MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỘI DUNG VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH 7
I. NỘI DUNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH 7
1. Đầu tư 7
1.1. Khái niệm 7
1.2. Đặc điểm của đầu tư 8
1.3. Phân loại đầu tư 8
2. Đầu tư vào tài sản hữu hình 8
2.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản hữu hình 8
2.1.1. Khái niệm 8
2.1.2. Đặc điểm 9
2.2. Nội dung đầu tư vào tài sản hữu hình 9
2.2.1. Đầu tư vào tài sản cố định 10
2.2.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ 10
2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình 11
2.3.1. Khái niệm hiệu quả đầu tư 11
2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của đầu tư 11
2.4. Kết quả và hiệu quả của việc đầu tư vào TSHH 12
3. Đầu tư vào tài sản vô hình 13
3.1. Khái niệm và đặc điểm đầu tư vào TSVH 13
3.1.1. Khái niệm 13
3.1.2. Các đối tượng sở hữu trí tuệ 15
3.1.3. Đặc điểm 17
3.2. Các hình thức đầu tư vào TSVH 17
3.2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 18
3.2.2. Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ 20
3.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing 21
3.3. Đánh giá hiệu quả của đầu tư vào tài sản vô hình 25
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH 28
1. Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình đối với đầu tư vào tài sản vô hình 28
1.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở, nền tảng cho đầu tư vào tài sản vô hình 28
1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình là động lực thúc đẩy phát triển tài sản vô hình 29
2. Tác động của đầu tư vào tài sản vô hình đối với tài sản hữu hình. 30
2.1. Đầu tư vào tài sản vô hình nâng cao giá trị của tài sản hữu hình. 30
2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình thúc đẩy quá trình đất tư vào tài sản hữu hình 31
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH 34
I. THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH 34
1. Thực trạng đầu tư vào tài sản cố định 34
1.1. Thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng 34
1.1.1. Thực trạng về cơ sở hạ tầng của Việt Nam 34
1.1.2. Thực trạng tình hình đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay 34
1.2. Thực trạng về đầu tư vào hàng tồn trữ 40
2. Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình 42
2.1. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực 42
2.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay 42
2.1.2. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực 43
2.2. Thực trạng về đầu tư vào công tác nghiên cứu và triển khai các hoạt động KH-CN 46
2.2.1. Thực trạng đầu tư cho nghiên cứu khoa học 46
2.2.2. Thực trạng vi phạm bản quyền ở Việt Nam 48
2.3.Thực trạng về đầu tư vào hoạt động Marketing .49
2.3.1.Thực trạng đầu tư vào nhãn hiệu 49
2.3.2.Thực trạng đầu tư vào thương hiệu .50
II .THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH .51
1.Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình đối với hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp .51
2.Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản hữu hình trong doanh nghiệp .53
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀ PHỐI HỢP CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. XU HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ TÀI SẢN HỮU HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020 50
1. Bối cảnh chung của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 50
1.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện 50
1.2. Những hạn chế về chất lượng tăng trưởng kinh tế 51
2. Xu thế chung của việc đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình trong doanh nghiệp Việt Nam. 52
II. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ TÀI SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP 53
1. Đầu tư vào tài sản hữu hình 53
1.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại 53
1.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả 54
2. Đầu tư vào tài sản vô hình 56
2.1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 56
2.2. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học công nghệ 59
2.3. Đầu tư phát triển thương hiệu 60
2.4. Vấn đề về việc xây dựng thương hiệu quốc gia hiện nay 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
74 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, lợi ích đem lại là của chung, đồng vốn bỏ ra lại không thuộc một cá nhân nào, do đó hiệu quả đầu tư không cao.
“So với các nước khác trong khu vực,hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam ở dưới mức trung bình”. TS.Nguyễn Mạnh Kiểm - Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam đã cho biết như vậy khi đánh giá về cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại VN Jeff Puchalski nhấn mạnh, những hạn chế về cơ sở hạ tầng vật chất ở VN đang bắt đầu đe dọa đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất và cả xuất khẩu trong tương lai. "VN đã thành công trong việc phát triển năng lực sản xuất. Nhưng nếu không chú ý đến vấn đề giao thông vận tải và các cơ sở hạ tầng khác sẽ không thể giải quyết được sự tăng trưởng xuất khẩu trong tương lai".
Thực trạng về cơ sở hạ tầng đang là một vấn đề được quan tâm của Việt Nam hiện nay . Chính vì vậy chính phủ đã có những chính sách nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực này và nâng cao hiệu quả đầu tư .
1.1.2. Thực trạng tình hình đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay
- Một số lĩnh vực thu hút đầu tư của Việt Nam hiện nay
Do nhu cầu thực tế, CSHT đang là lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của VN, bao gồm các dự án đầu tư vào:hệ thống cảng biển, đường cao tốc, các dự án điện, đường sắt… Theo số liệu của Tổng hội Xây dựng VN, các dự án giao thông - vận tải theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT)… đang triển khai hoặc chuẩn bị đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 44 nghìn tỷ đồng. Trong đó, có 43 dự án xây dựng công trình giao thông, chiếm 90% lượng vốn đầu tư. Chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt là nâng cấp các tuyến hiện có đạt cấp tiêu chuẩn kỹ thuật đường sắt quốc gia và khu vực, từng bước mở rộng mạng lưới và xây dựng đường sắt cao tốc, ưu tiên xây dựng trục đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Lĩnh vực cảng biển cũng được ưu tiên thu hút đầu tư.
- Tiến độ thi công công trình
Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng hầu hết đều là những công trình đầu tư lớn với thời gian thi công dài. Nhưng việc thực thi các dự án này đều chậm so với tiến độ đặt ra. Việc chậm tiến độ này do các nguyên nhân cơ bản như: giải ngân vốn chậm, việc giải phóng mặt bằng khó khăn và việc nguyên vật liệu tăng giá. Nhưng có một nghịch lý xảy ra đó là, trong khi rất nhiều công trình không thi công được do vốn giải ngân chậm thì lại có những công trình “không tiêu hết tiền” của dự án , tức là nhà đầu tư không đẩy nhanh tiến độ mặc dù dư thừa vốn đã giải ngân .
Thực trạng này diễn ra điển hình tại Hà Nội. Mặc dù mục tiêu đặt ra là rất gần. Đó là hướng tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long vào năm 2010. Thế nhưng các dự án lớn của Hà Nội vẫn đang thi công với tốc độ “sên bò”.
Năm 2007, 5 dự án lớn của Hà Nội (đường 5 kéo dài, cầu Vĩnh Tuy, đường Láng - Hòa Lạc, cầu Nhật Tân, tuyến đường sắt đô thị thí điểm) có số vốn dự toán hơn 1.570 tỷ đồng nhưng chỉ thực hiện chưa tới 600 tỷ. Gần 1.000 tỷ đồng kết dư ở các dự án này đã khiến cho tổng kết dư ngân sách thành phố Hà Nội lên tới hơn 3.380 tỷ đồng trong năm 2007.
Ngoài ra, với hơn 3.620 tỷ đồng chi chuyển nguồn ngân sách sang năm 2008, Hà Nội có tới hơn 7.000 tỷ đồng "không tiêu hết" trong năm 2007, chiếm tới 15% tổng thu ngân sách.
Như vậy, có thể nói, vấn đề cấp bách trong thực thi các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng hiện nay đó là tốc độ thi công công trình. Đây là những dự án quan trọng mang tầm cỡ quốc gia, nó đỏi hỏi lượng đầu tư lớn, chính vì vậy càng để lâu thì dự án càng khó hoàn thành do mức độ tăng giá nguyên vật liệu ngày càng cao.
- Quy mô, cơ cấu vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong huy động các nguồn lực cho CSHT, tuy nhiên cả nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn ODA vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu vốn. Đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này còn rất hạn chế. Đến nay mới chỉ có 60 dự án BOT, BT đầu tư vào lĩnh vực này. Hiện tại, chỉ có 18 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực điện, nước và bưu chính viễn thông. Mức độ đầu tư của khu vực tư nhân vào CSHT chưa tương xứng nhu cầu và tiềm năng của khu vực kinh tế năng động này. Trong khi đó, để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8%, mức vốn đầu tư vào CSHT đòi hỏi phải tăng lên tương đương 11 - 12% GDP thay vì mức 9 - 10% GDP như hiện nay. Do sắp hết hạn hưởng các nguồn tài trợ ưu đãi nên việc huy động vốn đầu tư từ khu vực tư nhân khoảng 2,5 tỷ USD/năm đang là vấn đề cấp bách.
Theo tính toán từ Ngân hàng thế giới, thì mức chi tiêu dự tính cho các công trình hạ tầng trên toàn quốc là rất lớn so với nguồn lực cũng như vốn của Chính phủ hiện có.Ví dụ, TCty Điện lực VN cần đầu tư 2 tỷ USD/năm để theo kịp mức tăng trưởng dự tính 93 tỷ kWh vào năm 2010. Ngành nước, nguồn vốn cần cho phát triển hệ thống cấp nước, chỉ tính riêng HN và TP HCM đến năm 2010vào 2 tỷ USD. Ngành đường sắt cũng cần1,5 tỷ USD, sân bay cần 1,44 tỷ USD, đường sá cần 3,1 tỷ USD, hệ thống giao thông đô thị cần 18 tỷ USDcho 10 năm tới. Riêng hệ thống cảng biển VN cần được đầu tư 1,86 tỷ USD trước năm 2010 mới đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tính đến thời điểm hiện nay, đa số các công trình đều sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện 9 tháng ước tính 65,8 nghìn tỷ đồng, đạt 67% kế hoạch năm, trong đó vốn Trung ương quản lý đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, đạt 62,3%; vốn địa phương quản lý đạt 45,1 nghìn tỷ đồng, đạt 69,4%. Khối lượng vốn thực hiện của các Bộ, Ngành và địa phương nhìn chung đạt thấp: Bộ Xây dựng 90 tỷ đồng, chỉ đạt 25,6% kế hoạch năm; Bộ Giao thông Vận tải 3,7 nghìn tỷ đồng, đạt 58,7%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 759,2 tỷ đồng, đạt 67,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 303,9 tỷ đồng, đạt 68,9%. Các địa phương có tiến độ giải ngân nhanh là: Lâm Đồng đạt 95,2% kế hoạch năm; Quảng Trị đạt 89,3%; Thái Nguyên 86,1%; Yên Bái 84,7%; Bà Rịa -Vũng Tàu 81,1%.
Dưới đây là bảng phân bổ nguồn ngân sách nhà nước đối với các bộ có dự án đầu tư trọng điểm.
Bảng 1 : Khối lượng vốn đầu tư ngân sách Nhà nước thực hiện tháng 9
và 9 tháng năm 2008
Đơn vị tính : Tỷ đồng
Ước tính (Tỷ đồng)
So với kế hoạch năm 2008 (%)
Tháng 9/2008
9 thángnăm 2008
Tháng 9/2008
9 thángnăm 2008
TỔNG SỐ
8410,0
65752,1
8,6
67,0
Phân theo cấp quản lý
Trung ương
2459,3
20658,8
7,4
62,3
Địa phương
5950,7
45093,3
9,2
69,4
Một số Bộ
Bộ Công thương
18,5
170,6
7,8
72,0
Bộ Xây dựng
11,0
90,0
3,1
25,6
Bộ NN và PTNT
250,0
1597,5
15,0
95,8
Bộ Giao thông Vận tải
720,0
3687,2
11,5
58,7
Bộ Giáo dục và Đào tạo
101,5
759,2
9,1
67,8
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
35,5
303,9
8,0
68,9
Bộ Y tế
76,5
652,7
8,2
70,0
Một số địa phương
Lai Châu
83,6
627,6
8,3
62,5
Thái Nguyên
76,0
546,8
12,0
86,1
Bắc Kạn
46,7
301,7
9,0
58,4
Yên Bái
73,8
495,7
12,6
84,7
Hà Nội
563,0
4452,7
6,5
51,6
Bắc Ninh
79,0
525,8
9,8
65,5
Hải Phòng
128,2
900,4
9,1
63,9
Thái Bình
88,0
553,0
12,5
78,4
Nghệ An
117,0
1004,7
8,4
72,2
Hà Tĩnh
51,8
484,7
4,9
45,6
Quảng Trị
85,5
690,3
11,1
89,3
Thừa Thiên - Huế
142,8
730,4
15,8
80,7
Đà Nẵng
258,8
1851,2
10,7
76,2
Ninh Thuận
55,0
427,0
10,4
81,0
Lâm Đồng
113,4
750,3
14,4
95,2
TP, Hồ Chí Minh
977,5
5822,8
11,1
65,9
Bình Dương
150,4
938,3
12,2
76,0
Bà Rịa - Vũng Tàu
193,8
1606,7
9,8
81,1
An Giang
50,1
431,0
7,3
63,0
(“Nguồn:”)
- Vấn đề thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Dư luận cho rằng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách lên đến 20- 30% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, khó có bằng chứng xác thực về vấn đề này. Nếu lấy tỷ lệ thất thoát tự nhận của Sở Giao thông Công chính là 7% làm cơ sở, thì mỗi năm riêng chỉ thành phố Hồ Chí Minh cũng đã mất tới hàng nghìn tỷ đồng.Vốn đầu tư mấy năm nay dành cho phát triển cơ sở hạ tầng là không nhỏ thậm chí là tăng rất mạnh ,tuy nhiên nó chưa được sử dụng đúng mục đích.
Theo số liệu của UBND thành phố, vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản ở TPHCM năm 2003 là 7.000 tỉ đồng, tăng 52,5% so với năm 2002; năm 2004 là 10.500 tỉ đồng, tăng 63,1% so với năm 2003 và năm 2005 dự kiến theo kế hoạch là 17.000 tỉ đồng. Trong đó vốn ngân sách cân đối được 11.500 tỉ đồng, phần còn lại phải lấy từ nguồn phát hành trái phiếu, bán quyền sử dụng đất và vay của các tổ chức tín dụng.
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2005, tổng số dự án được phê duyệt là 766 với tổng vốn đầu tư 8.697 tỉ đồng. Nếu so sánh với nguồn thu ngân sách trong 6 tháng đầu năm đạt 26.915 tỉ đồng, thì có thể thấy vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã chiếm một tỉ lệ rất lớn.
Năm 2005 được thành phố xác định là năm chống lãng phí thất thoát - chủ yếu là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách. Vì vậy thành phố đã giám sát, đánh giá được 585 dự án. Trong đó, đã phát hiện và xử lý một số sai phạm bằng nhiều biện pháp.
Cụ thể, ngừng đầu tư 4 công trình, với tổng vốn đầu tư là 34,3 tỉ đồng; điều chỉnh 3 dự án từ 161,1 tỉ đồng vốn đầu tư, xuống còn 72,4 tỉ đồng, tiết kiệm được 73,7 tỉ đồng. Riêng kết quả thanh tra 84 công trình, với tổng vốn đầu tư 2.054,2 tỉ đồng đã phát hiện được 29/84 dự án có sai phạm tài chính gần 41 tỉ đồng. Chỉ qua một vài con số cũng đã thấy, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản bằng vốn ngân sách, nguy cơ thất thoát, lãng phí luôn luôn chực chờ.
Qua thống kê từ các dự án của ngành giao thông công chính trong 2 năm 2000 -2001, tỉ lệ thất thoát chiếm 7,52% tổng vốn đầu tư. Còn trong giai đoạn 2002-2004, tỉ lệ này là 6,50%. Trong những tháng đầu năm 2005, qua kết quả thanh tra 28 công trình cho thấy, tỉ lệ thất thoát bình quân khoảng 7%. Nếu so sánh tỉ lệ thất thoát 7% trong các công trình giao thông công chính, với tỉ lệ từ 20 - 30% thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản của cả nước, thì có lẽ cũng tạm yên tâm.
Nhưng nếu biết rằng, chỉ tính trong năm 2004, tổng vốn đầu tư của ngành giao thông công chính là 3.149 tỉ đồng, thì mới thấy được số tiền thất thoát lớn đến mức nào - 220 tỉ đồng. Còn nếu lấy tỉ lệ thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản của ngành giao thông công chính để làm cơ sở tính toán cho toàn bộ vốn đầu tư của thành phố trong năm 2005, thì số tiền thất thoát lên đến gần 1.200 tỉ đồng.
Đây mới chỉ là những con số dựa trên tỉ lệ được công bố, còn trên thực tế, nó có thể gấp nhiều lần và khủng khiếp hơn nữa. Trong khi trả lời chất vấn tại HĐND thành phố, ông Hà Văn Dũng - Giám đốc Sở Giao thông Công chính thành thật phát biểu: "Chưa bao giờ chúng tôi thực sự an tâm đối với công tác quản lý chất lượng. Bởi lẽ, đây là cuộc đấu tranh không cân sức. Một bên là không ít các đơn vị thi công vì chạy theo lợi nhuận, sẵn sàng làm nhiều cách kể cả hối lộ để làm ăn gian dối. Bên còn lại là lực lượng quản lý, luôn gặp khó khăn trong điều kiện làm việc và thu nhập".
Trước những thực trạng như trên,chính phủ đã phải thành lập ban chỉ đạo Nhà nước về các dự án , công trình trọng điểm.Ngày 12/9/2008 , thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kí quyết định thành lập ban chỉ đạo các công trình trọng điểm của ngành giao thông . Ban chỉ đạo phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn trong và ngoài nước, các nhà thầu trong việc thực hiện những nhiệm vụ đã được xác định trong quy hoạch tổng thể hoặc quyết định phê duyệt của từng công trình, dự án để đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng công trình.
- Những bất cập trong chính sách của chính phủ
Một thực trạng nổi trội hiện nay trong ngành xây dựng nữa đó là về dự thảo quy chế đầu tư BOT, BTO, BT áp dụng cho đầu tư tư nhân trong nước.Mặc dù đã qua rất nhiều lần sửa đổi nhưng vẫn thiếu một cơ chế rõ ràng khiến cho đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn, nhất là những vấn đề liên quan tới hành lang pháp lý hoạt động. Hậu quả là các nhà đầu tư hoang mang không rõ đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng có thực sự khuyến khích hay không? Và nếu có thì khuyến khích trong lĩnh vực nào và cấm trong lĩnh vực nào. Ngoài ra các dự án hạ tầng tư nhân lớn ở VN khó có thể thực hiện được nếu nhận được việc từ chối bảo lãnh của Chính phủ. Ví dụ cụ thể trong một số dự án sau :
Dự án xây dựng nhà máy điện Phú Mỹ : Ông Nguyễn Thành Nam - một đối tác trong dự án xây dựng Nhà máy điện Phú Mỹ 2-2 cho biết, thực tế Chính phủ cũng đã thực hiện bảo lãnh đối với dự án điện khí đốt Nam Côn Sơn. Các phần của dự án này sau đã được đầu tư thành công. Tuy nhiên , Chính phủ thông báo sẽ giảm mức độ bảo lãnh đối với việc đầu tư vào dự án Phú Mỹ 2 và 3. Hiện nay việc đàm phán các dự án hạ tầng lớn, có nhiều biểu hiện quan liêu do vậy đã có nhiều nhà đầu tư bỏ cuộc trước khi dự án được thực hiện.
Trường hợp điển hình nữa đó là dự án BOT Thủ Đức, được Bộ KH - ĐT cấp phép năm 1997, nhưng không được thực hiện cho đến khi nhà tài trợ chính thay đổi chiến lược và rời bỏ thị trường vào năm 2002. Thiệt hại cho phiá VN 150 triệu USD.
Hay như Hợp đồng hợp tác kinh doanh xây dựng hệ thống đường dây điện thoại được cấp phép nhưng đã không được thực hiện và nhà đầu tư chuyển hình thức đầu tư khác, thiệt hại cho VN 200 triệu USD.
Nhằm giảm gánh nặng trên vai khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách, đã đến lúc Chính phủ cần xây dựng chính sách rõ ràng về cơ chế pháp lý cũng như mở rộng hình thức đầu tư BTO, BOT, BT tạo điều kiện khuyến khích đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng... Nếu như những điểm này được thông qua sẽ tạo ra những cơ chế linh hoạt hơn thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư tư nhân.
Mặc dù chính phủ đã có những chính sách tích cực khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng .Song vẫn chưa thể đáp ứng kịp nhu cầu cấp bách của thị trường.Chính điều này đã làm nhiều nhà đầu tư ngần ngại khi chọn Việt Nam làm điểm đến.Điển hình là các nhà đầu tư Nhật Bản.Đại diện của Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại VN cho biết, thời gian tới, sẽ có thêm nhiều nhà đầu tư từ xứ sở mặt trời mọc đến với VN. Trong bình chọn của các công ty Nhật về địa điểm đầu tư có triển vọng về trung hạn, VN đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Tuy nhiên, hiện không ít nhà đầu tư Nhật rất lo lắng về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng của VN.Chính vì vậy vấn đề cấp thiết hiện nay chính là đẩy nhanh tiến độ thi hành các dự án công trình trọng điểm.
1.2. Thực trạng về đầu tư vào hàng tồn trữ
Hàng tồn trữ bao gồm: nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm tồn trữ doanh nghiệp
Có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách tồn kho, có nhiều lý do để giải thích tại sao muốn tồn kho và tại sao lại không muốn tồn kho ?
Tỷ trọng hàng tồn kho lớn luôn là mối quan ngại ít nhiều với NĐT, do tính chất tồn lâu, chôn vốn, chi phí phát sinh thêm của nó. Nhưng cũng không thể nói mọi số dư về hàng tồn kho đều là tiêu cực đối với tương lai của DN.
Nhằm dự phòng tổn thất do giá vật tư, thành phẩm, hàng hoá tồn kho bị giảm giá, DN đã phải trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho theo quy định của Thông tư 13/2006/TT-BTC. Việc này giúp DN có nguồn tài chính để bù đắp tổn thất, song do được tính vào chi phí, ảnh hưởng đến lợi nhuận của DN nên không ít NĐT "dị ứng" với chỉ tiêu này.
Theo ý kiến của các nhà kinh doanh thì chỉ tiêu hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh (dược phẩm, thực phẩm, máy móc, điện tử…) nên không phải cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu. Chính vì vậy khi phân tích, đánh giá chỉ tiêu hàng tồn kho, NĐT thường tính đến các yếu tố có khả năng ảnh hưởng lớn đến kế hoạch quản lý hàng tồn kho của DN như tính chất mùa vụ, các dịp lễ tết, sự kiện sắp diễn ra trong năm liên quan đến sản phẩm của DN.Bằng chứng là trước mỗi dịp lễ tết, các công ty sản xuất bánh kẹo như Hải Hà, Kinh Đô… thường chuẩn bị nguyên liệu nhiều hơn, trong trường hợp này, hàng tồn kho hoàn toàn phục vụ cho khả năng tiêu dùng trước mắt, hứa hẹn tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho DN.
Đối với các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, thương mại , trong chiến lược dự trữ hàng hoá của mình thường duy trì hàng tồn kho ở một mức độ nhất định, nhằm đảm bảo nguyên vật liệu cho sản xuất, đảm bảo nguồn hàng trong lưu thông. "Nếu DN đó ký được hợp đồng lớn thì không có cớ gì trong kho lại không có hàng tồn. DN phải dự trữ hàng để đảm bảo cho đến khi hợp đồng đó được thực hiện, đảm bảo an toàn trong việc cung ứng sản phẩm" , Ông Nguyễn Lương Tân, Phó trưởng Phòng Phân tích CTCK Bảo Việt (BVSC) cho biết .
Ngoài ra, cũng không ngoại trừ trường hợp DN đón đầu tình trạng khan hiếm hay tăng giá của sản phẩm, hàng hoá mà mình đang nắm quyền chi phối để "găm hàng", chuẩn bị cho chiến dịch tung ra sản phẩm khi cần thiết. Như vậy, hàng tồn kho bỗng trở thành khoản lợi nhuận đang chờ ngày thanh toán . Hàng tồn kho còn phụ phụ thuộc vào đặc tính của từng DN. NĐT cũng nên tính chỉ số hàng tồn kho/doanh thu để xem mức độ biến động như thế nào, có gây ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của DN không. Nếu chỉ nhìn con số tại một thời điểm thì rất khó đánh giá DN một cách toàn diện DN.
Chỉ tiêu hàng tồn kho cần được xem xét , đánh giá bên cạnh các chỉ tiêu khác như lợi nhuận, doanh thu, vòng quay của dòng tiền… cũng như nên được đặt trong điều kiện kinh tế vĩ mô. "Cũng giống như con người, nếu khám "sức khoẻ" cho DN thì nên xem xét tất cả các yếu tố để đưa ra chẩn đoán chính xác .Cũng có một số DN niêm yết mà chỉ số hàng tồn kho không quá quan trọng như các DN ngành điện: CTCP Thuỷ điện Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH) hay CTCP Nhiệt điện Phả Lại (PPC)… với đặc trưng là sản xuất ra điện và nhiệt điện, thậm chí có DN không sử dụng nguyên liệu đầu vào, mà chỉ dùng sức nước (như VSH) nên hàng tồn kho ở đây chỉ là bao gồm vật tư, thiết bị dự phòng … để thay thế khi gặp sự cố.
Mặc dù vậy, giới phân tích đều cho rằng, đây là chỉ tiêu khó đánh giá khi xét về khía cạnh đầu tư thì hàng tồn kho là chỉ tiêu thuộc nhóm rủi ro (nghĩa là có khả năng gây ra rủi ro cho DN) nhưng NĐT thường khó khăn trong việc có được số liệu đầy đủ, chính xác từ DN cũng như từ phía cơ quan quản lý các con số.
2. Thực trạng đầu tư vào tài sản vô hình
2.1. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực
2.1.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế.Xã hội càng phát triển thì những đòi hỏi về nguồn nhân lực càng cao. Tuy nhiên, thực trạng về nguồn nhân lực của nước ta hiện nay đang có rất nhiều bất cập.
“So với thế giới thì nước ta có tỷ lệ giữa thầy và thợ cao hơn nhiều lần, tuy nhiên nguồn nhân lực cấp cao lại ở mức khan hiếm. Chúng ta đang trong tình trạng lao động dư về lượng và yếu về chất”, Tiến sỹ Hồ Đức Hùng, Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển ĐH Kinh tế TPHCM, nhận định.
Đến cuối năm 2005, tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu người). Theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, có đến 74,7% lực lượng lao động chưa qua đào tạo; còn số lao động đã qua đào tạo cũng không hoàn toàn giỏi nghề. Chính vì vậy, năng suất của lao động VN kém lao động các nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15 lần
Theo thang điểm 10, Việt Nam được quốc tế đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đạt 3,79 điểm, đứng sau Thái Lan (4,04), Philippines (4,53), Malaysia (5,73), Ấn Độ (5,76)..."".
Theo kết quả điều tra mà Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội tiến hành trên 120 DN cho thấy, tỷ lệ lao động VN có trình độ cao đẳng - đại học trở lên, hoặc trung cấp, công nhân kỹ thuật tại các DN nhà nước lần lượt là 1- 0,95-4,27; các DN tư nhân là 1-0,73-3,86; các DN có vốn ĐTNN là 1-0,64-1,53. Đây là tỷ lệ khá lạc hậu so với các nước trên thế giới là 1-4-10. Ngoài ra, có tới 34,59% lao động kỹ thuật phải đào tạo lại hoặc bồi dưỡng theo kỹ năng .
Kết quả khảo sát của Ngân hàng Thế giới cũng cho thấy: Khoảng 50% các công ty về may mặc, hóa chất đánh giá lao động được đào tạo không đáp ứng nhu cầu của mình. Khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường CĐ cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm cần đào tạo lại ít nhất 1 năm cho khoảng 80%-90% sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng.
Một vài con số đó cũng phần nào cho ta thấy được sự cấp bách trong nguồn nhân lực hiện nay của nước ta.Chính vì nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội , do đó nhà nước đã đặt ra mục tiêu lấy con người làm trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì nhất thiêt phải đầu tư vào công tác giáo dục , đào tạo và công tác chăm sóc sức khoẻ , dịch vụ y tế nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở mọi trình độ , và bảo vệ sức khỏe cho mọi người.
2.1.2. Thực trạng đầu tư vào nguồn nhân lực
- Thực trạng đầu tư vào hệ thống giáo dục, đào tạo hiện nay
Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục liên tục tăng qua các năm. Hơn 66.000 tỉ đồng đầu tư cho giáo dục - đào tạo là con số được Bộ GD-ĐT công bố ngày 4-1-2007 tại Hà Nội. Con số này tăng 21,1% so với 55.100 tỉ đồng ngân sách đầu tư của ngành này năm 2006.Cũng trong năm 2007, Bộ GD-ĐT đã trình Chính phủ phê duyệt các đề án quan trọng bao gồm: đề án học phí mới, đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục ĐH, đề án đổi mới phương pháp giao chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ, đề án tín dụng sinh viên, đề án đào tạo 20.000 tiến sĩ đến năm 2015 và rất nhiều các dự án khác dành cho giáo dục.
Sẽ có 9 dự án giáo dục được sử dụng 850 triệu USD nguồn tiền vay và viện trợ từ các tổ chức nước ngoài trong giai đoạn 2008-2010. Đó là con số được công bố tại Hội nghị Đối thoại thường niên lần thứ 2 giữa lãnh đạo Bộ GD-ĐT và nhóm các nhà tài trợ quốc tế cho giáo dục.
Hiện nay, tổng nguồn vốn từ nước ngoài đang được sử dụng trong các dự án giáo dục tại VN là 825,4 triệu USD với tỉ lệ giải ngân năm 2007 đạt 74,15%.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân cho biết sẽ cho phép các giảng viên ký hợp đồng với hiệu trưởng để nâng tính cạnh tranh và hiệu trưởng được phép trả thù lao theo thỏa thuận với giảng viên. Như vậy, giáo sư không còn là công chức suốt đời và được tự do điều chỉnh 50% chương trình học.
Được các nhà tài trợ quốc tế đánh giá là quốc gia đi đầu trong khu vực về giáo dục hòa nhập, VN sẽ tập trung xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn theo chuẩn nghề nghiệp, đồng thời nắm bắt tâm lý của HS dân tộc thiểu số và biết tiếng dân tộc. Bộ GD-ĐT cũng đang tiến hành cung cấp miễn phí sách giáo khoa và báo cho trẻ em dân tộc. Trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở những vùng không được triển khai hỗ trợ vẫn được nhận hỗ trợ.
Trong lĩnh vực đào tạo dạy nghề ngắn hạn: Quy mô đào tạo nghề tăng nhanh, năm 2007 ước tính tuyển sinh được 1.436.500 người, trong đó trung cấp nghề là 151.000 và cao đẳng nghề là 29.500 người.Việc dạy nghề được phát triển với các mô hình dạy nghề năng động, linh hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động để đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt mô hình dạy nghề tại doanh nghiệp được triển khai trong những năm qua đã đạt được những kết quả bước đầu. Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp; hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh đều có trường dạy nghề để chủ động tạo nguồn nhân lực cho xã hội.
Bên cạnh giải pháp tài chính, Bộ GD&ĐT đánh giá cao vai trò to lớn của doanh nghiệp trong việc xây dựng và đánh giá chương trình đào tạo của nhà trường, đã chỉ đạo các trường gắn kết với doanh nghiệp, mời doanh nghiệp tham gia góp ý phát triển chương trình đào tạo. Trong quá trình đó, doanh nghiệp và nhà trường đã có tiếng nói chung về mục tiêu đào tạo gắn với chuẩn đầu ra. Việc xây dựng ngành mới, Bộ GD&ĐT yêu cầu phải có sự tham gia của đại diện doanh nghiệp để thẩm định chương trình đào tạo. Các trường muốn đăng ký mở ngành đào tạo mới đều phải chứng minh nhu cầu của thị trường việc làm hiện tại hoặc tương lai, điều kiện đảm bảo thực hiện chương trình .
Với quan điểm GD&ĐT phải là “bạn đồng hành” của doanh nghiệp, Bộ GD&ĐT ủng hộ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp gỡ, tìm đối tác liên kết đào tạo, tháo gỡ những vướng mắc, điều phối sự hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường. Đào tạo nhân lực cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD, nhà nước cam kết hỗ trợ các trường (bồi dưỡng giáo viên, nâng cấp trang thiết bị, cho vay vốn…) đào tạo theo tiêu chuẩn của doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cần thông báo sớm về nhu cầu đào tạo, tuyển dụng, mức lương dự kiến trả cho người lao động sau khi tốt nghiệp.
Vậy muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách hiệu quả thì phải có sự kết hợp của ba “nhà” : Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp.
- Thực trạng đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế
Theo bộ trưởng bộ y tế Nguyễn Quốc Triệu thì “ Đầu tư cho y tế chính là đầu tư cho phát triển”. Chính vì vậy , trong những năm gần đây , công tác chăm sóc sức khỏe và y tế được chú trọng , và góp phần không nhỏ cho sự phát triển của nguồn nhân lực .
Trong 3 năm qua , thực hiện 7 giải pháp được đề ra trong nghị quyết 46 và chỉ thị 06 Chính phủ , công tác quy hoạch phát triển hệ thống y tế ở nước ta được tiến hành khẩn trương và khá đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.Mạng lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố và hoàn thiện cả về cơ sở vật chất ,trang bị và cán bộ.Ngành Y tế đã đầu tư nâng cấp trang thiết bị cho các cơ sở thuộc các lĩnh vực: y tế dự phòng, khám chữa bệnh, y dược học cổ truyền, đào tạo nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc và trang th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình.doc