Lời nói đầu 1
A/Một số vấn đề cơ bản về đầu tư nước ngoài 2
Khái niệm về đầu tư nước ngoài 2
Đặc điểm 2
B/Tình hình đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển 2
I/Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 2
1.Khái niệm FDI 2
2.Hình thức FDI 3
II/Hỗ trợ phát triển chính thức ODA 5
1.Khái niệm ODA 5
2.Hình thức ODA 5
C.Những quan điểm của các quan chức chính phủ và 1 số nhà chính trị ở các nước đang phát triển về đầu tư nước ngoài 6
I/Các quan chức chính phủ mong đợi thu hút đầu tư nước ngoài 6
1.Đối với FDI 6
2.Đối với ODA 13
II/Một số quan điểm lo ngại của các nhà chính trị 16
Kết luận 19
23 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ở một số nước đang phát triển, trong khi các quan chức chính phủ mong đợi thu hút đầu tư nước ngoài thì một số nhà chính trị lại tỏ ra dè dặt lo ngại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y ở nhiều quốc gia khác nhau. Đây cũng sẽ là xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong một tương lai gần,xu hướng của sự phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế.
DNLD là loại hình được chủ nhà ưa chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đào tạo lao động, tiếp cận dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt hiệu quả mong muốn. Xu hướng chung của tất cả các nước là muốn tăng dần tỷ lệ góp vốn của nước sở tại trong quá trình liên doanh từ đó nâng cao tính chủ động trong việc cùng đưa ra những quyết định nhằm kiểm soát và quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hình thức này lại ngày càng mất đi sự quan tâm của chủ ĐTNN vì những phiền phức do nguyên tắc nhất trí trong quản lý, đối tác tác đầu tư chưa ngang tầm...
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài lúc đầu không được người nước ngoài ưa thích vì do chưa nắm rõ tình hình và luật pháp nước sở tại, họ muốn chia sẻ rủi ro với nước chủ nhà; mặt khác, nước chủ nhà cũng không thích hình thức này vì họ muốn được chia sẻ lợi ích, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Song cho đến nay, hình thức này lại được các nhà ĐTNN lựa chọn ngày càng nhiều vì nó có phần dễ thực hiện và thuận lợi hơn cho họ. Chủ ĐTNN có thể sự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do các thành quả đầu tư mang lại. Còn đối với nước sở tại, mặc dù hình thức này chỉ đem lại cho họ những lợi ích trước mắt song họ buộc phải chấp nhận để cạnh tranh thu hút FDI trong bối cảnh tự do hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng.
II/HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA
1/Khái niệm:
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB...) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài.
2/Hình thức ODA:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ. Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA CÁC QUAN CHỨC CHÍNH PHỦ VÀ 1 SỐ NHÀ CHÍNH TRỊ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ NUỚC NGOÀI:
I/CÁC QUAN CHỨC CHÍNH PHỦ MONG ĐỢI THU HÚT ĐẦU TƯ NUỚC NGOÀI:
1/Đối với FDI:
Nguồn lợi mà FDI đem lại cho nước nhận đầu tư là rất lớn:
* Trước hết, FDI bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển ở trong nước thông qua quá trình chuyển giao vốn.
Vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Song đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ thấp, nguồn vốn tích luỹ còn hạn hẹp thì vốn ĐTNN đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế. Ở những nước này thường có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện để khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo bằng cách tăng cường đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này, các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong khi đó, trên thế giới có rất nhiều nước nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài, đó chính là cơ hội để các nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn ĐTNN phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế của quốc gia mình
* Không chỉ thế, FDI còn góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ từ những nước phát triển (nước chủ đầu tư) sang các nước kém phát triển hơn (nước nhận đầu tư).
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn bằng hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... (còn gọi là công nghệ cứng) và cả vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường ... (còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động FDI, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Với các nước đang phát triển, do trình độ còn hạn chế cho nên việc tự nghiên cứu để phát triển khoa học công nghệ cho kịp với trình độ của các nước phát triển là việc khó khăn và tốn kém. Chính vì vậy, con đường nhanh nhất đối với các nước này là phải tận dụng những thành tựu KHCN tiên tiến của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Việc tiếp nhận FDI chính là một phương thức giúp các nước đang phát triển tiếp thu được trình độ KHCN hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại đến đâu lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
* FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước này thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biến nó thành các nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
* FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu
Trong quá trình hoạt động, FDI cũng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư: thứ nhất, FDI làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới ở nước nhận đầu tư; thứ hai, FDI kích thích một số ngành phát triển song bên cạnh đó cũng làm cho nhiều ngành dần bị mất đi do không phù hợp với tình hình mới, FDI cũng góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở nhiều ngành kinh tế đồng thời làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế.
* Bên cạnh đó, FDI còn góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước, mở rộng thị trường cả trong nước và quốc tế, tăng khả năng sản xuất và nhập khẩu hàng hoá. Về mặt xã hội, FDI tạo thêm nhiều việc làm cho nước nhận đầu tư, giảm bớt nạn thất nghiệp ở những nước này.
VÍ DỤ: VỚI VIỆT NAM:
Ở Việt Nam từ khi ban hành luật ĐTNN đến nay đã được 13 năm. Trong khoảng thời gian đó, FDI vào Việt Nam có những bước thăng trầm. Mặc dù số thời gian chưa đủ dài để đánh giá hết những gì thành công và chưa thành công trong lĩnh vực này song việc thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam trong 13 năm qua đã có những tác động khá sâu sắc đối với nền kinh tế của đất nước.
a- FDI đã bước đầu bổ sung thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển
Có thể nói, tỷ lệ vốn tích luỹ từ trong nước còn ở mức thấp là một trở ngại lớn cho quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội. Vì thế, thu hút FDI là một hình thức huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn 1996 - 2000, vốn FDI chiếm khoảng 31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam (khoảng 22,4 đến 23,0 tỷ USD). Dự tính giai đoạn 2001 - 2005, tỷ trọng này sẽ là 36,9% (24,2 - 26,0 tỷ USD).
Trong khi đó, "vốn từ ngân sách Nhà nước chỉ chiếm tỷ trọng là 21% (giai đoạn 1996 - 2000) và 18,5% (giai đoạn 2001 - 2005); vốn tín dụng Nhà nước là 16,6% và 14,3% trong giai đoạn tương tự; phần còn lại là nguồn vốn từ doanh nghiệp Nhà nước và vốn từ dân cư và tư nhân"
. Thực tế cũng đã chứng minh qua các dự án liên doanh được cấp giấy phép đầu tư, số vốn do phía Việt Nam đóng góp chỉ chiếm 25 - 30% mà chủ yếu cũng bằng quyền sử dụng đất, giá trị nhà xưởng, rất ít tiền mặt, 70 - 75% còn lại là vốn của các đối tác nước ngoài. Không chỉ thế, FDI của các công ty nước ngoài vào Việt Nam sẽ tạo ra những tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO; tạo ra một hình ảnh đẹp, đáng tin cậy về Việt Nam trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài... Như vậy, FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế
b- FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Phải khẳng định rằng, FDI là một trong số các động lực hàng đầu tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong thời gian vừa qua. Khu vực có vốn FDI luôn là khu vực năng động nhất của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 20%. Chẳng hạn "năm 1998 tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước đạt 12,1% thì riêng khu vực FDI đạt tốc độ tăng trưởng là 23,3%, năm 1999 tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước là 10,4% thì của khu vực FDI là 20,0%"
Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã đi vào hoạt động nhìn chung sản xuất kinh doanh có hiệu quả: trong năm 2000 doanh thu của khu vực có vốn FDI đạt khoảng 5.500 triệu USD so với năm 1999 là 4.600 triệu USD. Như vậy, xét về tốc độ tăng trưởng lẫn cả về doanh thu, giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị xuất khẩu, khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN đều đạt mức cao so với trung bình cả nước.
Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam của FDI còn được khẳng định qua tỷ lệ đóng góp của khu vực FDI trong GDP tăng dần qua các năm: "năm 1993 đạt 3,65%/năm, đến năm 1995 đạt 6,3%/năm, năm 1998 đạt 10,03% và năm 1999 đạt 11,75%"
. FDI đã góp phần giúp Việt Nam phục hồi dần kinh tế sau cuộc khủng hoảng, thực tế cho thấy, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định trong những năm qua.. Với tốc độ tăng trưởng như vậy thì mục tiêu mà Việt Nam đặt ra cho đến năm 2020 là trong tầm tay.
c- FDI làm tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng nguồn thu ngân sách quốc gia.
FDI đã nâng cao nhanh chóng tiềm lực xuất khẩu của đất nước cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh. Nếu như năm 1991, khu vực có vốn FDI chỉ mới xuất khẩu được 52 triệu USD thì năm 1995 đã đạt 336 triệu USD; năm 1998 đạt 1.982 triệu USD; năm 1999 đạt 2.547 triệu USD; năm 2000 là 3.320 triệu USD và "4 tháng đầu năm 2001 khu vực có vốn FDI xuất siêu 868 triệu USD"
Cho đến nay, hàng hoá của Việt Nam đã có mặt trên thị trường 140 nước ở khắp các châu lục trên thế giới, riêng các nước ASEAN chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu và 30% kim ngạch nhập khẩu (năm 1997) của Việt Nam. Hàng sản xuất tại Việt Nam cũng đang tiếp cận, củng cố và mở rộng dần chỗ đứng ở một số thị trường khác như thị trường EU, Châu Mỹ, các nước Trung Đông. Ngoài xuất khẩu, các khu vực có vốn FDI còn sản xuất nhiều hàng hoá cung ứng cho nhu cầu trong nước, góp phần thay thế cho nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ. khu vực ĐTNN không chỉ góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước mà còn thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch và các dịch vụ thu ngoại tệ.
Nguồn thu ngân sách quốc gia từ khu vực FDI cũng tăng nhanh trong những năm qua: "nếu như năm 1994, khu vực FDI nộp ngân sách là 128 triệu USD thì đến năm 1996 là 263 triệu USD; năm 1997 là 315 triệu USD; năm 1999 tuy có giảm đi song vẫn đạt 271 triệu USD và năm 2000 đạt khoảng 260 triệu USD. Sự đóng góp này chiếm từ 6% đến 7% tổng thu ngân sách hàng năm và nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí thì tỷ trọng này đạt khoảng 20%"
d- FDI góp phần chuyển giao và nâng cao năng lực công nghệ mới của nền kinh tế
Thông qua FDI, chúng ta đã tiếp nhận được một số công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế quan trọng như viễn thông, thăm dò dầu khí, xi măng, sắt thép, hoá chất, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy... Phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng thu hút được công nghệ thuộc loại trung bình và tiên tiến ở khu vực.
FDI đã nâng cao năng lực công nghệ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các khu vực có vốn FDI có trình độ công nghệ cao hơn, xử lý môi trường tốt hơn các doanh nghiệp trong nước và đạt độ phổ cập ở các nước trong khu vực. FDI đã đem lại những mô hình quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại trong nhiều ngành kinh tế; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao hơn chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước.
e- FDI góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó, FDI là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Trước hết, cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch mang xu hướng tích cực. Nó được thể hiện ở tỷ trọng các ngành công nghệp, nông nghiệp, dịch vụ trong GDP. Tất cả các nhóm ngành trong nền kinh tế đều tăng lên nhưng tốc độ tăng của các nhóm ngành khác nhau nên đã làm cho tỷ trọng của các ngành trong GDP thay đổi.
Cơ cấu ngành kinh tế (%)
Năm
Ngành kinh tế
1990
1995
2000
Tổng GDP
100,00
100,00
100,00
- Nông nghiệp
38,74
27,18
24,30
- Công nghiệp
22,67
28,76
36,61
- Dịch vụ
38,59
44,06
39,09
(Nguồn: Niên giám thống kê 2000 - Tổng cục Thống kê)
Như vậy, công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Động lực chủ yếu tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành là do tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp và dịch vụ - hướng tập trung của các dòng FDI vào Việt Nam. Xét về mặt lượng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 13 năm qua ở nước ta là khá mạnh, cả tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDI đến tăng trên 10% còn nông nghiệp giảm gần 21%.
Có thể nói, FDI thực sự đã có vai trò to lớn đối với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế thông qua việc đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp, tạo điều kiện để ngành công nghiệp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Trong các năm qua (tính đến hết quý I năm 2001), ĐTNN vào ngành công nghiệp và xây dựng đã tăng nhanh với 1712 dự án (chiếm 63%) với vốn đầu tư đăng ký là 20,3 tỷ USD (chiếm 55,40%). Các ngành dịch vụ có 663 dự án (23,2%) với 14 tỷ USD (38,4%). Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp thu hút 380 dự án (13,8%) với 2,3 tỷ USD (6,2%). Nhìn chung, quy mô đầu tư bình quân cho một sự án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ so với các lĩnh vực khác, khoảng 3 triệu USD/dự án, trong khi đó ở lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ là 12 triệu USD/dự án. Về thực hiện vốn cam kết thì các dự án trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cũng có tỷ lệ giải ngân cao nhất (trên 5,1%)
Nhìn một cách tổng quát hơn, dựa trên những kết quả đã tích luỹ được trong thời gian qua và những xu hướng FDI trong thời gian gần đây, trong những năm tới, cơ cấu kinh tế Việt Nam sẽ được cải thiện theo hướng tích cực hơn và với tốc độ nhanh hơn.
f- FDI tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng lao động.
Trong năm 2000, khu vực đầu tư nước ngoài đã trực tiếp giải quyết
việc làm cho khoảng 350.000 lao động trong đó có trên 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ lỹ thuật và hàng chục vạn công nhân lành nghề. Ngoài ra, còn gián tiếp tạo thêm việc làm cho trên 1 triệu lao động làm việc trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan đến đầu tư nước ngoài. Tuy có quy mô đầu tư khá khiêm tốn (gần 7 triệu USD/ dự án) song ngành công nghiệp nhẹ lại tạo ra nhiều việc làm nhất với hơn 15 vạn chỗ làm việc, chiếm 50% lao động trong khu vực FDI.
Môi trường lao động mới đã tạo điều kiện cho người lao động tiếp thu công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện tác phong và kỷ luật, kỹ năng lao động công nghiệp, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn FDI cũng cao hơn cùng ngành nghề ở các khu vực khác từ 30% đến 50% với tổng thu nhập của lao động hàng năm lên tới 300 đến 350 triệu USD. Theo số liệu của Bộ thương mại, trong năm 1996 thu nhập bình quân một lao động trong doanh nghiệp có vốn FDI là 136 USD/tháng, trong đó thu nhập bình quân của người Việt Nam là 94 USD/tháng. Thu nhập cao của người lao động trong khu vực FDI ở Việt Nam đã góp phần làm tăng sức mua thị trường nói chung và cải thiện trực tiếp đời sống của những người lao động.
Thực tiễn đã chứng minh, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI là chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù hợp với nhu cầu của đất nước và xu thế chung của thời đại. Những đóng góp tích cực của FDI vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong thời gian qua là to lớn và đáng khích lệ; đáp ứng cơ bản những mục tiêu đặt ra về vốn, công nghệ, thị trường kinh nghiệm quản lý; tạo dựng được những cơ sở vật chất quan trọng phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, góp phần đáng kể vào thành công của công cuộc đổi mới, đồng thời vẫn đảm bảo được tính độc lập tự chủ và định hướng phát triển của đất nước. Đó chính là vai trò tích cực của FDI đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
2/Đối với ODA
Tầm quan trọng của ODA đối với các nước đang và kém phát triển là điều không thể phủ nhận. Điều này được thể hiện rõ qua những thành công mà các nước tiếp nhận ODA đã đạt được.
Đầu tiên, trong khi các nước đang phát triển đa phần là trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng nên thông qua ODA song phương có thêm vốn để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. ODA mang lại nguồn lực cho đất nước.
Thứ nữa, theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư vốn đến điểm mà ở đó sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự duy trì và phát triển.
Tạo điều kiện để các nước tiếp nhận có thể vay thêm vốn của các tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ tới hạn qua sự giúp đỡ của ODA.
ODA còn có thể giúp các nước đang lâm vào tình trạng phá giá đồng nội tệ có thể phục hồi đồng tiền của nước mình thông qua những khoản hỗ trợ lớn của các tổ chức tài chính quốc tế mang lại.
ODA giúp các nước nhận hỗ trợ tạo ra những tiền đề đầu tiên, đặt nền móng cho sự phát triển về lâu dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính của nó là nâng cấp cơ sở hạ tầng về kinh tế.
ODA tác động tích cực đến phát triển kinh tế xã hội của các địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: nguồn vốn này trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ môi trường. Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, phát triển nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo...
ODA giúp các doanh nghiệp nhỏ trong nước có thêm vốn, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư cho sản xuất kinh doanh, dần dần mở rộng qui mô doanh nghiệp.
Ngoài ra ODA còn giúp các nước nhận viện trợ có cơ hội để nhập khẩu máy móc thiết bị cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từ các nước phát triển. Thông qua nước cung cấp ODA nước nhận viện trợ có thêm nhiều cơ hội mới để tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này.
Bên cạnh những mặt tích cực, ODA cũng có không ít những mặt hạn chế. Hạn chế rõ nhất của viện trợ phát triển chính thức ODA là các nước nếu muốn nhận được nguồn vốn này phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Mức độ đáp ứng càng cao thì viện trợ tăng lên càng nhiều.
Ngay ở trong một nước, tình trạng tập trung ODA vào các thành phố trọng điểm cũng tạo nên sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế - xã hội của quốc gia đó, làm cho hố ngăn cách giàu nghèo thành thị và nông thôn càng trở nên cách biệt.
Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều biến đổi, song mục tiêu và lợi ích của các nước cấp vốn theo đuổi hầu như không thay đổi so với trước đây: tập trung cho an ninh của hệ thống TBCN, tuyên truyền dân chủ kiểu phương tây, trói buộc sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự tự do mà các trung tâm tự bản đã sắp đặt khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào...
VÍ DỤ Ở VIỆT NAM
Từ thực tế chu chuyển luồng vốn ODA trên thế giới từ thực tiễn huy động, tiếp nhận, sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ 1993 đến nay cho thấy Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tỷ trọng huy động nguồn vốn nước ngoài thông qua hỡnh thức ODA khỏ lớn. Tổng số vốn cam kết mà cộng đồng các nhà tài trợ ODA dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2005 đạt trên 32 tỷ USD. Số vốn đó hợp thức hoỏ bằng cỏc Hiệp định vay ước đạt trên 26 tỷ USD, chiếm 80% tổng số vốn đó cam kết. Tổng số vốn đó giải ngõn ước đạt trên 16 tỷ USD, chiếm 62% tổng số vốn đó ký kết. Số vốn đó giải ngõn núi trờn đó sử dụng để xây dựng hàng loạt cơ sở hạ tầng kinh tế, xó hội quan trọng của quốc gia; giải quyết cú hiệu quả cỏc vấn đề về xó hội như xoá đói giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục và khao học công nghệ; bảo vệ môi trường; cải cách hành chính, luật pháp; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất. Hàng loạt công trỡnh đầu tư bằng nguồn vốn ODA đến nay đó được đưa vào sử dụng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Nếu xột trờn bỡnh diện tổng thể, trong 13 năm qua (1993 – 2006), nguồn vốn ODA đó hoà cựng với cỏc nguồn vốn trong nước, góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của nước ta lên gấp 2,4 lần từ 3,5% năm 1993 lên 8,4% năm 2005; tỷ lệ đói nghèo giảm xuống một nửa; xuất khẩu tăng gấp 6 đến 7 lần; Bên cạnh những kết quả đạt được mang tính định lượng nói trên, nguồn vốn ODA cũn giỏn tiếp hỗ trợ cho Việt Nam từng bước cải cách có hiệu quả các cơ chế, chính sách quản lý kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trỡnh thực hiện đầy đủ các cam kết giữa Việt Nam với cộng đồng các nhà tài trợ ODA. Những kết quả trên đó và đang tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA đối với cộng đồng các nhà tài trợ ODA.
+ Một số ưu thế của ODA:
Rừ ràng, nhờ lợi thế riờng cú của ODA so với cỏc nguồn vốn vay thụng thường khác, nên Việt Nam đó ưu tiên phần lớn nguồn vốn này vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xó hội quan trọng mang tính dài hạn của quốc gia. Vậy sự khác nhau giữa nguồn vốn vay ODA với các nguồn vốn vay thông thường khác ở chỗ nào? Theo định phần “khái niệm về ODA” cho thấy: sự khác biệt chính giữa nguồn vốn ODA so với nguồn vốn vay thông thường chính là ở “thành tố hỗ trợ”. Thành tố hỗ trợ bao gồm các yếu tố cơ bản như: lói suất cho vay thấp, thậm chớ là bằng khụng, kết hợp với thời hạn vay dài, thời hạn õn hạn cao đó tạo nờn tớnh ưu đói của ODA so với cỏc nguồn vốn khỏc. Vớ dụ: hiện nay Việt Nam vay ODA của Hiệp hội Phỏt triển quốc tế (LDA) thuộc nhúm WB với mức lói suất bằng khụng, chỉ tớnh phớ sử dụng vốn 0,75% năm, thời hạn vay 40 năm, trong đó 10 năm ân hạn (tức đến năm thứ 11 bên vay vốn mới bắt đầu trả vốn gốc cho đến thời hạn vay). ODA của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng tương tự, không có lói, chỉ trả phớ 1% năm, thời hạn vay 30 – 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn. ODA của Nhật Bản (JBLC) có mức lói suất dao động từ 0,75% - 2,3% năm tuỳ thuộc vào tính chất của từng dự án, thời hạn cho vay từ 30 – 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn. Tóm lại: để được gọi là ODA thỡ khoản vay đó phải đạt ít nhất là 25% cho đến 100% phần cho không kết tính trong từng khoản vay mà các nhà cung cấp ODA dành cho các nước tiếp nhận ODA.
II/MỘT SỐ QUAN ĐIỂM DÈ DẶT VÀ LO NGẠI CỦA CÁC NHÀ CHÍNH TRỊ
Bên cạnh mặt tích cực do thu hút vốn đầu tư nước ngoài đem lại,nó cũng có những điểm hạn chế khiến cho các nhà chính trị tỏ ra lo ngại:
Vốn đầu tư nước ngoài làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu Các nước càng yếu kém, định chế quốc tế, tệ tham nhũng và quan liêu càng nặng, hệ thống ngân hàng - tài chính càng lạc hậu thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
Vốn đầu tư n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6040.doc