Đề tài Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp

Tờ báo Businessweek kết hợp với Interband và một số cố vấn nhãn hiệu hàng đầu thế giới để đưa ra bảng xếp hạng 100 nhãn hiệu hàng đầu thế giới (tính theo USD). Những công ty được xếp hạng năm nay là những công ty xây dựng niềm tin từ công chúng xung quanh các sản phẩm của họ để tạo ra "các nhãn hiệu yêu thích", cho phép khách hàng cảm thấy như thể họ làm chủ nhãn hiệu đó. Ưu thế công nghệ của các công ty đã làm tốt như bốn công ty của tốp năm nhãn hiệu lớn nhất về giá trị là từ lĩnh vực công nghệ, trong khi nhãn hiệu lâu năm như Coca Cola, Microsoft, Disney và Ford vẫn có được những uy tín mạnh trên thị trường quốc tế.

docx31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2199 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Sự đầu tư đồng bộ giữa tài sản vô hình và tài sản hữu hình là điều tối quan trọng trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nó quyết định sức sản xuất, tiêu thụ và trưởng thành của doanh nghiệp. Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể, tuỳ vào cách thức định vị sản phẩm trên thị trường mà doanh nghiệp xác định chiến lược đầu tư phù hợp giữa tài sả Khi một sự kết hợp thương hiệu mạnh có thể làm gia tăng giá trị tập đoàn và thiết lập kế hoạch lâu dài, tạo dựng một vị thế độc đáo trên thị trường và đánh bóng tên tuổi công ty và đặc biệt là làm tăng tiềm năng lãnh đạo trong tập đoàn. Bởi thế sự kết hợp thương hiệu có thể làm gia tăng ảnh hưởng lên tài sản hữu hình và tài sản vô hình dẫn tới việc thương hiệu sẽ vượt trội thông qua tập đoàn. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TSHH,TSVH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TSHH VÀ TSVH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY 1.1 ) Nhận thức của các doanh nghiệp về đầu tư vào TSHH và TSVH Phần lớn các doanh nghiệp VIẸT NAM chưa nhận thức đúng giá trị thực tế của tài sản sở hữu trí tuệ. Đơn đăng kí sở hữư trí tuệ mà cơ quan quản lí nhận được ở nhãn hiệu hàng hoá là 58.12% văn bằng bảo hộ sáng chế -4.5%kiểu dáng công nghiệp -84.3% Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ (SHTT) luôn là vấn đề thời sự và được các doanh nghiệp làm ăn chân chính quan tâm. SHTT là tài sản vô hình nhưng có giá trị to lớn. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã phải bỏ ra chi phí rất lớn để thiết lập được thương hiệu, hệ thống bảo hộ như: bảo hộ quyền sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, tên xuất xứ, chỉ dẫn địa lý… Đó chính là những cam kết quan trọng của doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm đối với khách hàng. Điều dễ nhận thấy là, những sản phẩm có thương hiệu, được bảo hộ quyền SHTT sẽ có giá thành cao hơn so với các sản phẩm cùng loại mà không được bảo hộ quyền SHTT. Do đó, nhiều Doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc đã không khỏi lao đao trước nạn hàng giả, hàng nhái còn người tiêu dùng thì mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng mà không biết Đây cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các Doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì cần phải xây dựng thương hiệu và đăng ký quyền SHTT cho sản phẩm. Như vậy, Doanh nghiệp mới tránh được những “rủi ro” không đáng có trên thương trường. Tuy nhiên, trong thời gian tới, với làn sóng các Doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam sẽ không còn “chỗ đứng” cho những sản phẩm làm giả, làm nhái và khẳng định tầm quan trọng của SHTT trong nền kinh tế hội nhập. Song vấn đề này chưa được nhiều Doanh nghiệp Việt Nam thực sự quan tâm. Việt Nam đã gia nhập WTO, để hạn chế thấp nhất các rủi ro liên quan đến các vụ kiện pháp lý về SHTT các Doanh nghiệp phải có chiến lược quan tâm, đầu tư thoả đáng đến SHTT, từ việc đặt tên Doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh cho đến việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ công nghệ, kiểu dáng, nhãn hiệu… để tránh lâm vào tình trạng vi phạm pháp luật. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp có hàng hoá, sản phẩm xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ pháp luật SHTT của thị trường mà Doanh nghiệp xuất khẩu, vừa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân doanh nghiệp vừa không xâm phạm đến quyền SHTT của Doanh nghiệp khác. Vì thế, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững phải xây dựng và quảng bá thương hiệu của chính mình. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hầu như chúng ta chỉ biết đến giá trị hữu hình của doanh nghiệp mà chưa quan tâm đến giá trị vô hình. Hơn nữa, tài sản hữu hình của doanh nghiệp quá lạc hậu, cũ nát, đã khấu hao gần hết… nên giá trị của nó chẳng đáng bao nhiêu. Theo số liệu thống kê 1990, toàn bộ giá trị (thực chất chỉ là giá trị hữu hình) của gần 6000 doanh nghiệp nhà nước của nước ta chỉ bằng giá trị của một hãng kinh doanh cỡ lớn trung bình của nước phát triển. Đến nay, việc không tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp đã gây ra thiệt hại to lớn: + Mất vốn khi cổ phần hoá hoặc khi hoặc khi bán doanh nghiệp nhà nước cho các thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước Trong trường hợp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo quy định tuy có tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp dưới tên gọi là “giá trị lợi thế”, nhưng trong thực tế việc mất mát xảy ra rất lớn, ví dụ như trường hợp cổ phần hoá công ty khách sạn Tràng Tiền. Công ty này đặt trên khuôn viên 1500 m2 đất ở vào vị trí đẹp nhất Hà Nội với 2600 m2 xây dung, đó là chưa kể đến máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị của nhà hàng, nếu tính rẻ cũng phảI trăm tỷ đồng. Thế nhưng khi định giá, toàn bộ cơ ngơi ấy được tính 3,2 tỷ đồng. Số vốn đIều lệ ấy được chia thành 32000 cổ phiếu (mệnh giá 100000 đồng) và chia cho cán bộ công nhân viên theo năm công tác. Số còn lại ưu tiên trong nội bộ, sau đó mới bán ra ngoài. ĐIều đáng nói là sau đó cổ phiếu của công ty cổ phần Tràng Tiền được ồ ạt bán ra với giá cao gấp hàng chục mệnh giá ban đầu.Cho tới cuối năm 2001 có 80% cổ phiếu do người lao động nắm giữ đã bán cho các ông chủ tư nhân. Thực ra, không phải người ta mua cổ phiếu mà là mua đất! Với diện tích đất rộng 2600 m2 nằm ngay giữa lòng thủ đô, vào thời đIểm hiện nay giá mỗi mét vuông đất lên tới 20, 30 cây vàng thì tài sản của công ty không phải là nhỏ. Sự việc tương tự đã xảy ra ở nhiều nơI khác, không chỉ Hà Nội mà ở thành phố Hồ Chí Minh và cả các địa phương khác đều có. + Hạ thấp tỉ trọng vốn góp trong của phía Việt Nam trong liên doanh với nước ngoài do không tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp hay chưa nhận thức đúng giá trị tài sản vô hình. Trong các liên doanh, phía Việt Nam góp vốn phần lớn bằng đất và thường góp một lần ngay khi dự án bắt đầu triển khai. Thời gian gần đây khi giá thuê đất được giảm nhiều, phía Việt Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất càng thấy phần vốn của mình thu nhỏ lại. Quyết định số 179/1988/QĐ-BTC ngày 24-2-1998 của Bộ tài chính (về việc ban hành Bản quy định về tiền thuê đất, mặt biển đối với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoàI tại Việt Nam) đã giảm tiền thuê đất từ 20% đến 70% so với mức giá quy định tại quyết định 1417/TC/QĐ-TCĐN của bộ trước đó. Trong khi định giá để góp vốn vào liên doanh, các công ty Việt Nam thường chỉ chú ý vào tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến tài sản vô hình: uy tín, tên tuổi công ty, thương hiệu, các quyến sở hữu trí tuệ, địa thế thuận lợi … Thậm chí các công ty Việt Nam chưa hề để ý đến các vấn đề này và cho đó là chuyện không cần lưu ý. Song trên thực tế, đây lại là một việc rất phải chú ý đến, và giá trị tài sản vô hình là rất lớn, có khi nó còn gấp nhiều lần giá trị tài sản vô hình. Vì tài sản trí tuệ thường có giá trị rất cao nên các công ty nước ngoài đều rất quan tâm đến việc bảo vệ và phát triển tàI sản đó. Trong các liên doanh, giá nhãn hiệu thường chiếm một khoản giá trị lớn, có công ty đi góp vốn vào hàng chục liên doanh ở các nước chỉ bằng nhãn hiệu. Hàng hoá mang nhãn hiệu đó có khi xuất hiện ở hàng chục nước cũng chỉ do họ nhượng thương hiệu cho các công ty sản xuất khác mà thôi. Nước ta, một số trường hợp liên doanh ít ỏi đã xác định giá trị nhãn hiệu, đó là trường hợp Công ty bia Việt Hà, khi góp vốn liên doanh với nước ngoài đã tính được giá trị của nhãn bia Halida là 550.000 USD. Còn trường hợp công ty P/S tính được trị giá nhãn hiệu là 5,3 triệu USD … Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, giá trị của nhãn bia Sài Gòn còn có thể cao hơn mức này, và có thể dùng để góp nhiều lần trong các liên doanh Trong khi đầu tư thương hiệu dù liên doanh lãi hay lỗ, công ty mẹ (thuộc phía nước ngoài) vẫn được lợi nhuận từ việc bán nguyên vật liệu cho liên doanh, và bao gồm cả chi phí nhãn hiệu mà liên doanh đã đồng ý ký hợp đồng sản xuất và phân phối các sản phẩm mang tên nhãn hiệu đó. Nhất là trong trường hợp công ty mẹ đặt giá bán nguyên vật liệu cao hơn thực tế do tính độc quyền của nhãn hiệu. Như là trong liên doanh lắp ráp ôtô đều là nhà sản xuất các bộ linh kiện CKD2 để lắp ráp nên họ độc quyền cung cấp và cũng độc quỳên định giá bán cao cho các bộ linh kiện này. Xe ôtô Carolla lắp ráp tại Việt Nam mặc dù được miễn thuế tiêu thụ đặc biệt, bán đắt gấp hai lần xe cùng loại tại Nhật nhưng liên doanh vẫn bị thua lỗ. Liên doanh CocaCola độc quyền về cung cấp Consentrate pha chế nên họ tự định giá cao cho nguyên liệu đầu vào. Như vậy đối với các công ty nước ngoài ngay cả trường hợp liên doanh bị lỗ vốn do bán phá giá và chi phí tiếp thị cao để chiếm lĩnh thị trường nội địa, thì phía nước ngoàI ở liên doanh cũng không lỗ vốn, bởi vì họ đã thu đủ qua việc tính giá cung cấp nguyên vật liệu và thu được khoản lãi có từ sự khẳng định vị trí thương hiệu và tương lai sản phẩm của họ thống lĩnh thị trường. Chỉ có phía Việt Nam là lỗ vốn thực sự. + Nhà nước bị thất thu thuế thông qua hành động chuyển giá của các công ty đa quốc gia Tóm lại, gía trị tài sản vô hình của doanh nghiệp là rất lớn. Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay giá trị của nó còn cao hơn rất nhiều giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có sự thay đổi tư duy kịp thời để có cơ cấu đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp sao cho phù hợp nhất Cơ cấu tài sản doanh nghiệp 31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003 TSLĐ và ĐT ngắn hạn TSCĐ và ĐT dài hạn TSLĐ và ĐT ngắn hạn TSCĐ và ĐT dài hạn TSLĐ và ĐT ngắn hạn TSCĐ và ĐT dài hạn Tổng số 77444 476515 888413 552326 1079053 645505 1.Khuvực DNNN +Trung ương +Địa phương 558271 499323 58948 263152 213736 49417 586079 508118 77960 309083 249964 59119 636338 605238 81300 332076 268445 63631 2.Khuvựcngoài NN +DN tập thể +DN tư nhân +CTy hợp doanh +CTyTNHHtư nhân +CTY cổ phần có vốn NN +CTcổ phần không có vốnNN 110532 4582 14531 61 51194 21658 18560 51050 4083. 9970 49 24762 7391 4843 164718 5782 19542 53 81467 33542 24333 72663 4295 11928 44 38256 9937 8203 234209 7417 23695 1598 110310 50752 40442 102946 4649 14918 255 53213 12291 17619 3Khu vực có V ĐTnước ngoài + 100% vốn nước ngoài + DN liên doanh với nước ngoài 105642 56432 49210 162313 56094 106219 137617 76689 60927 170579 68320 102259 158306 91845 666460 210483 83981 126502 (Nguồn: niên giám thống kê 2005) 1.2 )Thực trạng đầu tư vào TSHH 1.2.1 ) Thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng : Việt Nam đã thành công xuất sắc trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể phục vụ được tất cả mọi người. Các chính sách và thể chế trước đây thành công bây giờ phải được điều chỉnh vì sự phát triển của Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn.“Việt Nam đã thành công lớn trong việc đảm bảo lợi ích từ các đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chia sẻ trên khắp đất nước, và các đầu tư này đã hỗ trợ cho phát triển nhanh chóng, tăng tiếp cận đến các dịch vụ cơ bản, và giảm nghèo,Tuy nhiên, cũng có những thách thức mới nổi lên, ví dụ như sự cần thiết phải huy động các nguồn vốn mới, đô thị hóa tăng nhanh, các vấn đề về môi trường, và càng ngày càng thấy có nhiểu vấn đề về quản lý điều hành.” con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế Gi á đất tại Hà Nội và vùng lân cận rất đắt. Ước tính gần đây cho thấy giá một mét vuông đất ở Hà Nội hoặc các tỉnh lân cận cao gần bằng Nhật Bản, trong khi thu nhập quốc dân đầu người rất thấp Đây là một biến dạng kinh khủng gây khó khăn cho quá trình đầu tư Mặc dù đất nông nghiệp thì còn nhiều, thu nhập từ nông nghiệp vô cùng ít ỏi, và giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp thấp, nhưng không dễ gì bán đất nông nghiệp và chuyển sang các mục đích dụng khác cho giá trị cao hơn như thương mại, công nghiệp và nhà ở. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn. Nông dân không muốn giao đất theo mức đền bù dựa trên giá trị “cũ” là đất nông nghiệp- thường chỉ chưa đầy 1 đôla/m 2-mà chỉ muốn bán với giá đất phi nông nghiệp. Ngay ở các tỉnh mức giá này cũng có thể lên tới trên 100 US đôla 1 m và đôi khi tới trên 1.000 US đôla! (Xem bảng dưới đây về các mức giá đất đại diện, ba nhóm đầu tiên là đất cho xây dựng nhà máy). Khó khăn về đền bù đã dẫn đến những trì hoãn và tranh chấp kéo dài ở các tỉnh quanh Hà Nội- những vấn đề đó có thể làm trì trệ đầu tư và tăng trưởng. STT Nhóm loại Giá trên 1m Chú thích 1 Đất trong khu công nghiệp, có cơ sở hạ tầng $28-$35 Cho 50 năm 2 Đất trong khu công nghiệp, chưa có cơ sở hạ tầng (thường không có sẵn) $0.5-$1 Cho 50 năm, có thể miễn giảm trong 5-10 năm ưu đãi đầu. 3 Đất cạnh khu công nghiệp, chưa có cơ sở hạ tầng (nhiều vấn đề về giải tỏa đất) $0.5-$1 Cho 50 năm, có thể ưu đãi miễn giảm 4 Đất phi nông nghiệp trong các trong 5-10 năm đầu. làng nghề (giá thị trường) $150-300 Có giấy chứngnhậnquyền sử dụng đất cho 50 năm 5Giá đất thổ cư trong các khu đô thị mới tại các tỉnh $500-2000 Không hạn chế thời 6 Đất nông nghiệp (ước tính giá trị) $0.5 gian sửdụng. Do vậy vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề rất nan giải . 1.2.2 ) Thực trạng đầu tư vào máy móc thiết bị và phương tiện vận tải Hiện nay, đầu tư cho phương tiện vận tải của doanh nghiệp cũng tăng lên đáng kể, do doanh nghiệp được phân bố ở các khu công nghiệp cách xa nơi tiêu thụ, nguồn lao động: xe chuyên chở công nhân , hay nguồn nguyên liệu... ngày càng nhiều các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, sửa chữa. Trong cơ cấu đầu tư, đầu tư cho phương tiện vận tải của các doanh nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ ) Thực trạng đầu tư vào TSVH : ) Thực trạng đầu tư vào thương hiệu A ) Đánh giá tình hình đầu tư vào thương hiệu A .1 )Tình hình thương hiệu VIỆT : Trong nền kinh tế hội nhập, thương hiệu của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn luôn bị đe doạ bởi các doanh nghiệp khác - nhất làcác doanh nghiệp nước ngoài, cùng lĩnh vực kinh doanh luôn tìm cách hạthấp thương hiệu doanh nghiệp của đối thủ để chiếm vị trí thống lĩnh của mình. Hơn nữa các doanh nghiệp nước ngoài đã có thương hiệu khá mạnh với kinh nghiệm gìn giữ và quảng bá phát triển thương hiệu hàng trăm năm thì việc tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải đối mặt với sự hao mòn vô hình là khó tránh khỏi... Có rất nhiều yếu tố làm cho tài sản thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bị hao mòn hoặc mất đi nếu như doanh nghiệp không biết cách bảo quản, gìn giữ và phát triển thương hiệu của mình. Mặt khác, tâm lý người Việt Nam ta hay “sính ngoại” đây cũng là yếu tố có lợi cho các thương hiệu ngoại và là rào cản mà các thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách vượt qua Trong 15 năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà các doanh nghiệp Việt Nam đã khá thành công trong việc đưa một số hàng như: gạo, cà phê, thuỷ sản vào Châu Âu…nhiều mặt khác ỏnh cũng đang được mở rộng, nhưng mặt tráI của các doanh nghiệp này là quá chú trọng về số lượng trong khi vấn đề thương hiệu chưa được quan tâm. Cụ thể Việt Nam, đến cuối 2002 cục sở hữu công nghiệp đã cấp trên 100000 thương hiệu nhưng chỉ có 1600 của các doanh nghiệp Việt Nam. So với 90000 doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trên cả nước, con số này còn quá ít. Trong cuộc bình chọn năm 2003 do câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức có 3.075 doanh nghiệp được người tiêu dùng nêu tên nhưng chỉ có 447 doanh nghiệp với những tiêu chí do các chuyen gia ngành hàng Việt Nam bình chọn đạt danh hiệu chất lượng cao trên cơ sở thanm khảo ý kiến người tiêu dùng, trong đó có Vinamilk, bitis, điện quang, Đồng Tâm, Kinh Đô là những thương hiệu được người tiêu dùng tín nhiệm nhiều năm. Tuy nhiên, những thương hiệu mạnh này mới mạnh với người tiêu dùng trong nước.Vấn đề đặt ra là làm sao cho những thương hiệu hàng hoá Việt Nam đi xa hơn, đến được với người tiêu dùng nhiều nước trên thế giới. Đó là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, 10 thương hiệu Việt Nam có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai: Kinh Đô, Flex, Sachi, Sá xị, Bảo Việt, bia Hà Nội, Vinamilk, Milk, 333, Jak.Sự kiện Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall’s cùng toàn bộ nhà máy, dây chuyền sản xuất của Nhà máy Kem Wall’s của Tập đoàn Unilever được giới chuyên gia đánh giá cao về tính nhạy bén thị trường trong chiến lược kinh doanh của Kinh Đô. Nhiều người cho rằng, đây là tín hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp (DN) nội địa đã tiếp cận tính chuyên nghiệp trong đầu tư vào thương hiệu. Trong khi đó một số trương hợp đáng tiếc của một số thương hiệu VIET dã bi mất đi hoac là chịu tổn thất nặng nề khi không quan tâm đuáng mức đén việc đầu tư xây dựng và bảo vệ thương hiệu . Điển hình là trường hợp café TRUNG NGUYÊN khi không quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ thương hiẹu cảu mình và đã bị một số cong ty nước ngoài gây khó khăn,lam dụng 1 phần tài sản về thương hiệu.Nguy cơ bị mất thương hiệu ngày càng lớn và ban lãnh đạo công ty đã phải quyết định bỏ ra 17 tỷ đòng việt nam để mua lại và làm rõ quyền sở hữu thương hiệu café TRUNG NGUYÊN. Đây cũng là bài học cảnh tỉnh cho các thương hiệu VIỆT khi ra nhập vào WTO. A .2 ) Tình hình của các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới Trên thế giới một số các thương hiệu nổi tiéng đã gặp phải rất nhiều khó khăn,nhiều thương hiệu lớn đã phải trả cái giá bằng cả tài sản thương hiệu của mình: Nguyên tắc khô cứng dẫn đến thất bại tai hại : Hugo Boss, tập đoàn thời trang của Đức, gần đây vừa tuyên bố về việc sẽ ngưng sản xuất trang phục cao cấp dành cho đàn ông dưới cái tên Baldessarini ngay sau khi giới thiệu bộ sưu tập xuân – hè 2007. Lãnh đạo công ty chỉ thông báo ngắn gọn là “Baldessarini hiện nay đã không còn phù hợp với cơ cấu và đường lối kinh doanh của chúng tôi nữa”. Thương hiệu Baldessarini ra đời từ năm 1993 và chỉ tính riêng năm 2004, nó đã mang về cho Hugo Boss 17 triệu EUR. Trong khi toàn bộ sản phẩm quần áo thời trang có nhãn Hugo Boss (doanh thu trên 1 tỷ EUR trong năm 2005) được làm từ khắp mọi nơi trên thế giới và dây chuyền sản xuất có thể được gọi tên là “xuyên quốc gia”, thì những vật dụng mang tên Baldessarini vẫn chỉ được thiết kế và cắt may tại một xưởng duy nhất. Cuối cùng là chính sự cứng nhắc đó đã giết chết cái tên Baldessarini, khi viễn cảnh phát triển thương hiệu đã bị thu hẹp ngay từ lúc đầu. Lãnh đạo của hãng thời trang Đức này hiện nay đang tích cực quảng bá cho một thương hiệu cao cấp khác có tên Boss Selection. Tuy vậy, việc công ty Hugo Boss “chôn vùi” thương hiệu Baldessarini không hề ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của dòng nước hoa cùng tên do Procter&Gamble sản xuất. Sự già cỗi và mệt lỏi của một thương hiệu: Do hầu như không có khách hàng mà năm 2004, thương hiệu xe hơi lâu đời nhất nước Mỹ Oldsmobile (ra đời vào năm 1897, trước Cadillac và Ford đến 6 năm) buộc phải rút lui khỏi thị trường. Theo lời của người đại diện cho công ty General Motors, chủ sở hữu của thương hiệu từng một thời là niềm mơ ước của biết bao nhiêu người này, thì doanh số bán hàng của Oldsmobile trong 5 năm cuối cùng đã sụt giảm ghê gớm. Trong những năm 1980 – 1990, General Motors vẫn còn bán được khoảng 1 triệu chiếc xe nhãn hiệu Oldsmobile mỗi năm. Nhưng đến năm 2004, cho dù đã nỗ lực hết sức, lượng hàng bán ra cũng chỉ đạt 250 ngàn chiếc, mặc dù so với mặt bằng chung tại Mỹ thì mức giá 20 ngàn USD không phải là quá cao. “lúc sống thì chẳng cho ăn ..” Được mệnh danh là “người đi tiên phong” trong thị trường máy tính cá nhân, công ty IBM vào tháng 12- 2004 đã tuyên bố chấm dứt việc sản xuất máy tính cá nhân. Một trong những lý do chính được lãnh đạo công ty đưa ra là tốc độ bán hàng ngày càng chậm dẫn đến lợi nhuận giảm mạnh. Việc sản xuất PC của IBM bắt đầu từ năm 1981, nhưng trong vòng 10 năm kế tiếp, hãng lại không mấy quan tâm đến mảng này mà chỉ tập trung nghiên cứu phát triển các thiết bị phần cứng và tối ưu hóa các dịch vụ cung cấp. Mảng máy tính cá nhân của IBM sau đó được một công ty Trung Quốc có tên là Lenovo mua lại và nhờ chính sản phẩm này mà công ty đã vươn lên giữ vị trí thứ ba trên thế giới về sản xuất máy tính cá nhân.  Nhân tố dị chủng : Sau 40 năm thành công rực rỡ trên thị trường thời trang cao cấp, nhà mốt Yves Saint Laurent đã phải đóng cửa vĩnh viễn vào năm 2002. Bản thân ông chủ và là người sáng lập ra nhãn hiệu này, ông Yves Saint Laurent, cho biết ông đi đến quyết định như vậy vì lý do tuổi tác và sức khỏe. Thế nhưng đa số các đại diện của giới kinh doanh thời trang nước Pháp đều biết rõ nguyên nhân thực sự mà người chủ không muốn tiết lộ: đó là mối mâu thuẫn giữa Yves Saint Laurent và đối tác tài chính – chủ nhân tập đoàn Gucci, Francois Pinault. “Giọt nước làm tràn ly” chính là đòi hỏi của Pinault để giám đốc sáng tạo của Gucci, Tom Ford, giữ vai trò nhà thiết kế chính của dòng sản phẩm pret-a-porter (trang phục phổ thông) tại nhà mốt mang tên Yves Saint Laurent.  Tính đỏng dảnh của công chúng : Việc tạp chí Life quyết định ngừng xuất bản vào năm 2000 được giải thích bằng sự lạnh nhạt của độc giả đối với ấn phẩm này. Ra mắt lần đầu tiên cách đây 64 năm, tạp chí Life đã trở thành một phần trong đời sống văn hóa của dân chúng Mỹ. Số phận của “Cuộc sống” này cũng khá lận đận, khi nó đã buộc phải đóng cửa một lần vào năm 1972. 10 năm sau, tạp chí được khôi phục tuy chỉ có thể ra mỗi tháng một kỳ, thay vì là tuần báo như trước đây. Thế nhưng việc thay đổi này không thực sự cứu được Life. Theo lời thú nhận của cơ quan đại diện của tạp chí, công ty Time Inc. thuộc tập đoàn truyền thông Time Warner, tạp chí Life không đến nỗi phải chịu lỗ, chỉ có điều các chi phí xuất bản tăng nhanh hơn những lợi nhuận mà tờ báo này mang lại. Có thể nói, tất cả các doanh nghiệp đều ra đời theo một vài trình tự nhất định và giống nhau, nhưng nguyên nhân buộc nó chấm dứt hoạt động thì lại có muôn vàn. Sự rút lui của các “đại gia” không chỉ là những sự kiện khiến cho mọi người chú ý, mà còn là lời cảnh báo cho các công ty còn đang hoạt động trong thị trường đầy biến động với mức độ cạnh tranh ngày càng cao như hiện nay. Những “tấm gương tày liếp” trên đây sẽ là bài học không bao giờ cũ để các doanh nhân soi vào và rút kinh nghiệm cho chính mình Vị thế các thương hiệu trên thế giới: Tờ báo Businessweek kết hợp với Interband và một số cố vấn nhãn hiệu hàng đầu thế giới để đưa ra bảng xếp hạng 100 nhãn hiệu hàng đầu thế giới (tính theo USD). Những công ty được xếp hạng năm nay là những công ty xây dựng niềm tin từ công chúng xung quanh các sản phẩm của họ để tạo ra "các nhãn hiệu yêu thích", cho phép khách hàng cảm thấy như thể họ làm chủ nhãn hiệu đó. Ưu thế công nghệ của các công ty đã làm tốt như bốn công ty của tốp năm nhãn hiệu lớn nhất về giá trị là từ lĩnh vực công nghệ, trong khi nhãn hiệu lâu năm như Coca Cola, Microsoft, Disney và Ford vẫn có được những uy tín mạnh trên thị trường quốc tế. Dựa trên nhãn hiệu trung thành nhất và sức bán mạnh nhất của iPod, Apple (xếp thứ 43) là một nhãn hiệu có sự chuyển biến lớn tăng 24% giá trị nhãn hiệu. Các nhãn hiệu được xếp hàng khác bao gồm Yahoo! xếp thứ 61 (tăng 17%); Amazon xếp thứ 66 (tăng 22%); SamSung xếp hạng thứ 21 (tăng 16%); và HSBC xếp thứ 33 (tăng 15%). Công ty bán đấu giá qua mạng eBay lần đầu tiên xuất hiện trong bảng danh sách năm nay và xếp vào vị trí thứ 60. Theo Businessweek, điều này làm cho những nhãn hiệu đã được xây dựng từ lâu như nhãn hiệu hàng đầu thế giới Coca Cola và nhãn hiệu thứ hai thế giới Microsoft đã bắt đầu nhận ra sự cần thiết của việc phát triển các mối quan hệ với khách hàng. Microsoft đã bắt đầu mở các cửa hàng kinh doanh nhỏ tại các phòng chờ sân bay và Coca Cola cũng đã nhanh chóng thể hiện sự nhạy bén của mình bằng việc đưa vào sử dụng hàng loạt các cửa hàng mang tên "Coke Red Loungé" hợp với thị hiếu của giới trẻ các nước. Phản ánh sự khôi phục của nền kinh tế thế giới, tất cả các giá trị nhãn hiệu đều tăng 2,2%. Mặc dù các hãng của Mỹ vẫn nắm giữ 8 trong 10 vị trí đầu bảng, trong khi đó hầu hết các giá trị nhãn hiệu của các công ty Mỹ trong bảng đã giảm từ 64 xuống 58%. Sự cải thiện về kinh tế thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ tài chính trong năm. Hãng đầu tư nhà Goidman Sachs đã tăng 13% giá trị thương hiệu và xếp vị trí 37. Những nhãn hiệu khoẻ trong ngành này bao gồm J.P Morgan, xếp vị trí 30 (tăng 7%); Morgan Stanley Lynch xếp thứ 26 (tăng 9%). McDonalds đã giữ được vị trí hàng đầu về kinh doanh đồ ăn nhanh, đạt 1% giá trị nhãn hiệu và chuyển tới vị trí thứ 7 trong bảng xếp hạng. Trong lĩnh vực sản xuất ô tô cũng có sự chuyển dịch đáng kể. Toyota đã loại nhãn hiệu sang trọng Mescedes (Luxury brand behemonth Mescedes) đã bị loại ra khỏi tốp 10 nhãn hiệu đứng đầu. Mescedes, bị nghi ngờ về chất lượng và việc sản xuất tạm lắng xuống khiến cho sản lượng ôtô bán giảm nhẹ trong năm 2003. Toyota, thì ngược lại, theo đuổi việc vượt qua Ford về sản lượng bán hàng trên toàn thế giới. Việc Mỹ yếu kém trong các nhãn hiệu ô tô đã trở nên rõ ràng hơn. Hãng ô tô Ford đã giảm 15% giá trị nhãn hiệu do việc tăng cường cạnh tranh trên thị trường Mỹ và đã tiếp tục yếu đi trên các thị trường châu Âu. Ngược lại, Audi đang giữ vị trí đứng đầu trên thị trường châu Á tạo ra một

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp.docx
Tài liệu liên quan