Đề tài Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hơp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

I- QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LƯC LƯỢNG SẢN XUẤT 3

1. KHÁI NIỆM PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT. NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT. 3

2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 7

3. SỰ PHÙ HỢP VÀ TÍNH MÂU THUẪN CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 9

II- NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 11

KẾT LUẬN 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hơp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhận thức và vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất - Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ, tạo thành quan hệ sản xuất; trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó có ý nghĩa quyết định đối với các mặt quan hệ khác. Quan hệ sản xuất được hiểu là những quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế của đời sống xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều hình thành dựa trên những quan hệ sản xuất nhất định, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất quy định bản chất của quan hệ sản xuất. Tính vật chất của quan hệ thể hiện ở chỗ nó tồn tại khách quan độc lập hoàn toàn với ý thức của con người. Mác đã chỉ rằng: trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. 2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮ QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 2.1. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Để nâng cao năng suất lao động và giảm lao động nặng nhọc, con người đã không ngừng cải tiến và chế tạo ra những công cụ lao động mới. Đồng thời với sự tiến bộ của công cụ sản xuất là sự phát triển ngày càng cao của tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động. Tính năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn này trong xã hội có giai cấp đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng. Lịch sử đã chứng minh, do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất loài người đã bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội, dãn đến sự ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. 2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Tuy bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính chất là hình thức, quan hệ sản xuất cũng có những tác độngnhất định trở lại đối với lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó sẽ trở thàng động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại nếu quan hệ sản xuất lỗi thời , lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. 2.3. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa tư liệu sản xuất và người lao động . Mở ra điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất , tinh thần đối với người lao động .Nhưng lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển còn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định . Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa , trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ , thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã hội co giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội . 3. SỰ PHÙ HỢP VÀ TÍNH MÂU THUẪN CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 3.1. Tương quan giữa sự phù hợp về tính chất với sự phù hợp về trình độ trong sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất và trình độ nói chung thuộc phạm trù lượng, tính chất của lượng sản xuất và tính chất nói chung thuộc phạm trù chất. Trên cơ sở những tương quan giũa trình độ và tính chất nói chung từ đó suy ra những tương quan cần thiết giữa trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất: * Sự phù hợp của LLSX bao hàm sự phù hơp của QHSX Lượng biến đổi dẫn đến chất cũng biến đổi, nhưng sự biến đổi của lượng diễn ra nhanh hơn sự biến đổi của chất. Ở một giai đoạn nào đó , sự biến đổi về lượng chưa tạo ra những biến đổi về chất. Trình độ của lực lượng sản xuất đã biến đổi và đạt được những tiến bộ nhất định, nhưng tính chất của nó chưa có sự thay đổi. Điều đó có nghĩa là trong một giai đoạn nào đấy,nếu giải quyết được sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất thì sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất của nó cũng được giải quyết. Hay nói cách khác, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lượng sản xuất bao hàm sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất của nó. Trên cơ sở đó ta có thể kết luận: trong giai đoạn sự biến đổi về trình độ chưa làm cho lực lượng sản xuất có sự thay đổi về tính chất thì sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất diễn ra trước và bao hàm sự phù hợp của quan hệ sản xuất vớitinhs chất của nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất do đó được quyết định bởi sự phù hợp về trình độ. 3.2. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất khi lực lượng sản xuất xuất hiện chất mới. Những năm gần đây, các đảng cộng sản ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã tiến hành tổng kết làm rõ nhiều vấn đề trong đó có những vấn đề nhận thức và vân dụng quy luật này. Nghị quyết đại hội VI của đảng đã chỉ ra: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ do quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các nhà lý luận, từ nhiều góc độ khác nhau cùng nghiên cứu luận giải quy luật này. Nhiều công trình đã có những đóng góp thiết thực vào việc làm thế nào cho đúng với các vấn đề của quy luật này và vận dụng nó như thế nào trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình để phát triển lực lượng sản xuất. Từ góc dộ tính chất của lực lượng sản xuất và tương quan giữa chúng, chúng ta đã tìm hiểu vấn đề phù hợp đặt ra trong quy luật này ở hầu hết những trường hợp cần thiết . Những vấn đề đặt ra đã cơ bản được giải quyết , có thể kết luận: trong sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất thì sự phù hợp về trình độ luôn đặt ra trước và bao hàm sự phù hợp về tính chất. Giải quyết yêu cầu phù hợp về trình độ cũng đồng thời là việc giải quyết yêu cầu phù hợp về tính chất. Do vậy sự phù hợp về tính chất là điều không cần thiết phải đặt ra và nêu lên trong quy luật. Đó chính là điều C.Mác khi phân tích quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất thì hầu như chỉ xét đến trình độ của lực lượng sản xuất chính là sự phù hợp về trình độ. Qua phân tích trên ta có thể gọi tên của quy luật là” quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất “. II- NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô, đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Có điều kiện này thì Đảng mới có thể có thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là làm cho lực lượng sản xuất phát triển . Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta, với đặc điểm của nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ công hữu với đường lối “đẩy mạnh cải tạo chủ nghĩa xã hội, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thiết lập chế độ công hữu thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định, tính chất, trình độ xã hội hoá sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta. Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn, vì nó trái quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, chúng ta đã xây dựng thành phần kimh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vượt quá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vượt qua trình độ quản lý của ta, quan điểm đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cũng đã bị thực tế bác bỏ; tất yếu để lại hậu quả là: Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ..) thì tư hữu về TLSX là phương thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và TLSX. Việc tiến hành tập thể nhanh chóng TLSX dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu công cộng, người lao động bị tách khỏi TLSX, không làm chủ được qúa trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo HTX, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến TLSX trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể. Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý TLSX cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi phối, định đoạt TLSX & sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng & chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về TLSX cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vô chủ, chính quyền (bộ, ngành chủ quản) là đại diện của chủ sở hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế giàng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình. Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi. Tính quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn là cơ sở phương pháp luận cho tư duy đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước. Nếu xem xét một cách phiến diện, coi trọng mặt này hay mặt khác sẽ dẫn đến những kết quả tiêu cực đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong một số năm gần đây, trong tư duy kinh tế của một số người ở cả cấp vĩ mô và vi mô, đã có một xu hướng thiên về vấn đề của lực lượng sản xuất mà xem nhẹ những vấn đề của quan hệ sản xuất, hay chỉ chú ý đến một bộ phận nào đó của quan hệ sản xuất như vấn đề chuyển sang kinh tế thị trường nhưng lại sao nhãng vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa của các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Tuy còn có những hạn chế, song ta đã đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong hơn 10 năm đổi mới là do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân kinh tế hàng đầu là sự phát triển phù hợp của các quan hệ sản xuất xã hội được Đảng ta điều chỉnh. Chúng ta đã tiến hành khôi phục và phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần mà trước đây đã vội xóa bỏ một cách duy ý chí, chuyển cơ chế vận hành nền kinh tế từ tập trung quan lieu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước; đa dạng hóa hình thức quan hệ phân phối theo lao động và kết hợp với phân phối theo tài sản, theo tư bản, theo các hình thức vốn góp kinh doanh. Cơ sở khoa học của những điều chỉnh của Đảng ta là sự nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ ở nước ta áp dụng sáng tạo lý luận của Lênin về vai trò tích cực của kinh tế cá thể và kinh tế tư bản nhà nước, quan tâm đến lợi ích vật chất cá nhân của người lao động coi đó là động lực trực tiếp phát triển kinh tế - xã hội. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính: lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước (thường gọi là quốc doanh, thuộc thành phần kinh tế nhà nước); lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh (thường gọi là dân doanh, thuộc kinh tế tư nhân). Trong thành phần kinh tế nhà nước bộ phận các doanh nghiệp nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, chi phối, ảnh hưởng tác động chủ yeus đến toàn bộ nền kinh tế, nhất là các doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường với tiềm lực và lợi thế so sánh của mình nhà nước. Sau thời kỳ được mở rộng quyền tự chủ và sắp xếp lại một bước, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã thích ứng với cơ chế mới, sản xuất kinh doanh năng động và hiệu quả hơn. Song, nhìn chung sự chuyển biến trong các quan hệ sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, trong quản lý và phân phối sản xuất sản phẩm bên trong các doanh nghiệp còn chậm chạp, việc cổ phần hóa chưa thực hiện được nhiều.Tình trạng làm ăn thua lỗ, nợ đọng còn tương đối phổ biến. Vai trò và hoạt động của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và quản lý nhà nước về kinh tế còn có mặt hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Những hạn chế trên đã làm cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trong khu vực quốc doanh còn yếu kém. Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất hiên nay,công việc hàng đầu chính là củng cố và phát triển khu vực kinh tế nhà nước nói riêng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất ở khu vực này được phát triển mạnh mẽ, xứng với tiềm năng và vai trò của nó. Trên cơ sở chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân cũng đóng vai trò không nhỏ trong thời kỳ quá độ. Trong nội dung kinh tế của đường lối đổi mới của Đảng ta là khuyến khích các thành phần kinh tế này phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Trong những năm qua, khu vực kinh tế này đã có những phát triển nhất định, có tác động tích cực đến nền kinh tế quốc dân; song sự phát triển còn chậm, chưa đúng với tiềm năng, có mặt chưa đúng hướng. Tích tụ và tập trung tư bản còn chậm chạp, quy mô vừa và nhỏ, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chủ yếu là hoạt động trong thương nghiệp và dịch vụ. Nhiều hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân trong nước trệch hướng, có tác dụng tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân: đầu cơ, buôn lậu, sản xuất hàng giả, chốn thuế…Những tích cực và hạn chế của kinh tế tư bản tư nhân đều gắn liền với bản chất kinh tế của nó, nhưng việc phát huy mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của nó lại thuộc về quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước ta còn nhiều điều chưa thỏa đáng, chưa tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ông bà ta thường nói: muốn biết bơi phải nhảy xuống nước. Còn Lênin, trong tác phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị”, đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô viết sẽ tiêu tan, hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế. Cơ sở này hiện nay chưa có. Đấy chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm” đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và cũng không thể tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không đòi hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp từ quan hệ sản xuất, trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu, theo quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu. Kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao. Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu. Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm nhiều giá trị thặng dư. Vấn đề bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng trong phân phối được thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ). Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tập hợp của những thành phần kinh tế khác nhau tương ứng với các lực lượng sản xuất khác nhau, chúng vừa đấu tranh với nhau vừa hợp tác với nhau trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Mỗi thành phần đều có một vai trò kinh tế nhất định,có phát huy được vai trò đó thì toàn bộ cơ cấu mới đảm bảo được vai trò thúc đẩy đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước tiến lên CNXH. Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” . * Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (xây dựng lực lượng sản xuất) – Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Trước hết phải đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, "Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"(1). Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả nước...Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Bộ mặt nông thôn Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều đổi mới, từ chỗ bị thiếu ăn, phải nhập khẩu gạo, đến nay đã và đang xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém, mà nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn, vốn đầu tư cho khu vực này vẫn thấp (chiếm 11% - 12% tổng đầu tư toàn xã hội); sản phẩm nông nghiệp lại chủ yếu thiên về số lượng, chứ chưa nâng cao về chất lượng, giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất còn thấp; sản lượng nông sản tuy tăng nhưng chi phí đầu vào vẫn tăng cao (chi phí cho sản xuất 1ha lúa tăng từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng), trong khi giá các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế lại giảm. Trong khi đó, các chính sách và biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng cho phát triển nông nghiệp những năm gần đây chưa tạo bước đột phá mạnh. Trình độ dân trí của một bộ phận nông dân (nhất là vùng sâu, vùng xa) chưa được cải thiện, đời sống, xã hội nông thôn mặc dù có sự chuyển biến song chưa mạnh và không đồng đều. Tình trạng đó dẫn đến sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng thế giới (WB) (năm 2003) hệ số chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn là 3,65 lần.Thêm nữa, kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và trong khu vực (như Xin-ga-po, Thái Lan, Trung Quốc, Thụy Điển, Tây Ban Nha...) đều cho thấy bài học: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế đất nước. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là gì? Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã quyết định và chỉ đạo phải luôn luôn coi trọng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ rõ nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 là (2): - Là quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20746.doc
Tài liệu liên quan