Đề tài Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I 2

I. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 2

1. Định nghĩa ngân hàng thương mại 2

2. Đặc trưng và vai trò của ngân hàng thương mại. 2

2.1. Đặc trưng: So với hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng có những điểm khác biệt sau: 2

2.2. Vai trò của hoạt động tín dụng. 3

a. Đối với ngân hàng 3

b. Đối với doanh nghiệp. 3

II. Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng 3

1. Định nghĩa nợ quá hạn 3

2. Phân loại nợ quá hạn 4

3. Các nguyên nhân gây ra nợ quá hạn: 4

a. Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: 4

b. Do khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng kém 4

c. Do khách hàng kém thích nghi với môi trường cạnh tranh 5

d. Do khách hàng cố tình lừa đảo 5

III. ẢNH HƯỞNG CỦA NỢ QUÁ HẠN. 5

1. Đối với hoạt động của ngân hàng. 5

a. Giảm vòng quay vốn của ngân hàng 5

b. Giảm lợi nhuận 5

c. Giảm khả năng thanh toán 5

d. Giảm uy tín 6

e. Phá sản ngân hàng 6

2. Đối với hoạt động của khách hàng 6

a. Tăng chi phí 6

b. Giảm uy tín của khách hàng trên thị trường và với ngân hàng 6

3. Đối với nền kinh tế. 6

PHẦN II. 8

2.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ 15

a. Thành lập Công ty mua bán nợ 15

b. Điều chỉnh thời hiệu khởi kiện vi phạm hợp đồng tín dụng 16

c. Sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng về xử lý tài sản thế chấp 16

d. Chính phủ nên cung cấp thông tin về thị trường cho doanh nghiệp và ngân hàng 17

e. Chính phủ cần hoạch định các chính sách phát triển kinh tế hợp lý và ổn định: 19

f. Về sử dụng quỹ dự phòng rủi ro 20

2.2. Một số kiến nghị khác. 21

Tài liệu tham khảo 24

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h toán đúng hạn sẽ dẫn đến sự không ăn khớp (hay tạo ra khoảng trống) giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào của ngân hàng. Lúc này ngân hàng buộc phải đi vay, bán các tài sản của mình để xoá bỏ khoảng trống đó. Trong điều kiện như vậy ngân hàng bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá lợi nhuận. Nếu gặp khó khăn trong quá trình đó thì khả năng thanh toán các khoản tiền gửi tại ngân hàng bị suy yếu và hạn chế. d. Giảm uy tín Tỷ lệ nợ quá hạn cao cho thấy tình trạng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả của ngân hàng và uy tín của ngân hàng bị đe doạ. Hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường sẽ yếu đi, ngân hàng gặp phải khó khăn trong việc huy động tiền gửi của dân cư và thiết lập giao dịch với các doanh nghiệp, ngân hàng khác. Việc khôi phục uy tín lại là rất khó khăn. e. Phá sản ngân hàng Với các khoản nợ quá hạn lớn, đặc biệt là các khoản mất vốn lớn, quỹ phòng ngừa rủi ro của ngân hàng không đủ bù đắp thì ngân hàng phải lấy vốn chủ sở hữu ra để bù đắp. Từ đó rủi ro phá sản là rất lớn. 2. Đối với hoạt động của khách hàng a. Tăng chi phí Khi doanh nghiệp để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn hơn lãi suất trong hạn thì chi phí của họ tăng lên. Tình hình tài chính của họ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Nguy cơ không có đủ tiền để trả nợ cho ngân hàng là không thể tránh khỏi. b. Giảm uy tín của khách hàng trên thị trường và với ngân hàng Khách hàng để phát sinh nợ quá hạn là dấu hiệu nói lên sự hoạt động kém hiệu quả của khách hàng và uy tín của khách hàng sẽ bị giảm sút. Từ đó dẫn đến việc họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi muốn tiếp tục vay vốn tại ngân hàng đó. Mặt khác, do hệ thống thông tin về khách hàng giữa các ngân hàng nên họ cũng sẽ khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng từ các ngân hàng khác. Đồng thời các bạn hàng của doanh nghiệp cũng sẽ do dự khi thiết lập quan hệ kinh tế với doanh nghiệp. 3. Đối với nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng - tài chính là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và chứa đựng nhiều rủi ro. Chỉ cần một tổn thương nhỏ cũng có thể gây nên những xáo động lớn trong quá trình điều hành nền kinh tế. Khi một ngân hàng bị thua lỗ, phá sản sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các thành viên trong xã hội. Tâm lý hoang mang mất tin tưởng vào hệ thống ngân hàng sẽ lan truyền nhanh chóng và làm nhiều người gửi tiền kéo đến các ngân hàng khác rút tiền. Điều này khiến hàng loạt ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn. Trong trường hợp xấu nhất có thể là sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác. Hậu quả của nó là sự khủng hoảng xã hội, kinh tế và chính trị. Dân chúng sẽ không còn tin tưởng vào ngân hàng trong nhiều năm. Dù sau đó khi hệ thống ngân hàng hồi phục thì cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn cho phát triển kinh tế xã hội. Để khôi phục niềm tin của dân chúng không phải là một sớm, một chiều. Phần II. Các biện pháp xử lý nợ quá hạn và một số kiến nghị. 1.Các biện pháp xử lý nợ quá hạn. Tuỳ theo mức độ khác nhau của nợ quá hạn mà ngân hàng thương mại có những cách xử lý khác nhau, ở đây chỉ đề cập đến xử lý nợ khó đòi và mất vốn. Để tiến hành xử lý các khoản nợ khó đòi các ngân hàng có thể tiến hành một số biện pháp sau tuỳ thuộc vào từng loại nợ khó đòi phát sinh. a. Bán nợ Đây là một biện pháp được áp dụng khá nhiều ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Các khoản nợ quá hạn sẽ được ngân hàng chào bán. Tất nhiên việc chào bán chủ yếu là các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi thấp. Ngân hàng không có đủ khả năng để tiếp tục theo dõi và thu nợ. Việc bán nợ sẽ giúp ngân hàng thu hồi được vốn trong thời gian ngắn mặc dù số nợ thu được sẽ giảm đi. Đó là cái giá của việc chuyển nhượng rủi ro sang đối tượng khác. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể bán các khoản nợ khác khi có nhu cầu cần thiết về tiền mặt. b. Thanh lý Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng mà hai bên đã thoả thuận, áp dụng và sử dụng tất cả các biện pháp pháp lý để thu nợ. Việc thanh lý có thể được tiến hành bằng một số biện pháp sau: + Ngân hàng cố gắng thuyết phục khách hàng tự bán tài sản thế chấp, cầm cố của mình. Việc các khách hàng tự nguyện bán tài sản thế chấp thường được giá cao hơn là bị buộc phải phát mại. Khi đó khách hàng cũng đỡ bị mất uy tín của mình trên thương trường, và ngân hàng cũng tránh được các chi phí và thủ tục pháp lý gắn liền với việc sở hữu và phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Trong số các biện pháp thanh lý thì việc khách hàng tự bán tài sản thế chấp, cầm cố có lẽ là có lợi nhất đối với cả khách hàng và ngân hàng. + Gán nợ cho ngân hàng và ngân hàng tự bán tài sản thế chấp để thu nợ theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Hướng giải quyết này là không mấy dễ dàng vì đây không phải là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường mua lại tài sản thế chấp đó để làm văn phòng làm việc, trụ sở giao dịch, cho thuê, góp vốn liên doanh, liên kết. + Ngân hàng đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế chấp, cầm cố. Trong trường hợp tài sản thế chấp bán đi không đủ để bù đắp nợ thì ngân hàng có thể nhận pháp quyết của toà án về phần chênh lệch chẳng hạn ngân hàng được phép thu thêm nếu người vay còn có các tài sản khác. Ngân hàng chỉ hạch toán giảm nợ cho bên vay sau khi đã xử lý xong tài sản thế chấp, cầm cố và thực sự thu được tiền hoặc sau khi đã làm thủ tục sang tên trước bạ cho ngân hàng nếu ngân hàng nhận gán nợ. Tiền thu được từ bán tài sản thế chấp, cầm cố sau khi trừ các chi phí xử lý tài sản ưu tiên toàn bộ để trả nợ ngân hàng theo thứ tự trả nợ gốc trước. Nếu tiền thu được từ việc bán tài sản dùng để thanh toán nợ còn thiếu thì phải tiếp tục theo dõi để tiếp tục xử lý thu hồi nợ. c. Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Trong trường hợp doanh nghiệp có phát sinh các khoản nợ khó đòi, ngân hàng đã tiến hành mọi biện pháp để thu hồi nợ mà doanh nghiệp vẫn không có khả năng thanh toán các khoản nợ đối với ngân hàng thì ngân hàng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Ngân hàng sau khi bán tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp mà không thu được đủ tiền đã cho vay sẽ trở thành chủ nợ không có bảo đảm và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu nốt phần nợ còn lại. d. Trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro Hoạt động kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất. Do đó việc trích lập và sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro nhằm bảo vệ người gửi tiền, giúp ngân hàng bảo toàn vốn kinh doanh, tạo nền tảng vững mạnh cho ngân hàng trong hoạt động của mình. Do có khoản mất vốn nên ngân hàng phải tìm kiếm nguồn bù đắp. Nguồn này được tập hợp vào quỹ phòng ngừa rủi ro. Mục đích sử dụng Quỹ dự phòng rủi ro là bù đắp các rủi ro trong kinh doanh tiền tệ. Quy mô của Quỹ phòng ngừa rủi ro được quyết định bởi mức rủi ro của các khoản nợ và khả năng quản lý rủi ro của Ban giám đốc ngân hàng Theo thông lệ, đây là một khoản được tính trong chi phí hoạt động hàng năm của ngân hàng. Cơ sở để xác định là tỷ lệ % các khoản tín dụng bị mất (không thu hồi được) so với tổng các khoản cho vay của năm trước. Tỷ lệ đó được dùng để trích cho năm hiện tại. Nếu cuối năm số tiền cho vay bị mất nhỏ hơn phần đã trích thì phần không sử dụng tạo thành nguồn vốn của ngân hàng. Nếu khoản tín dụng bị mất lớn hơn phần đã trích dự phòng thì phần thiếu hụt sẽ được lấy từ nguồn vốn của ngân hàng. Giải pháp này nhằm đảm bảo nguyên tắc: ngân hàng phải chịu những rủi ro trong kinh doanh, ngân hàng không được phép lấy nguồn tiền gửi của khách hàng để bù đắp tổn thất. Điều này giúp tình hình tài chính của ngân hàng được lành mạnh hơn đồng thời ngân hàng phải thận trọng trong khi cấp tín dụng. Sau khi xác định khoản nợ là mất vốn ngân hàng tiến hành xoá nợ bằng cách đưa khoản nợ đó ra khỏi dư nợ cho vay đồng thời ghi giảm Quỹ phòng ngừa rủi ro. Như vậy sẽ đưa dư nợ về tình trạng thực tế, tài sản và nguồn vốn của ngân hàng bị giảm xuống. Sau khi loại bỏ các khoản mất vốn ra khỏi tài sản, ngân hàng phải tiếp tục theo dõi ở phần ngoại bảng. Nếu sau này thu hồi lại được khoản nợ đã mất thì phần thu này được tính là thu nhập bất thường của ngân hàng. Theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam, tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động. Bên cạnh các biện pháp tự xử lý nợ quá hạn, các ngân hàng thương mại cũng có thể chịu sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Về nguyên tắc, ngân hàng hoạt động theo cơ chế hạch toán kinh tế lời ăn lỗ chịu, tuy nhiên do tầm quan trọng của việc ổn định tiền tệ cho sự phát triển kinh tế, xã hội nên khi nợ quá hạn vượt qua một giới hạn hợp lý thì việc xử lý nợ quá hạn cũng là một trọng trách của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Một số biện pháp xử lý của cơ quan Nhà nước: a. Kiểm soát đặc biệt ngân hàng Ngân hàng Nhà nước áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với một ngân hàng khi nó có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng này là các khoản cho vay không có khả năng thu hồi lớn hay tỷ lệ nợ quá hạn quá cao. Lúc này Ban lãnh đạo ngân hàng phải xây dựng phương án củng cố tổ chức và hoạt động, triển khai các giải pháp được nêu trong phương án củng cố đã được Ban kiểm soát đặc biệt thông qua. Mọi hoạt động của ngân hàng đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát đặc biệt. Khi bị kiểm soát đặc biệt, Ban lãnh đạo ngân hàng và Ban kiểm soát đặc biệt sẽ phải thực hiện các biện pháp hữu hiệu để thu hồi nợ quá hạn. Trong trường hợ cấp bách, Ngân hàng Nhà nước có thể cho ngân hàng vay để đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì sự tồn tại của ngân hàng. Vì vậy, sau thời gian kiểm soát đặc biệt nếu hoạt động của ngân hàng trở lại bình thường thì tất yếu số dư nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống một cách nhanh chóng. b. Buộc ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các ngân hàng tăng vốn tự có của mình bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, đề nghị các cổ đông đóng góp thêm vốn, cắt giảm tỷ lệ chia cổ tức để tăng phần lợi nhuận để lại. Tăng vốn tự có sẽ giảm được tỷ lệ nợ quá hạn/vốn tự có. Nếu tỷ lệ này thấp sẽ chứng tỏ hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả. Vốn của sở hữu của ngân hàng được coi là một cái đệm phòng ngừa sự sụt giảm giá trị của tài sản. Nếu không có cái đệm ấy thì ngân hàng có thể vỡ nợ và không thể kinh doanh được nữa. Một ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn sẽ làm yên lòng những khách hàng vay tiền và những người gửi tiền rằng nó khó có thể vỡ nợ. Ngân hàng sẽ thu được nhiều tiền gửi của dân cư hơn và thực hiện được nhiều món cho vay hơn. Điều này gián tiếp làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng xuống sau một thời gian. Hơn nữa, với vốn chủ sở hữu lớn, ngân hàng sẽ có nhiều tiền để trả người mất nếu để xẩy ra phá sản. Như vậy, vô hình chung ngân hàng này có ý muốn thực hiện những hoạt động thích hợp để bảo đảm rằng nó làm ăn có lợi nhuận, an toàn và thanh toán đủ cho những ai cung cấp vốn cho nó. c. Thành lập công ty mua bán nợ hay công ty quản lý tài sản (AMC - Asset Manegement Company) Sự chuyển các khoản nợ khó đòi từ bảng cân đối tài sản của ngân hàng sang các cơ quan chuyên trách là một cách hiệu quả để giải quyết vấn đề nợ khó đòi của ngân hàng. Loại bỏ được các khoản nợ này, ngân hàng có thể tập trung vào hoạt động kinh doanh của mình. AMC nhằm giúp đỡ các ngân hàng quản lý các khoản nợ có vấn đề, giúp đỡ một số khu vực tư nhân được lựa chọn trong việc quản lý tài sản. AMC mua lại một phần hoặc toàn bộ các khoản nợ khó đòi nhằm giúp các tổ chức tài chính lành mạnh hoá tình hình tài chính bằng cách cung cấp các dịch vụ: chuyển tài sản có vấn đề từ các ngân hàng thương mại ra trao đổi, xem xét; tài trợ và xử lý nợ hoặc các tài sản có vấn đề; quản lý các khoản nợ có vấn đề bằng cách cơ cấu hay khôi phục lại, quản lý các tài sản thế chấp. AMC thường là thuộc sở hữu của Chính phủ và do Chính phủ tài trợ, tuy vậy cũng có thể có vốn tư nhân trong đó. AMC thường có thời gian tồn tại giới hạn, sau đó nó được thanh lý để trả tiền lại cho các nhà đầu tư ban đầu và các nhà đầu tư tiếp theo. Các hoạt động chủ yếu của AMC: mua tài sản, cơ cấu lại tài sản (khôi phục lại), bán hoặc xử lý tài sản. AMC mua nợ từ các tổ chức tài chính. Mọi tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố ...) gắn liền với khoản nợ cũng được chuyển giao cho AMC. Tổng giá trị và thời hạn khoản vay của con nợ sẽ không thay đổi, chỉ có chủ nợ của họ là thay đổi. AMC sau khi đã mua khoản nợ, sẽ tìm cách thương lượng với con nợ nhằm tối đa hoá khả năng thu hồi nợ. AMC có thể chọn một số chiến lược: - Bán ngay lập tức một phần hoặc toàn bộ khoản vay cho một bên thứ ba. - Cho con nợ thêm thời hạn đủ để bù đắp được khoản vay. - Cung cấp nguồn tài chính bổ sung cho con nợ để tăng khả năng kinh doanh và phát triển của họ. - Cơ cấu lại phương thức trả nợ gốc hoặc lãi phù hợp với luồng tiền dự kiến. - Giảm nợ cho con nợ khi họ đưa ra các tài sản bổ sung có thể xem xét. - Sử dụng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh, liên kết; cho thuê, sửa chữa, đầu tư làm tăng giá trị tài sản trước khi bán. - Chuyển nợ thành vốn cổ phần để tham gia vào công việc điều hành các doanh nghiệp nhằm làm cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả và có khả năng trả nợ. Mục tiêu cao nhất của AMC là tối đa hoá số tiền thu được từ xử lý nợ khó đòi. c. Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cơ cấu lại và cấp thêm vốn cho ngân hàng. Trên phương diện quản lý Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước phải là cơ quan nhà nước đầu tiên có trách nhiệm xử lý các khoản nợ quá hạn khi vượt quá mức giới hạn hợp lý bởi Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Việc xử lý nợ quá hạn của ngân hàng Nhà nước thường được tiến hành thông qua việc cơ cấu và tái cấp vốn cho ngân hàng dưới dạng mua lại các tài sản có vấn đề. Ngân hàng Nhà nước mua lại các tài sản có vấn đề không thể đáp ứng nhu cầu xoá nợ khó đòi của ngân hàng. Việc này sẽ góp phần làm tăng mức cung tiền vào nền kinh tế và sẽ gây ra lạm phát. Nên phương thức này thường chỉ áp dụng trong trường hợp nền kinh tế ổn định, tình hình tài chính của Ngân hàng Nhà nước lành mạnh, việc mở rộng tiền tệ không dẫn tới những ảnh hưởng tiêu cực quá lớn đối với nền kinh tế. Ngoài ra, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu vay nợ trong nước và cấp lại cho các ngân hàng để xoá hoặc mua lại các khoản nợ khó đòi. Bằng nguồn vốn này, vốn hoạt động của ngân hàng được tái tạo bởi chính lượng tiền thu về từ lưu thông nên không gây ra lạm phát. Nhà nước có thể giảm thuế cho ngân hàng trong một thời gian để giúp ngân hàng phục hồi về năng lực tài chính, tập trung giải quyết các khoản nợ khó đòi. Chi phí này là khá lớn nhưng đó là cái giá để thiết lập hệ thống ngân hàng vững chắc, lành mạnh và chắc rằng chi phí này nhỏ hơn cái giá phải trả khi tổn thất xẩy ra. d. Sáp nhập ngân hàng yếu vào các ngân hàng mạnh, cho phá sản ngân hàng Các ngân hàng nhỏ thường có nguồn vốn thấp, năng lực quản lý cũng như khả năng thẩm định các dự án cho vay còn hạn chế nên thường gây ra các khoản nợ khó đòi. Việc sáp nhập các ngân hàng nhỏ yếu vào các ngân hàng lớn trước hết làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn taị ngân hàng. Sau đó với nguồn vốn lớn, năng lực quản lý, kinh nghiệm và uy tín của mình ngân hàng sẽ có điều kiện áp dụng nhiều biện pháp xử lý và phòng ngừa nợ khó đòi. Sự hình thành ngân hàng lớn sẽ hạn chế rủi ro hệ thống. Sáp nhập ngân hàng nhằm tạo ra những ngân hàng lớn với số vốn điều lệ lớn hơn, mạng lưới rộng hơn, có sức cạnh tranh hơn, làm lành mạnh tình hình tài chính của ngân hàng. Các ngân hàng có quy mô lớn có khả năng chống đỡ rủi ro lớn hơn, xác suất gặp rủi ro ít hơn. Đối với một số ngân hàng mà sau khi áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt ngân hàng Nhà nước cho phép phá sản ngân hàng đồng thời thực hiện một số biện pháp hạn chế rủi ro hệ thống. Việc lựa chọn biện pháp nào để xử lý những khoản nợ quá hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sự thành thật của người vay, thái độ của họ đối với khoản nợ và ý muốn trả nợ là các yếu tố quan trọng nhất. Nếu người vay không thật thà, có bằng chứng về sự lừa đảo hoặc không có ý thức trả nợ thì ngân hàng tiến hành thu nợ bằng bất cứ giá nào. Tuy nhiên nếu người vay có khó khăn về tài chính nhưng có ý thức trả nợ thì ngân hàng có những biện pháp mềm dẻo để thu hồi nợ. Điều quan trọng trong việc xử lý nợ quá hạn là tạo không khí tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và người vay để khách hàng có thiện ý trả nợ và sẵn sàng cùng hợp tác với ngân hàng để tìm ra các biện pháp từng bước khắc phục khó khăn và ngân hàng vẫn thu được nợ. Như vậy việc xử lý nợ quá hạn là một quá trình vừa mang tính khoa học vừa mang khá nhiều tính nghệ thuật. 2. Một số kiến nghị. 2.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ a. Thành lập Công ty mua bán nợ Quy chế mua bán nợ đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 104/1999/QĐ - NHNN 14, ngày 19/04/1999. Nhưng đến nay vẫn chưa thể áp dụng được, trong khi đó các ngân hàng đang có nhu cầu giải quyết vấn đề này một cách bức bách. Do vậy sớm hình thành công ty mua bán nợ là một đòi hỏi cấp thiết. Công ty mua bán nợ có đủ nănglực pháp lý và tài chính để xử lý dứt điểm nợ quá hạn, nợ khó đòi của các ngân hàng thương mại, từng bước lành mạnh hoá hệ thống tài chính ngân hàng. Nhờ công ty này mà các ngân hàng có thể thu hồi nợ cũ, giảm nợ quá hạn xuống giới hạn cho phép, phần vốn bị đọng trong tài sản thế chấp, cầm cố được giải phóng. Công ty này có mục tiêu là giải phóng vốn tồn đọng nằm trong các khoản nợ khó đòi và các tài sản thế chấp, cầm cố tại các ngân hàng. Sau đó công ty này tiến hành các biện pháp khác nhau để có thể thu hồi được nợ. Để đảm bảo cho Công ty hoạt động có hiệu quả, thông suốt, Chính phủ cùng Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với nhau để đưa ra một Nghị định về tổ chức, hoạt động mua và bán nợ của nó. Trong Nghị định này cần phải làm rõ một số vấn đề sau: * Xác định được nguyên tắc xác định giá mua bán các khoản nợ. Công ty có thể phải chấp nhận chịu thiệt khi mua các khoản nợ khó đòi. Nếu giá mua chỉ căn cứ vào thoả thuận giữa ngân hàng và tổ chức này thì rất khó có thể giải quyết được phần lớn các khoản nợ khó đòi do Ngân hàng muốn bán với giá cao còn tổ chức muốn mua với giá thấp. Giá mua các khoản nợ phải phản ánh được những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu để tránh tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào công ty và ít chú ý đến hiệu quả của khoản cho vay mới. * Việc nguyên tắc hạch toán của Công ty là cân bằng thu chi, không quá coi trọng mục tiêu lợi nhuận dẫn đến hoạt động không tiến triển mà cũng không quá coi trọng nguyên tắc chấp nhận lỗ vì Chính phủ sẽ phải bù lỗ quá nhiều. Với nguyên tắc này thì cả ngân hàng và Chính phủ đều gánh chịu rủi ro tín dụng. Trong những năm đầu Công ty chấp nhận bị thua lỗ nhiều vì tiền thu được từ các khoản nợ là rất ít trong khi vẫn mua nợ. Vì tính chất hoạt động của Công ty là mua lại nợ không phải để báo ngay mà còn áp dụng các biện pháp khai thác có thể được nên sau nhiều năm mới có nguồn thu. * Về cơ cấu tổ chức: Các món nợ được mua bán có liên quan tới tất cả các lĩnh vực, các địa phương. Để thu được tiền từ các khoản nợ mua được, công ty này phải có sự tham gia của các cán bộ thuộc các chuyên ngành có liên quan, có đại diện ở các địa phương hoặc liên kết chặt chẽ với các chính quyền địa phương. Để có thể xử lý được các khoản nợ đã mua, Công ty không thể giải quyết được nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác đồng bộ giữa các cơ quan, các ngành từ trung ương tới địa phương. Công ty cần được trao một số đặc quyền, ưu đãi khi xử lý nợ như không phải đóng thuế khi bán các tài sản, giảm thiểu các thủ tục pháp lý. b. Điều chỉnh thời hiệu khởi kiện vi phạm hợp đồng tín dụng Theo quy định tại điều 31 khoản 1 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Trong các quan hệ tín dụng, khi đã hết thời gian vay vốn khách hàng chưa trả được nợ thì thường ngân hàng không khởi kiện ngay mà tìm mọi cách thu nợ đến khi có đủ căn cứ để xác định là khách hàng không có khả năng trả nợ. Khoảng thời gian này thường kéo dài ít nhất là 6 tháng. Lúc này ngân hàng mới khởi kiện ra toà án kinh tế thì đã quá thời hiệu khởi kiện và bị Toà án bacs đơn. Vì vậy đối với các quan hệ tín dụng cần xác định lại thời điểm phát sinh tranh chấp là thời điểm mà ngân hàng xác định là khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc thời hiệu khởi kiện vụ án nên kéo dài tới 12 tháng. c. Sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng về xử lý tài sản thế chấp Nghị định số 178/1999/NĐ - CP có những quy định về xử lý tài sản bảo đảm rất mới và rất thiết thực đối với các ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý cho ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo. Khi nợ đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với ngân hàng thì tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý để thu hồi nợ. Trước tiên, tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp các bên không xử lý được tài sản bảo đảm tiền vay theo các phương thức đã thoả thuận, thì ngân hàng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ hoặc chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Nếu tài sản bảo đảm tiền vay không xử lý được do không thoả thuận được giá bán thì ngân hàng có quyền quyết định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ đi chi phí xử lý, thì ngân hàng thu nợ theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác (nếu có). Trong thực tế, việc ngân hàng lấy được tài sản thế chấp để bán thu hồi nợ gặp không ít khó khăn và trở ngại. Vì vậy việc ngân hàng thực hiện quyền phát mại tài sản bảo đảm theo Nghị định 178 cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thực tiễn hiện nay, việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố không chỉ liên quan đến các ngân hàng thương mại và khách hàng mà còn liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp và chưa có một văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm quyền hạn và khâu nối trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các bên liên quan về vấn đề này. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là cần có Thông tư liên bộ: Ngân hàng Nhà nước - Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao - Bộ Công an - Tổng cục Địa chính hướng dẫn và thống nhất các biện pháp giải quyết, xử lý tài sản thế chấp. Chính phủ cần yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền của mình để ngân hàng, các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện. Cần có những quy định về xét xử vắng mặt vì nếu không sẽ rất khó cho ngân hàng khi phát mại tài sản thế chấp, ngân hàng hoàn toàn được quyền bán tài sản đó mà không cần hỏi ý kiến khách hàng, đồng thời bản hợp đồng tín dụng được coi là căn cứ pháp lý để bắt buộc, cưỡng chế người vay phải hợp tác với ngân hàng trong việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản. d. Chính phủ nên cung cấp thông tin về thị trường cho doanh nghiệp và ngân hàng Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một kênh thông tin giúp các ngân hàng đối phí với vấn đền thông tin không cân xứng, từ đó góp phần vào việc ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. CIC có nhiệm vụ thu thập thông tin về doanh nghiệp, các thông tin khác có liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng từ các tổ chức tín dụng, các cơ quan hữu quan, các cơ quan thông tin trong và ngoài nước, các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước của ngành. Trên cơ sở đó cung cấp thông tin đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên thông tin tín dụng mà trung tâm cung cấp trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng, thiếu tin cậy. Đó là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của hệ ngân hàng thương mại Việt Nam. Chính vì vậy, CIC cần nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho ngân hàng. CIC cần phối hợp và thu thập thông tin từ các tổ chức ngân hàng, từ các trung tâm thông tin của các Bộ, ngành, từ các cơ quan Nhà nước quản lý doanh nghiệp, từ doanh nghiệp, tiếp cận với các nguồn thông tin nước ngoài (sách, báo, tạp chí, cơ quan chuyên cung cấp thông tin quốc tế, các tổ chức nước ngoài ...) CIC cần thu thập các thông tin về toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (kể cả doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng tại các ngân hàng), về các cá nhân kinh doanh có quan hệ tín dụng (về hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, thị trường và sản phẩm của họ). Trên cơ sở các thông tin thu thập được, CIC cần sắp xếp, phân loại các thông tin để có thể cung cấp cho các ngân hàng một cách chính xác nhất, nhanh nhất. Các ngân hàng cũng cần được cung cấp các thông tin dự báo vĩ mô dài hạn về định hướng phát triển kinh tế theo ngành, vùng một cách đầy đủ và kịp thời. Ngược lại, các ngân hàng thành viên cần thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia cung cấp và khai thác thông tin từ CIC. Ngân hàng cung cấp đầy đủ số liệu về số dư tiền gửi, tiền vay của khách hàng và sự biến động của chúng, cung cấp hồ sơ kinh tế của khách hàng cho CIC. N

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0981.doc
Tài liệu liên quan