MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Đặt vấn đề
II. Giải quyết vấn đề
1. Đôi nét về LLSX và QHSX
1.1. LLSX
1.1.1. LLSX là gì?
1.1.2. Quá trình phát triển LLSX trong lịch sử xã hội loài người.
1.1.3. Thực trạng LLSX ở nước ta hiện nay
1.2. QHSX.
1.2.1. QHSX là gì?
1.2.2. Sự thay đổi QHSX trong quá trình chuyển biến hình thái kinh tế xã hội .
2. Qui luật QHSX phù hợp với tính chất,trình độ phát triển của LLSX
2.1. QHSX và LLSX mâu thuẫn hay phù hợp.
2.2. Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX .
2.2.1. LLSX quyết định QHSX.
2.2.2. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
3. Sự nhận thức và vận dụng qui luật của Đảng ta trong đường lối đổi mới giai
đoạn hiện nay
3.1 Quá trình nhận thức qui luật của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
3.2 Sự vận dụng qui luật của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5804 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nội dung qui luật QHSX phù hợp với tính chất, trình độ của LLSX và những nhận thức và vận dụng qui luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề
II. Giải quyết vấn đề
1. Đôi nét về LLSX và QHSX
1.1. LLSX
1.1.1. LLSX là gì?
1.1.2. Quá trình phát triển LLSX trong lịch sử xã hội loài người.
1.1.3. Thực trạng LLSX ở nước ta hiện nay
1.2. QHSX.
1.2.1. QHSX là gì?
1.2.2. Sự thay đổi QHSX trong quá trình chuyển biến hình thái kinh tế xã hội .
2. Qui luật QHSX phù hợp với tính chất,trình độ phát triển của LLSX
2.1. QHSX và LLSX mâu thuẫn hay phù hợp.
2.2. Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX .
2.2.1. LLSX quyết định QHSX.
2.2.2. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
3. Sự nhận thức và vận dụng qui luật của Đảng ta trong đường lối đổi mới giai
đoạn hiện nay
3.1 Quá trình nhận thức qui luật của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
3.2 Sự vận dụng qui luật của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
C. Kết luận
D. Danh mục các tài liệu tham khảo
B. nội dung
I. Đặt vấn đề
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về PTSX bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới. PTSX là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định và QHSX tương ứng. Đó cũng chính là quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân PTSX. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của PTSX và kéo theo sự thay đổi cua toàn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một QHSX có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân. Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của Đảng và nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
II. Giải quyết vấn đề
1. Đôi nét về LLSX và QHSX
1.1. Lực lượng sản xuất
1.1.1. Lực lượng sản xuất là gì?
LLSX là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh nghiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Từ thực trạng đó,lý luận về LLSX của xã hội được C.Mác nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản", Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành LLSX của xã hội, trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với Mác tư liệu lao động cũng thuộc về tư liệu sản xuất, còn trong tư liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động và đối tượng lao động như công cụ lao động, nhà xưởng, phương tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất, linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất thì phải dựa vào công cụ lao động. Muốn đánh giá sự phát triển của một xã hội người ta nhìn vào hệ thống công cụ lao động như máy móc, phương tiện...
Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong LLSX chính là con người,cho dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến đâu và đối tượng lao động có phong phú như thế nào thì con người vẫn là bậc nhất.
1.1.2 Quá trình phát triển LLSX trong lịch sử xã hội loài người
Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển biến từ vượn thành người : Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên ;từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển LLSX trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của mình.
1.1.3 Thực trạng LLSX ở nước ta hiện nay
Ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những LLSX vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất”.
Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật,đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có,mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng LLSX của ta đang ứng với cả ba giai đoạn phát triển của LLSX trong nền văn minh loài người. Thực tế hiện nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động nặng đang chiếm tỉ lệ cao. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành LLSX.
Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự động hoá, sử dụng thành thạo máy móc vi tính,vv..Đó là cách tốt nhất để đưa nước ta ra khỏi lạc hậu nghèo nàn.
1.2.Quan hệ sản xuất :
1.2.1.Quan hệ sản xuất là gì?
QHSX là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong quá trình sản xuất con người phải có những mối quan hệ, con người không thể tách khỏi cộng đồng. Như vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính qui luật rồi. Nhìn tổng thể thì QHSX gồm ba mặt:
- Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.
- Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi cho người lao động,đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong cải tạo và củng cố QHSX, vấn đề quan trọng mà đại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối,không nên coi trọng một mặt nào cả.Về mặt lý luận,chúng ta không nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất . Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các QHSX khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử , như Mác đã nói.
1.2.2. Sự thay đổi QHSX trong quá trình chuyển biến hình thái kinh tế xã hội
Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho LLSX có điều kiện tiếp tục phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người được cải thiện. Đó là tính lịch sử tự nhiên của các quá trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế - xã hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Và xét riêng trong phạm vi một QHSX nhất định thì tính chất của sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định, QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các QHSX khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ kinh tế - xã hội mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế - xã hội nào đã tồn tại kể từ trước đến nay là chuẩn nhất. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội cùng với một thống trị, điển hình còn tồn tại những QHSX phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ có một QHSX tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều bắt nguồn từ phát triển không đều về LLSX không những giữa các nước khác nhau mà còn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc chuyển từ QHSX lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét: "Không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi..." phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều kiện vật chất trên.
2. Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
2.1.QHSXvà LLSX mâu thuẫn hay phù hợp.
Trong tác phẩm:”Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị” (năm 1859), C.Mác đã viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những QHSX. Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của LLSX. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ..." Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX".
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng QHSX và dạng những LLSX từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp?Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết chúng ta cần xác định khái niệm phù hợp với các câu hỏi sau:
-Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất hay "sự yên tĩnh" giữa các mặt đối lập?
-Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới?
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Mâu thuẫn đôi khi là động lực của sự phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động,tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn sự không cân bằng giữa chúng mới là tuyệt đối. Chúng ta chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của LLSX và QHSX.
Quá trình vận động và phát triển của SX là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa LLSX với QHSX là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thể thủ tiêu được, đó là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động, sự mâu thuẫn là vĩnh viễn.Chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển ,mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế.
2.2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Tất cả chúng ta đều biết, QHSX và LLSX là hai mặt hợp thành của PTSX có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy QHSX lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng XHCN. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh CNXH thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của QHSX đối với sự phát triển của LLSX. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra QHSX mới để mở đường cho sự phát triển của LLSX ".
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiện, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của QHSX mà mình muốn có. Ngược lại QHSX luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của LLSX , bởi tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. QHSX chỉ có thể mở đường cho LLSX phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó,nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX.
LLSX quyết định sự hình thành biến đổi của QHSX,LLSX là cái biến đổi đầu tiên
và luôn biến đổi trong sản xuất.Con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc, tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động,chế tạo ra công cụ lao động mới.
2.2.2. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX.
QHSX khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với LLSX,trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với LLSX. QHSX thường lạc hậu so với LLSX và nếu QHSX phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của LLSX thì nó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Nếu lạc hậu so với LLSXdù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của LLSX. Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX vì nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó, nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động, tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
3. Sự nhận thức và vận dụng qui luật của đảng ta trong đường lối đổi mới giai đoạn hiện nay
3.1. Quá trình nhận thức qui luật của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước
Ở nước ta trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một QHSX cao hơn, đi trước để mở đường cho LLSX phát triển. Song kết quả lại diễn ra trái với mong muốn của chúng ta. Đó là LLSX không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, hàng hóa sản xuất ra kém chất lượng, giá thành cao không thể cạnh tranh với hàng nhập ngoại, lại khan hiếm không đủ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng ,khiến cho đời sống nhân dân rất khó khăn.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ quan một QHSX không phù hợp vớiLLSX. Trong điều kiện LLSX còn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng vì muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã nhấn mạnh quá mức quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi. Từ đó đã dẫn đến việc mở rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc xóa bỏ để chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì quá lâu cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình quân, lợi ích cá nhân chưa được quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng. Động lực sản xuất bị giảm, người lao động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế hoạch của tập thể và Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta gần 40 năm qua đã chứng minh rằng : QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX không chỉ khi nó trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với LLSX, một lần nữa quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX lại thể hiện rõ tính tất yếu và tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ.
3.2. Sự vận dụng qui luật của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng lối, chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TƯ của ban bí thư ngày 13- 1- 1981 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao động hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta
đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện từng bước. Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc như vậy chính là nhờ chúng ta đã đổi mới từng bước QHSX cho phù hợp với sự phát triển của LLSX, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai thác được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho LLSX nước ta có những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng LLSX có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta, bởi vì:
Thứ nhất: nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp, đang ở trạng thái đan xen nhiều loại hình và thành phần kinh tế ở những trình độ rất khác nhau như phân tán và tập trung, thủ công và hiện đại, lạc hậu và tiên tiến... Trong tình hình đó, nếu không kiến tạo được những hình thức QHSX đa dạng thích ứng với trình độ của LLSX ở tất cả các thành phần kinh tế hiện có, chúng ta sẽ không thể khai thác được tiềm năng to lớn của những thành phần kinh tế đó. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại lâu dài và thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là giải pháp quan trọng nhất để giải phóng và phát triển LLSX ở nước ta.
Thứ hai: khi LLSX được giải phóng sẽ tạo ra động lực để khai thác và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn lực hiện có như nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và trí tuệ con người.
Thứ ba: chỉ khi LLSX được giải phóng, mọi tiềm năng sản xuất được gợi mở, khơi thông, chúng ta mới có thể thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư của nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và tri thức quản lý kinh nghiệm tiên tiến nhằm thúc đẩy nhanh chóng tiến trình CNH-HĐH nền kinh tế nước ta.
Giải phóng LLSX thực chất là giải tỏa, tháo gỡ những lực lượng ngăn cản và kìm hãm sự phát triển của LLSX. Giải phóng và phát triển LLSX là hai quá trình diễn ra đồng thời và có tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau.
Quá trình phát triển LLSX đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên đổi mới, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có thể có, cả nguồn lực bên trong và bên ngoài. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nhiều quốc gia trên thế giới phát triển nhanh chóng và ngày càng mang tính chất quốc tế hóa cao. Do đó giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu hướng vừa cạnh tranh gay gắt vừa giao lưu và hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ... Bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải hòa nhập vào xu thế chung đó. Đối với nước ta, để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa thì nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là phải thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực với tất cả các nước, các khu vực trên thế giới. Để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa thừa nhận sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa,điều đó không phải là một nghịch lý ; mà vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sẽ sử dụng chủ nghĩa tư bản như thế nào để phát triển nhanh chóng LLSX mà vẫn xây dựng được đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn 70 năm trước đây, Chính sách kinh tế mới được Lê nin đề ra cùng với sự thừa nhận “ toàn bộ quan điểm của chúng ta về CNXH đã thay đổi căn bản”đã cứu vãn kinh tế nước Nga Xô Viết trẻ tuổi khỏi sụp đổ. Đó là quan điểm từ bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, mở rộng trao đổi, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lê nin là cao hơn nhiều so với nền sản xuất nhỏ, rằng: “ Chúng ta phải lợi dụng CNTB, ( nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu tư sản và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công CNXH nếu không xây dựng nền công nghiệp tiên tiến. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu nông, con đường phát triển mang tính tự phát sẽ là trải qua CNTB, song để tránh cho nhân dân khỏi những đau khổ mà chế độ TBCN có thể gây ra, Đảng ta dứt khoát lựa chọn con đường XHCN. Tuy nhiên để thực hiện CNH-HĐH đất nước, chúng ta cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà nước TB phải “ cày trên mảnh đất vô sản”, biến thành phần kinh tế tư bản tư nhân thành “ một trợ thủ đắc lực cho CNXH”.
Rõ ràng, công cuộc đổi mới đòi hỏi một tư duy mềm dẻo, năng động và nhạy bén, phải “ vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lê nin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”.
C. KẾT LUẬN
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.Tuy nhiên ,không phải bất cứ lúc nào cũng có sự phù hợp đó,vì vậy phải nắm bắt tốt quy luật thì chúng ta mới có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể.Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất. LLSX là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại QHSXlại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu QHSX không có những sự thay đổi cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi QHSX cần phải căn cứ vào thực trạng của các LLSX hiện có về mặt tính chất và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta của quá trình cải cách của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
Cải tạo XHCN phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24741.doc