nga. Sau đây là số liệu cụ thể:
Bảng 2.4 : Một số chủ nợ song phương lớn của Việt Nam
Đơn vị tính :Triệu USD
2005
2006
2007
2008
2009
Angeri
158.3
127.82
96.71
42.6
66.6
Trung Quốc
128.25
141.53
169.94
186.41
359.08
Nhật Bản
3,945.55
4,526.02
5,449.99
6,773.66
8,290.94
Hàn Quốc
123.38
136.03
133.28
113.55
186.48
Hoa Kỳ
103.68
100.46
97.24
94.02
92.06
Pháp
676.05
784.03
1,009.36
911.72
1,112.52
Nga
641.21
636.54
626.3
607.45
589.09
Tổng
5776.42
6452.43
7582.82
8729.41
10696.77
Ngoài ra Việt Nam còn vay nợ từ các tổ chức đa phương chức trên thế giới được tổng hợp từ nguồn của Tổng cục thống kê như sau
Bảng 2.5 : Nợ vay từ các tổ chức đa phương của Việt Nam
Đơn vị tính: Triệu USD
2006
2007
2008
2009
2010
ADB
2009.66
2421.22
2623.58
3860.99
4174.44
IBRD
700
IDA
3593.14
4608.97
4863.11
6441.29
6930.41
IFAD
77.04
90.94
95.49
115.96
128.38
IMF
188.54
170.58
135.58
92.78
50.01
NDF
14.07
16.63
17.22
31.97
30.77
NIB
184.12
204.79
231.88
241.15
223.16
OPEC
33.55
37.69
40.15
46.12
52.71
EIB
48.09
68.62
131.33
Tổng
6100.11
7550.82
8048.07
10898.98
12421.25
Qua bảng trên ta thấy nợ song phương và đa phương của Việt Nam qua các năm đều tăng lên đáng kể. Nhật Bản và IDA là hai chủ nợ lớn nhất của Việt Nam.
2.1.2.5. Hiệu quả sử dụng nợ vay.
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội các dự án góp phần xóa đói, giảm nghèo, gia tăng công ăn việc làm cho xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân. Các dự án điển hình: Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Thủy điện sông Hinh, một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận… nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh, một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy, nhiều trạm y tế đã được cải tạo hoặc xây mới, các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi.Các chương trình dân số và phát triển,chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả.
Trong vấn đề sử dụng nợ, một điều đáng quan tâm là mục đích sử dụng nợ lại là yếu tố dẫn đến nợ vay không được sử dụng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là trên thực tế khi tiến hành huy động vốn cần phải xây dựng các kế hoạch chi tiết về vay, sử dụng và trả nợ nhưng sử dụng vốn vay như thế nào lại liên quan đến tình hình thực tế. Điều đó dẫn đến nguồn vốn khi huy động thì rất nhanh, trong một thời gian ngắn có thể đáp ứng nhu cầu về vốn, nhưng tốc độ giải ngân thì chậm, ảnh hướng đến việc sử dụng vốn sao cho vừa đúng mục đích vừa thoả mãn nhu cầu cầu về vốn vừa làm cho đồng vốn sinh lời để trả nợ. Với đồng vốn giải ngân chậm mà không được đưa đồng vốn giải ngân vào sử dụng cho mục đích khác đã làm cho hiệu quả của nợ vay giảm rất nhiều.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay tốc độ giải ngân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm. Thanh toán nợ của Việt Nam chỉ chiếm 28% GDP. Đây chính là một trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam cần quan tâm cải thiện. Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm, vì thế lợi ích thu được hạn chế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
2.2. Tình hình quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay có 3 cơ quan tham gia quản lý nợ nước ngoài là Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng nhà nước.
Bộ Tài chính mà cụ thể là Vụ Tài chính đối ngoại và Quỹ Hỗ trợ phát triển. Thực hiện các chức năng như đàm phán các hiệp định vay nợ, ký kết hiệp định, theo dõi giải ngân và chuyển các đề nghị thanh toán chi trả nợ cho Kho bạc nhà nước... và chuẩn bị các báo cáo nợ trên cơ sở các thông tin được đăng ký khác và các báo cáo này về các khoản vay nợ trực tiếp, được bảo lãnh và cho vay lại...
Ngân hàng nhà nước : thay mặt Chính phủ, đàm phán các khoản nợ đa phương với 3 tổ chức tài chính quốc tế (IFI) là ADB, IMF, WB và chuyển các hiệp định chính thức đã ký sang Bộ Tài chính; quản lý vay, trả nợ của các doanh nghiệp.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư : sẽ lập dự thảo nhu cầu hàng năm về vay ODA, xây dựng danh mục các dự án chương trình được phê duyệt, đàm phán và ký kết các hiệp định khung về ODA và chuyển cho Bộ Tài chính để dàn xếp các hiệp định vay nợ cụ thể. Theo dõi đánh giá việc sử dụng ODA và tiến hành báo cáo về ODA.
Hiện tại nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn là vay ODA và vay từ IDA theo điều kiện ưu đãi. Tới đây, Việt Nam vẫn có thể còn được tiếp tục vay ưu đãi thêm một số năm nữa. Do vậy, trong thời gian tình hình vay, trả nợ của Việt Nam còn chưa thực sự diễn ra phức tạp, nhưng không có nghĩa là Việt Nam không cần có các hệ thống quản lý nợ hữu hiệu. Bởi các khoản dự nợ song phương hiện hành có thể không hẳn đã là ưu đãi vì lãi suất trên thế giới cũng đã giảm nhiều. Ngay bây giờ, cần phải đánh giá các rủi ro về đồng tiền vay và lãi suất của các khoản vay hiện tại và các khoản vay mới trong tương lai từ nguồn ODA. Việc tìm ra các phương pháp mới về tài trợ thâm hụt là một nhu cầu cấp bách. Hiện tại cần xây dựng hệ thống quản lý nợ để có thể đáp ứng được các thách thức trong tương lai gần.
2.2.1.Những thành tựu nổi bật của công tác quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam.
2.2.1.1.Quản lý nợ nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và thu hút nguồn vốn ODA.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, trong đó nổi bật là các ngành xuất khẩu, đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nước công nghiệp phát triển. Cùng với chiến lược tăng trưởng và chủ động hội nhập, Chính phủ đã có những chính sách có hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn ưu đãi, mà kết quả là những cam kết hỗ trợ ngày càng tăng củacác nhà tài trợ. Những hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là những nỗ lực trong việc xây dựng chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, đã khẳng định năng lực làm chủ sở hữu và sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả của Việt Nam.
2.2.1.2. Khung thể chế quản lý nợ nước ngoài đã được từng bước hoàn thiện
Trong vài năm gần đây, khung thể chế về quản lý nợ nước ngoài đã liên tục được đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu tốt hơn về quản lý nợ nước ngoài của quốc gia và phù hợp hơn với thực tiễn quốc tế. Năm 2002, Quốc hội ban hành Luật Ngân sách Nhà nước, đây là lần đầu tiên quản lý nợ được đề cập trong một văn bản có tính pháp quy dưới hình thức luật. Nghị định 134/2005 ban hành Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện và rõ ràng hơn về quản lý nợ nước ngoài. Tiếp đó, một loạt các Quy chế và Quyết định mới được ban hành trong năm 2006 chứng tỏ quyết tâm thể chế hoá các lĩnh vực quản lý nợ nước ngoài để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước toàn diện trong lĩnh vực này.
2.2.1.3.Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài đã hoàn thiện và từng bước được cải thiện.
Việc xác định Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về tổng thể nợ nước ngoài là một sựchuyển dịch quan trọng để đi tới hoàn thiện hệ thống quản lý nợ quốc gia. Đây cũng là một hướng chuyển đổi chức năng quản lý nợ phù hợp với thực tiễn quốc tế. Việc gắn khâu hoạch định chiến lược, kế hoạch vay vốn nước ngoài với trách nhiệm trả nợ vào một đơn vị là Bộ Tài chính, giúp tăng cường sự điều phối sử dụng vốn vay nước ngoài và các hoạt động giám sát nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
2.2.1.4. Nâng lực cán bộ đang từng bước được nâng cao.
Lực lượng cán bộ quản lý nợ nước ngoài, đặc biệt là các cán bộ Vụ Tài chính Đối ngoại (Bộ Tài chính) cũng đã được đào tạo nâng cao năng lực thông qua các khoá bồi dưỡng, các hoạt động của các dự án xây dựng năng lực quản lý nợ nước ngoài. Nâng lực cán bộ được nâng cao thể hiện rất rõ trong việc ban hành các văn bản pháp quy có chất lượng hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạtđộng của nền kinh tế, tạo thuận lợi cho những đối tượng phải tuân thủ và những người thực thi, giám sát.
2.2.2.Một số tồn tại trong vấn đề nợ nước ngoài hiện nay
2.2.2.1.Tồn tại trong vấn đề vĩ mô
Về mặt kinh tế vĩ mô, nền tài chính chưa hoàn toàn thoát khỏi tình trạng ức chế, thể hiện ở việc tín dụng vẫn chủ yếu “rót” vào các doanh nghiệp nhà nước theo các điều kiện ưu đãi, trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ được tiếp cận một cách hạn chế; lãi suất thực bị giữ ở mức quá thấp. Nền tài khoá thâm hụt thường xuyên và phần nào phụ thuộc vào phần thu từ dầu mỏ. Cơ chế cấp bảo lãnh và cho vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ nói chung vẫn có xu hướng tập trung tín dụng ưu đãi vào các doanh nghiệp nhà nước, trong khi chưa có những dấu hiệu đáng kể cho thấy rằng hiệu quả của các dự án tài trợ đã được thẩm định một cách nghiêm ngặt, với chất lượng cao và do các cơ quan thẩm định. Việc phân bổ các nguồn tín dụng như vậy có khả năng gây tác động cản trở quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Thêm vào đó, việc ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước như vậy vi phạm các quy định của WTO mà nay nước ta đã là thành viên chính thức. Một tác động tiêu cực nữa của chính sách này, đó là hạn chế khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay nước ngoài của các doanh nghiệp tư nhân nói chung, qua đó làm hạn chế tiềm năng phát triển kinh tế đất nước.
2.2.2.2. Tồn tại trong các chính sách về việc quản lý nợ nước ngoài
Mặc dù đã có nhiều biện pháp cải cách và hoàn thiện, song khung thể chế quản lý nợ nước ngoài vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và xây dựng.Hiện nay có quá nhiều quy định, quy chế, thông tư khác nhau quy định các nội dung về quản lý nợ nước ngoài: Luật Ngân sách (2002) có những quy định về quản lý nợ nước ngoài; Quy chế Quản lý vay trả nợ nước ngoài (2005) đưa ra những quy định chi tiết về việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài; Quy chế Xây dựng và Quản lý hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của Quốc gia (2006) đưa ra hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài và quy định trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá nợ nước ngoài ; Quy chế Cấp và Quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài (2006) đưa ra các quy định về cấp bảo lãnh đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước, Thông tư số 94/2004/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc vay và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp… Đây là một bất cập lớn, nó làm khung pháp lý quản lý nợ nước ngoài trở nên rườm rà, khó theo dõi và thực hiện. Tình trạng này làm tăng chi phí của các tổ chức, doanh nghiệp - đối tượng phải tuân thủ, cũng như chi phí của các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, giám sát và tuân thủ.
2.2.2.3. Tồn tại trong việc đánh giá giám sát hiệu quả nợ nước ngoài
Phân công trách nhiệm quản lý nợ còn nhiều điểm bất hợp lý Việt Nam hiện nay do chưa có một cơ quan chuyên biệt về quản lý nợ. Nhiệm vụ quản lý nợ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau tùy theo chuyên môn chức năng của họ như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Quỹ Hỗ trợ Phát triển - nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên sự phân công trách nhiệm còn phân tán và còn nhiều điểm bất hợp lý. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được quy định rõ ràng.
Do đó dẫn đến còn khá nhiều sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của hai bộ kinh tế chủ chốt này, đặc biệt là trong các lĩnh vực lập kế hoạch tập trung, chính sách, thu thập thông tin, giám sát và đánh giá hiệu quả vốn vay nước ngoài. Việc này gây lãng phí nguồn lực không cần thiết và phức tạp trong quản lý nợ.
2.2.2.4. Tồn tại trong việc thống kê đúng và đủ về việc thực hiện nguồn vốn được cấp từ nợ nước ngoài.
Cơ sở dữ liệu về nợ nước ngoài hiện còn đang trong quá trình hình thành. Mặc dù Chính phủ đã có Quy chế về thu thập, tổng hợp, báo cáo và công bố thông tin về nợ nước ngoài (ban hành năm 2006), song việc xây dựng một cơ sở dữ liệu về nợ nước ngoài và quy trình thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và báo cáo còn đòi hỏi thời gian. Để đảm bảo hoàn thành được công tác này, đòi hỏi phải đầu tư nhiều vào việc nâng cao năng lực cán bộ, nguồn lực tổ chức, xây dựng phương tiện và các quy trình thực hiện. Cảnh báo và quản lý rủi ro còn hạn chế: Cũng theo Quy chế Quản lý vay và Trả nợ nước ngoài (2005), NHNN sẽ phải thiết lập được hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh nghiệp. Cho đến nay, quy định này mới chỉ là mong muốn của Chính phủ. Sự cần thiết phải đánh giá rủi ro tự việc vay nợ thương mại sẽ tăng lên nhanh chóng khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu về sự hiện diện của các tổ chức tín dụng quốc tế trên thị trường trong nước.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Yếu tố lịch sử .
Quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường chỉ mới được triển khai ở nước ta từ những năm 1995, khi mà các dự án vay nợ ODA của các ngân hàng đa phương lớn bắt đầu giải ngân đáng kể. Kinh nghiệm và thực tiễn quản lý nợ nước ngoài trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam chưa có nhiều và hệ thống quản lý nợ nước ngoài còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Thêm vào đó, về nhận thức vẫn còn tồn tại cách hiểu chưa đúng thực chất về nợ ODA. Quan niệm ODA như các khoản viện trợ không hoàn lại nên không tính toán kỹ khả năng hoàn vốn, dẫn đến lãng phí và tham nhũng.
2.3.2. Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ .
Cho đến nay, vay nợ thương mại nước ngoài của Việt Nam cũng còn rất ít ỏi, do vậy kinh nghiệm quản lý và kiểm soát nợ thương mại còn khá hạn chế. Nhiều phương pháp phân tích, các chỉ số, các mô hình nợ, quy trình thu thập số liệu và báo cáo, hệ thống tổ chức… đều là mới. Quá trình học hỏi, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm cũng như xây dựng thể chế và cơ chế quản lý đòi hỏi thời gian và kinh nghiệm. Một số biểu hiện kém thích ứng với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong cách thức quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam có thể nói là tất yếu.
2.3.3. Nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý.
Phân tích về tồn tại trong khuôn khổ tổ chức quản lý nợ cho thấy việc phân công trách nhiệm quản lý còn nhiều trùng lặp và mâu thuẫn trong các văn bản pháp quy cũng như trong thực tiễn thực hành các quy định. Nguyên nhân của các sự việc trên là do có nhiều văn bản cùng điều chỉnh một đối tượng quản lý. Một nguyên nhân sâu xa hơn nằm trong phân chia quyền lực của các cơ quan Chính phủ, trong đó có những “tồn tại lịch sử” rất khó thay đổi nếu không có những quyết định chính trị mạnh mẽ ở cấp trên.
2.3.4. Thiếu hụt đối ngũ cán bộ chuyên môn.
Sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ chuyên môn là một trong những nguyên nhân đáng kể dẫn đến những hạn chế của hệ thống quản lý nợ quốc gia. Trước đây ngành giáo dục Việt Nam chưa đào tạo chuyên ngành quản lý nợ nước ngoài và các chuyên ngành tài chính quốc tế dù đã được tổ chức đào tạo nhưng trên thực tế chưa đủ cập nhật về kiến thức và kỹ năng quản lý nợ nước ngoài. Đội ngũ cán bộ của các cơ quan quản lý nợ nước ngoài chủ yếu vừa làm vừa học. Các khoá đào tạo và tập huấn ngắn hạn chủ yếudo các dự án ODA cung cấp, không thể đủ để giúp hình thành một lực lượng chuyên gia đảm bảo thu thập thông tin, phân tích và dự báo cũng như tổ chức các hoạt động nghiệp vụ một cách thích đáng.
2.3.5. Hệ thống và quy trình kiểm định các dự án đầu tư còn yếu kém.
Quản lý nợ nước ngoài bền vững có liên quan rất chặt chẽ với việc thẩm định và đảm bảo hiệu quả đầu tư. Từ phương diện này, những điểm yếu của hệ thống và quy trình thẩm định, quản lý các dự án đầu tư, vốn đã là thực tiễn nhiều năm của nước ta, đã có tác động đến công tác quản lý nợ nước ngoài. Nguồn vốn vay nước ngoài trên thực tế cũng được phân bổ cho các chương trình, dự án ưu tiên nhưnguồn vốn ngân sách. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong dài hạn thì cái gốc vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư công cộng nói chung.
2.3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin còn yếu kém.
Phần mềm quản lý nợ nước ngoài đang sử dụng tại Bộ TC và NHNN chưa được hỗ trợ đầy đủ các ứng dụng như chuẩn tiếng Việt Unicode, chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử… Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở cấp địa phương còn yếu hơn nhiều, yếu cả về trang bị hệ thống máy tính, phần mềm quản lý và năng lực chuyên môn của cán bộ.
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAY
VÀ QUẢN LÝ CÁC KHOẢN VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài.
3.1.1.Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững
Để có thể đảm bảo an toàn tín dụng, nền kinh tế phải có tăng trưởng kinh tế cao để đảm bảo lãi vay nợ không vượt quá khả năng sinh lời của nó. Ở nước ta trong những năm gần đây, mặc dù mức GDP vẫn tăng, nhưng hệ số ICOR lại tăng liên tục cho thấy hiệu quả sử dụng vốn thấp. Để có thể đạt được hệ số ICOR = 4 thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khi vẩn giảm được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư trong đó mức gia tăng của GDP phải nhanh hơn. Hay nói cách khác, ta phải mở rộng quy mô của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Nếu trong giai đoạn 2000 - 2010, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5 - 8%/năm thì đòi hỏi đầu tư/GDP là 30 - 32%. Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn này là 135 - 140 tỷ USD giai đoạn 2000 - 2010 và 250 - 280 tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai giai đoạn trên phải đạt được là 450 - 534 tỷ USD và 782 - 934 tỷ USD. Để đạt được quy mô như vậy, Việt Nam phải nổ lực rất nhiều. Xuất khẩu là nguồn cung duy nhất cho trả nợ vay nước ngoài, vì vậy muốn nâng cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ bên ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải tăng trưởng cao, đa dạng hoá về cơ cấu và chủng loại.
3.1.2.Lựa chọn danh mục vay nợ hợp lý
Nhằm đảm bảo cơ cấu nợ bền vững, cần đánh giá cẩn thận từng món vay mới, đặc biệt quan tâm đến việc duy trì cơ cấu nợ theo thời gian hợp lý.
Nếu không có cơ chế kiểm soát kịp thời và thích hợp thì luồng vốn ngắn hạn này sẽ trở thành một trong những rủi ro trong quản lý nợ tại Việt Nam trong thời gian sắp tới. Để hạn chế tác động tiêu cực của luồng vốn ngắn hạn đối với nền kinh tế và với an ninh tài chính quốc gia, trước hết tự do giao dịch vốn cần:
***Tăng cường kiểm soát các luồng vốn ngắn hạn thông qua yêu cầu báo cáo đầy đủ và kịp thời các giao dịch vốn ngắn hạn.
***Xây dựng và củng cố năng lực phân tích, quản trị vấn đề tài chính của các doanh nghiệp, xây dựng cơ chế pháp lý chặt chẽ.
3.1.3. Gia tăng dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại tệ là phương tiện đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế nhằm thoả mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nợ nước ngoài của Việt Nam thực trạng và các biện pháp đề xuất.doc