Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU 2
I. Đặt vấn đề: 2
II.Ý nghĩa của đề tài: 2
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN ĐẤT VIỆT NAM VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 3
II.1. Đất: 3
II.1.1. Khái niệm: 3
II.1.2. Thành phần và cấu trúc, tính chất đất: 4
II.2. Tài nguyên đất Việt Nam: 5
II.2.1. Tình hình sử dụng đất: 5
II.2.2. Phân loại và đặc điểm của từng loại đất: 7
II.3.Tổng quan đồng bằng sông Cửu Long: 9
II.3.1. Lịch sử hình thành đồng bằng: 9
II.3.2. Vị trí địa lý: 9
II.3.3. Điều kiện tự nhiên: 9
II.3.3. Hệ sinh thái: 14
II.3.4. Tài nguyên đất đồng bằng sông Cửu Long: 16
II.3.5. Đặc điểm kinh tế xã hội đồng bằng sông Cửu Long: 20
CHƯƠNG III: Ô NHIỄM ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 23
III.1. Những khái niệm có liên quan: 23
III.1.1. Ô nhiễm đất: 23
III.1.2. Khả năng tự làm sạch của đất: 23
III.1.3. Đất tốt và đất xấu 24
III.2. Ô nhiễm đất ở đồng bằng sông Cửu Long: 25
III.2.1. Hiện trạng môi trường chung: 25
III.2.2. Nguyên nhân đất ô nhiễm: 29
III.2.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm đất: 40
III.2.4. Các giải pháp chống ô nhiễm: 46
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN 51
51 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 9222 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a muối. Đất mặn không bị ngập thủy triều thường có độ mặn cao nhất về mùa khô, mùa mưa nước mưa đã hòa tan muối và rửa mặn nên độ mặn giảm nhiều, có thể cấy lúa một vụ mùa mưa.
Bảng 2. Phân loại đất mặn
Nguồn: Hội Khoa học Đất Việt Nam, 2002
Ngoài ra, Đồng bằng sông Cửu Long còn có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha, bao gồm diện tích đất ngập nước nội địa và đất ngập nước ven biển ngập thủy triều dưới 6 mét.
Hình 2. Đất ngập nước đồng bằng sông Cửu Long
“Đất ngập nước” (wetlands) Theo nghĩa rộng: “Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, dù là tự nhiên hay nhân tạo, ngập nước thường xuyên hoặc từng thời kỳ, là nước tĩnh, nước chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, bao gồm cả những vùng biển mà độ sâu mực nước khi thủy triều ở mức thấp nhất không vượt quá 6 mét”.
Theo đó ĐNN phải có một trong ba thuộc tính sau:
Có thời kỳ nào đó, đất thích hợp cho phần lớn các loài thực vật thủy sinh.
Nền đất hầu như không bị khô
Nền đất không có cấu trúc rõ rệt hoặc bão hòa nước bị ngập nước ở mức cạn ở một số thời điểm nào đó trong mùa sinh trưởng hàng năm.
Trong đó, đất ngập nước mặn ven biển có diện tích 1.636.069 ha, phân bố dọc ven biển Đông, phía Tây Nam bán đảo Cà Mau và vịnh Thái Lan. Theo đặc trưng về thủy văn có đất ngập nước mặn ven biển-ngập thường xuyên và đất ngập nước mặn ven biển - ngập không thường xuyên.
Đất ngập nước mặn ven biển - ngập thường xuyên có diện tích 879.644 ha, phân bố ở vùng biển nông có độ ngập thủy triều dưới 6 mét.
Đất ngập nước mặn ven biển - ngập không thường xuyên có diện tích 756.425 ha, phân bố ở dải đất liền ven biển. Các dạng đất ngập nước chính trong vùng này là “dạng đất bị ngập nước mặn thường xuyên, không có thực vật”, “dạng đất bị ngập nước mặn không thường xuyên, canh tác nông nghiệp” và “dạng đất bị ngập nước mặn không thường xuyên, nuôi trồng thủy sản”.
Đất ngập nước mặn cửa sông có diện tích 1.052.102 ha, phân bố chủ yếu ở vùng cửa sông Cửu Long thuộc địa bàn các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng. Các dạng đất ngập nước chủ yếu là đất ngập nước mặn không thường xuyên canh tác nông nghiệp và đất ngập nước mặn không thường xuyên nuôi trồng thủy sản.
Đất ngập nước mặn đầm phá có diện tích 2.521 ha theo kết quả khoanh định trên bản đồ đất ngập nước vùng đồng bằng sông Cửu Long tỷ lệ 1:250.000, phân bố ở đầm Đông Hồ (Hà Tiên) và đầm Thị Tường (Cà Mau) ở vùng ven biển vịnh Thái Lan.
Đất ngập nước ngọt thuộc sông có diện tích 1.963.240 ha, bao phủ vùng đồng lụt rộng lớn ở trung tâm của đồng bằng. Dạng đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập thường xuyên là các nhánh chính của sông Tiền, sông Hậu, các sông khác và các dòng kênh, có diện tích 128.139 ha. Dạng đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập không thường xuyên là các cánh đồng canh tác lúa nước, các vườn cây ăn trái và các diện tích canh tác nông nghiệp khác, có diện tích 1.771.381 ha.
Đất ngập nước ngọt thuộc hồ ở đồng bằng sông Cửu Long có diện tích 56.389 ha, phân bố ở vùng hồ rừng Tràm U Minh Hạ (tỉnh Cà Mau), hồ rừng Tràm U Minh Thượng (tỉnh Kiên Giang) và ở Vườn quốc gia Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp).
Đất ngập nước thuộc đầm có diện tích 229.363 ha, dạng đất ngập nước chủ yếu là đất ngập nước thuộc đầm ngập không thường xuyên, sử dụng để canh tác nông nghiệp, phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên.
ê Vai trò của đất ngập nước:
ĐNN là những hệ sinh thái có năng suất cao, cung cấp cho con người nhiều loại nhiên liệu, thức ăn, là nơi giải trí và nơi lưu trữ các nguồn gen quý hiếm. Ngoài ra, đất ngập nước còn có vai trò quan trọng trong thiên nhiên và môi trường như lọc nước thải, điều hòa vi khí hậu, chống xói lở bờ biển, ổn định mực nước ngầm, là nơi trú chân của nhiều loài chim di cư quý hiếm...
Hình 3. Hiện trạng đất đồng bằng sông Cửu Long
II.3.5. Đặc điểm kinh tế xã hội đồng bằng sông Cửu Long:
ĐBSCL có 13 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc trung ương (Thành phố Cần Thơ) và 12 tỉnh (Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Dân số: đến năm 2004 dân số toàn vùng đạt trên 17,076 triệu người, mật độ dân số: tỷ lệ nữ giới chiếm 51,2%, tỷ lệ dân số sống ở khu vực thành thị là 18,17%. Theo thống kê về lao động việc làm, dân số trong độ tuổi lao động có việc làm thường xuyên năm 2004 trong khu vực I chiếm 60,13%, KV II chiếm 13,11% và KV III chiếm 26,76%.
(Theo Thống kê Lao động Việc làm 2004- Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Đơn vị
Diện tích (km2)
Dân số nghìn người
Mật độ dân số (người/km2)
Thủ phủ
Khoảng cách với TP HCM (Km)
ĐBSCL
40,263
17,099
425
TP Cần Thơ
1,389
1,127.1
811
TP Cần Thơ
169
Long An
4,993
1,407.1
282
Thị xã Tân An
47
Đồng Tháp
3,238
1,643.7
508
TX Cao Lãnh
143
An Giang
3,406
2,174.7
638
TP Long Xuyên
189
Tiền Giang
2,367
1,684.3
712
TP Mỹ Tho
70
Vĩnh Long
1,475
1,047.2
710
TX Vĩnh Long
135
Bến Tre
2,322
1,345.6
580
TX Bến Tre
85
Kiên Giang
6,269
1,632.8
260
TX Rạch Giá
248
Hậu Giang
1608
776.3
483
TX Vị Thanh
230
Trà Vinh
2,215
1,015.8
459
TX Trà Vinh
200
Sóc Trăng
3,223
1,259.8
391
TX Sóc Trăng
230
Bạc Liêu
2,547
786.4
309
TX Bạc Liêu
280
Cà Mau
5,211
1,198.1
230
TP Cà Mau
247
Bảng3: Đơn vị hành chính đồng bằng sông Cửu Long
(Nguồn: Kinh tế Việt Nam đổi mới, Niên giám thống 2001- Tổng cục Thống kê )
Theo số liệu thống kê, đến nay, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có 51 khu và cụm CN với tổng diện tích gần 13.000ha. 12/51 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, thu hút 153 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 400 triệu USD và 1.335 tỷ đồng, trong đó có 44 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 109 đầu tư trong nước. Tuy phần lớn là những tỉnh nông nghiệp, nhưng những năm qua, trong tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa, vai trò của các khu công nghiệp đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ngày càng rõ nét
Trong những năm gần đây kinh tế ĐBSCL có những bước khởi sắc đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (giảm dần tỷ trọng khu vực I và tăng ở khu vực II và III). Đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Một số kết quả đạt được trong năm 2004 như sau:
Tổng giá trị GDP toàn vùng 1994 đạt 81,518 ngàn tỷ đồng; Thu nhập bình quân đầu người đạt 424 USD/năm
Cơ cấu GDP chuyển biến tích cực: khu vực 1 chiếm 48,1%, khu vực II chiếm 21,5% và khu vực III là 30,3%.
Tăng trưởng kinh tế năm 2004 đạt 11,4%, Bình quân giai đoạn 2001-2004 đạt trên 10%
Tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn vùng đạt 75,554 ngàn tỷ đồng
Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng đạt 2.479,2 triệu USD
Sản lượng lúa đạt trên 18,5 triệu tấn, sản lượng sây ăn trái đạt gần 3 triệu tấn.
Sản lượng thủy sản đạt 1,6 tấn, trong đó sản lượng cá nuôi đạt gần 450 ngàn tấn, tôm 230 ngàn tấn.
CHƯƠNG III: Ô NHIỄM ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
III.1. Những khái niệm có liên quan:
III.1.1. Ô nhiễm đất:
Đất bị ô nhiễm là đất bị thay đổi tính chất, chứa những chất độc hại đối với sự sống của con người và sinh vật.
Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm.
Nếu theo nguồn gốc phát sinh thì có:
Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt
Ô nhiễm đất do các chất thải công nghiệp
Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp
Nếu theo tác nhân gây ô nhiễm:
Ô nhiễm đất do tác nhân hóa học: ví dụ như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất thải sinh hoạt và công nghiệp.
Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: vi khuẩn, giun sán, ký sinh trùng…
Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: các chất phóng xạ
Chất ô nhiễm đi vào đất nhiều nhưng đi ra rất ít, vì sau khi thấm vào trong đất, chất ô nhiễm sẽ ở lại và lưu tồn trong đất. Yếu tố này phụ thuộc nhiều vào khả năng tự làm sạch của đất.
III.1.2. Khả năng tự làm sạch của đất:
Là khả năng tự điều tiết của đất trong hoạt động của môi trường đất thông qua một số cơ chế đặc biệt để giảm thấp ô nhiễm từ ngoài vào, tự làm trong sạch và loại trừ các chất độc hại cho đất. Mức độ làm sạch phụ thuộc vào các yếu tố như:
Số lượng và chất lượng hạt keo trong đất, càng nhiều hạt keo (keo mùn) thì khả năng tự làm sạch cao.
Đất nhiều mùn, nhiều acid humic
Trạng thái hiện tại của môi trường đất, đất chưa bị ô nhiễm hoặc ô nhiễm ít thì khả năng tự làm sạch tốt hơn.
Sự thoát nước và giữ ẩm
Cấu trúc đất tốt.
Các chủng loại vi sinh vật phong phú, số lượng nhiều sẽ giúp đất đào thải chất độc chất ô nhiễm nhanh chóng.
Khả năng oxy hóa tốt, chưa bị nhiễm mặn, nhiễm phèn
Môi trường đất có khả năng tự làm sạch cao hơn các môi trường khác (môi trường nước và không khí) do môi trường đất có các hạt keo đất có đặc tính mang điện, tỷ lệ diện tích hấp phụ lớn, khả năng trao đổi ion và hấp phụ chúng lớn mà các môi trường khác không có. Nhưng nếu mức độ ô nhiễm vượt quá khả năng tự làm sạch của đất thì sự nhiễm bẩn trở nên nghiêm trọng. Khi đó, khả năng lây truyền ô nhiễm từ môi trường đất sang môi trường đất, nước mặt và nước ngầm và khuếch tán vào không khí rất nhanh.
III.1.3. Đất tốt và đất xấu
Cùng điều kiện ngoại cảnh như nhau, có đất cây phát triển tốt và có năng suất cao; có vùng đất cây mọc cằn cỗi, năng suất thấp. Chất lượng đất là một chỉ số môi trường, qua đó chúng ta có thể biết được tình trạng chung về các tính chất cũng như quá trình trong đất. Một số chỉ tiêu về đất:
Tính chất hóa học: độ chua, khả năng hấp thụ dinh dưỡng, hàm lượng muối.
Tính chất vật lý: độ rỗng giữa các hạt đất, hạt kết bền trong đất, khả năng giữ ẩm.
Tính chất sinh học: lượng và loại chất hữu cơ, số lượng và loại hình, chức năng của các vi sinh vật; hoạt tính sinh học trong đất và hoạt động của enzym.
Cây trồng: năng suất, tình hình sinh trưởng của cây, sự phát triển của bộ rễ.
Nước: chất lượng nước mặt và nước ngầm.
Bảng 4. Đặc tính một số loại đất xấu
(Nguồn: Hội khoa học đất Việt Nam, 2002)
Khảo sát các hộ nông dân nhiều năm canh tác trên một diện tích đất nhất định, họ đã mô tả về chất lượng đất tốt nếu đất có tầng đất mặt sâu và màu sẫm, đất tơi xốp, dễ làm đất, đất ẩm và phơi nhanh khô, chứa nhiều mùn (chất hữu cơ), ít bị xói mòn và có thể có nhiều động vật như giun. Trong đất, giun chiếm tỉ lệ trọng lượng lớn và số lượng nhiều nhất. Trong quá trình sống giun đào đất và lấy xác bã lá mục, cây mục làm thức ăn để bài tiết ra lượng mùn tới 50-380 tấn/ha/năm. Quá trình này biến các chất hữu cơ phức tạp thành mùn, trong chất thải của giun có chứa N, K, P làm giàu cho đất.
III.2. Ô nhiễm đất ở đồng bằng sông Cửu Long:
III.2.1. Hiện trạng môi trường chung:
Hiện nay môi trường đồng bằng sông Cửu Long đang gặp phải những thực trạng đáng lo ngại, đó là:
Chế độ ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long... kéo dài từ tháng 7 đến tháng 12 hàng năm. Ngập lũ ở ĐBSCL hàng năm đã tác động nhiều mặt đến điều kiện sinh sống của người dân, đến cơ sở hạ tầng, đến phát triển kinh tế, y tế, giáo dục và đặc biệt là tác động đến sức khỏe của cộng đồng dân cư.
Chế độ ngập mặn ở ĐBSCL chịu sự chi phối của chế độ bán nhật triều trên biển Đông và chế độ nhật triều biển Tây vịnh Thái Lan, tập trung ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang... với tổng diện tích khoảng 1,4-1,5 triệu ha. Những năm gần đây, quá trình chuyển dịch cơ cấu canh tác nông nghiệp lúa nước truyền thống sang nuôi tôm nước mặn đã làm cho diễn biến xâm nhập mặn gia tăng nhanh chóng, tạo nên các áp lực mới đối với hệ canh tác nước ngọt ở khu vực ĐBSCL.
Đặc biệt ĐBSCL còn có vùng đất phèn khá lớn tập trung ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau... với diện tích khoảng 1,5 triệu ha. Tác động của các hoạt động canh tác nông-lâm-ngư đã diễn ra quá trình lan truyền phèn có tác động đến môi trường đất và nước.
Trong cơ cấu kinh tế của ĐBSCL hiện nay, khu vực nông-lâm-ngư chiếm 48%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22%; khu vực dịch vụ chiếm 30%. Điều đó cho thấy kinh tế ở đây vẫn chủ yếu là nền kinh tế phụ thuộc sinh thái, trong đó trạng thái và chất lượng môi trường nước, môi trường đất và các hệ sinh thái có tính chất quyết định đến các chất lượng và sản lượng các sản phẩm nông- lâm- ngư. Là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất toàn quốc, thế nhưng, ĐBSCL lại đang phải đối mặt với một số vấn đề môi trường cần giải quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững trong khu vực.
Quá trình sử dụng đất trong canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp, đô thị hóa... làm biến đổi đất, suy thoái đất gây ô nhiễm môi trường. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng lên rất nhanh. Năm 2000 là 445.300 ha, đến năm 2006 đã là 699.200 ha, với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.171.001 tấn, chiếm trên 70% sản lượng nuôi trồng và trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Diện tích trồng lúa cả năm giảm dần: Năm 2000 là 3.945.800 ha, đến năm 2006 là 3.773.200 ha (trồng lúa mùa, lúa đông xuân và lúa hè thu).
Các hệ sinh thái đất ngập nước bị tác động cả về quy mô và chất lượng các hệ sinh thái trong khu vực. Sự cố cá chết hàng loạt ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, tôm chết kéo dài ở Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng... gây thiệt hại kinh tế lớn đến phát triển kinh tế - xã hội ở đây. Tổng lượng bùn thải và chất thải nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL khoảng 456 triệu m3/năm. Đặc biệt, trong nông nghiệp hàng năm sử dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học, 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật và các chế phẩm nuôi trồng thủy sản... gây tác động nhiều mặt tới môi trường và sức khỏe con người.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, rừng tràm ngập úng ở khu vực ĐBSCL đã bị suy giảm do quá trình khai hoang phát triển canh tác nông nghiệp, phá rừng nuôi trồng thủy sản. Đến nay, diện tích đất lâm nghiệp trong khu vực chỉ còn khoảng 356.200 ha - trong đó, rừng tự nhiên chỉ chiếm khoảng 15% và còn lại 85% là rừng trồng tái sinh. Tại vùng biển và ven biển có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác... sinh sống. Tuy nhiên hệ sinh thái ở đây đã bị suy giảm nghiêm trọng.
Sau nhiều năm cải tạo đến nay diện tích đất phèn còn khoảng 1,6 triệu ha (41%). Trong đó, khoảng 886.000 ha đất thuần phèn và 658.000 ha đất phèn mặn. Đất phèn tiềm tàng có diện tích 613.000 ha, phân bố trên những vùng tiêu nước khá thuận lợi nên thích hợp với lúa nước. Vì thế, 72% diện tích đất phèn tiềm tàng được sử dụng cho nông nghiệp, 5% cho rừng và một phần là đất hoang. Đất phèn hoạt động tập trung chủ yếu ở vùng có khả năng tiêu nước kém. Tuy vậy, cũng có đến 62% diện tích được sử dụng cho nông nghiệp, 11% cho rừng và phần còn lại là đất hoang. Đất phèn mặn tập trung ven biển, với 46% diện tích nông nghiệp, 17% rừng, 10% nuôi tôm và phần còn lại chưa được sử dụng. Đây thực sự là nguồn ô nhiễm chua phèn đáng lưu ý đối với nước mặt ĐBSCL.
ĐBSCL có khoảng 790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số gần 2 triệu ha tự nhiên bị ảnh hưởng mặn, phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và vùng BĐCM. Trong đó, đất bị mặn dưới 2 tháng khoảng 100.000 ha (đều đã được sử dụng cho nông nghiệp), đất mặn từ 2- 4 tháng 520.000 ha (88% sử dụng cho nông nghiệp, 9% cho rừng và 3% đất hoang), và đất mặn quanh năm chiếm khoáng 170.000 ha (34% cho rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất hoang). Trước đây khi công trình thuỷ lợi chưa phát triển diện tích bị ảnh hưởng mặn 1g/l trở lên khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn 0,4g/l (tiêu chuẩn cho phép của nước sinh hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng hơn. Đến nay do công trình thuỷ lợi phát triển, nhiều vùng ven biển được ngọt hoá nên diện tích bị ảnh 1,5 triệu ha. Tuy nhiên ranh giới hưởng mặn giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 1,3 mặn trên sông chính, sông Vàm Cỏ Tây và các kênh nối thông ra biển lại có xu thế gia tăng.
Vấn đề sử dụng đất ở ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các nhánh sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng phù sa ở rìa).
Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với mực nước biển), nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng rộng lớn. Vào mùa mưa, chúng chìm sâu dưới nước, còn vào mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn. Đây là vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác nhiều. Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường xuyên chịu tác động của thuỷ triều và sóng biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất nhanh, những lưỡi nước mặn ngấm dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên bờ sông và các cồn cát duyên hải, trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m còn có các khu vực trũng ngập nước vào mùa mưa và các bãi bồi trên sông.
Thực trạng đất trồng lúa:
Năng suất lúa trên đất phèn ở đồng bằng cao, ngang bằng các nước có trình độ thâm canh nông nghiệp cao (Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản). Sản lượng thóc trong 12 năm tăng từ 9,5 triệu tấn lên 17,5 triệu tấn. Bên cạnh đó, để phù hợp với điều kiện sinh thái, tăng khả năng thâm canh và cơ cấu cây trồng vật nuôi được đẩy mạnh. Nhiều diện tích trước đây trồng lúa không đạt hiệu quả được chuyển sang nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả cao hơn với mô hình như: lúa và cá, lúa và tôm nước ngọt, cây ăn quả…
Ở vùng ngập sâu, không thích hợp với cây lúa, đã được thế chỗ bằng cây tràm, kết hợp với nuôi trồng thủy sản tự nhiên và dự trữ điều tiết nước. Ở vùng đất ngập nông thích hợp trồng cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa.
Với diện tích đất trồng lúa mỗi năm bị mất lên đến hơn 50.000 ha, trong khi đó về lâu dài nguy cơ giảm tích đất trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và một số vùng ven biển rất cao khi phải đối mặt với hiện tượng nước biển dâng do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, làm diện tích đất trồng lúa bị ngập mặn tới 70-80% nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m. Những năm gần đây diện tích đất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng bị thu hẹp dần, thay vào đó là các khu công nghiệp, khu đô thị và dân cư mới. Một ví dụ cụ thể đối với tỉnh Cà Mau, năm 2000 toàn tỉnh có hơn 200.000 ha đất trồng lúa nhưng hiện tại chỉ còn trên 80.000 ha do chuyển đổi sang đất xây dựng và các mục đích khác.
Hình 4. Biểu đồ tỉ lệ đất ngập nước bị ảnh hưởng khi mực nước biển dâng cao hơn ở một số quốc gia , trong đó có Việt Nam
III.2.2. Nguyên nhân đất ô nhiễm:
III.2.2.1. Ô nhiễm tự nhiên:
a. Nhiễm phèn và nhiễm mặn:
Nhiễm phèn:
Phèn được sinh ra có thể do nguyên nhân oxy hóa phèn tiềm tàng (FeS) tại chỗ để tạo thành acid H2SO4, chứa nhiều độc chất Al3+, Fe2+, SO4-2; hay cũng có thề do nước phèn đi từ nơi khác gây nhiễm phèn cho MTST đất. Quá trình thứ nhất gọi là quá trình phèn hóa (sulphate acidification) và quá trình thứ hai là quá trình nhễm phèn (contamination of acid sulphate). Dù nguyên nhân nào thì trong dung dịch đất, lượng độc chất Al3+, Fe2+, SO4-2 rất cao và pH môi trường xuống thấp, khả năng trao đổi và điệm của môi trường đất bị phá vỡ, không thể tự làm sạch được nửa, nên cả môi trường bị ô nhiễm nặng.
Môi trường đất chỉ được coi là ô nhiễm khi toàn bộ phản ứng môi trường pH130 ppm, Fe2+ >300 ppm và SO4-2 >0.1%. Cây trồng và vật nuôi cũng như con người bị ảnh hưởng trầm trọng.
Đất Mặn:
Ô nhiễm mặn chỉ có thể do mặn muối hoặc mặn kiềm. mặn do kiềm ít xảy ra mà chủ yếu do mặn muối từ nước biển. trong nước biển nhiều muối NaCl, Na2SO4, CaCl2, CaSO4,MgCl2, NaHCO3; vùng trũng nhiều hữu cơ có cả Na2CO3 nhưng chủ yếu là NaCl.
Môi trường đất được xem là ô nhiểm mặn khi nồng độ tổng số muối tan >0,3%, trong đó muối Cl- >0,15% và Na+ có hàm lượng trên 10 mEq/100gr, sau 24 giờ bị ngập nước mặn và bị bốc mặn lên mặt.
Các yếu tố tự nhiên gây nhiễm phèn và nhiễm mặn ở ĐBSCL:
Lịch sử hình thành đất ở ĐBSCL (tiềm năng sẵn có)
Khí hậu:
Sự phân bố mưa ở ĐBSCL không đều, mùa mưa trùng với mùa lũ và mùa khô trùng với mùa kiệt của sông Cửu Long.
Điều đáng chú ý là ở ĐBSCL có 2 đỉnh mưa: đỉnh thứ nhất, vào các tháng 6 - 7 và đỉnh thứ hai vào các tháng 9 - 10. Những trận mưa đầu mùa thường thường sự chảy tràn lớn xuống các dòng sông rạch và kênh mương cuốn theo rác rến, các độc chất trong đất gây ô nhiễm. Ở các vùng đất có sự hiện diện của phèn tiềm tàng (lớp pyrite), do mùa khô kéo dài, đất nứt nẻ, mực nước ngầm hạ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho phèn tiềm tàng trở thành phèn hoạt động (dạng jarosite). Nước mưa đầu mưa hòa tan phèn làm độ pH của nước kinh rạch hạ thấp. Giữa hai đỉnh mưa, có một thời kỳ khô hạn ngắn, trong dân gian gọi là Hạn Bà Chằn, kéo dài khoảng 10 ngày từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8, nguyên nhân là do ảnh hưởng các luồng gió xoáy nghịch trên cao. Vào cuối mùa mưa là thời kỳ lũ lụt tràn về hằng năm, mưa lớn vào tháng 9, tháng 10.
Gió:
Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, phổ biến khi các luồng áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên lục địa Châu Á (từ tháng 5 đến tháng 10). Mùa nắng gió mùa Đông Bắc lại chiếm ưu thế do sự hiện diện của các trung tâm áp cao từ vùng Sibêri - Mông Cổ di chuyển xuống. Tốc độ gió cao nhất vào tháng 2, tháng 3, khoảng 2 - 3,3 m/s, tốc độ gió thấp nhất vào tháng 10 là 1,5 - 2 m/s. Khoảng tháng 12 là giai đoạn chuyển mùa, gió thổi ngược chiều dòng chảy sông Cửu long (hướng Tây Bắc - Đông Nam) đẩy nước mặn theo triều vào sâu trong nội địa (mùa gió chướng) gây khó khăn trong sản xuất nông nghiệp.
Chế độ thủy văn:
Vì tất cả dòng chảy trên sông Cửu Long đều có cửa ra là biển nên tính chất thủy văn vùng ĐBSCL mang tính chất vùng cửa sông chịu ảnh hưởng của thủy triều và các yếu tố khí tượng khu vực Đông Nam Á chi phối.
Nguồn nước cung cấp cho dòng chảy trong sông chủ yếu là mưa. Thủy triều ở biển Đông truyền rất sâu vào đất liền và chi phối đáng kể chế độ thủy văn đồng bằng. Về mùa khô, triều tiến nhanh vào đất liền mang theo một khối lượng nước mặn khá lớn, về mùa lũ thủy triều cũng là một yếu tố làm dâng cao mực nước trong hệ thống sông và ngăn cản sự thoát lũ ra biển
Thuỷ triều biển Đông gia tăng biên độ khi tiến sát đến cửa sông và bắt đầu giảm dần khi truyền sâu vào đất liền. Đặc biệt về mùa kiệt, ảnh hưởng của triều trong hệ thống sông rất lớn. So với các sông chính trên thế giới, mức độ truyền triều vào sông Cửu Long khá sâu, có thể lên đến 350 km. Nguyên nhân chính do sự tiết giảm biên độ truyền triều là do ảnh hưởng của lực ma sát dòng chảy với địa hình tự nhiên của dòng sông, các chướng ngại vật trên đường đi và cả ảnh hưởng của áp lực gió trên bề mặt dòng sông.
b. Gley hóa:
Quá trình gley hóa trong môi trường đất là quá trình phân giả chất hữu cơ trong điều kiện ngập nước, yếm khí, nơi tích lũy nhiều xác bã sinh vật, sản sinh ra nhiều chất độc dưới dạng CH4, H2S, N2O, CO2, FeS…đó là những chất gây độc cho sinh thái môi trường nói chung.
III.2.2.2. Ô nhiễm nhân tạo:
a. Tàn tích chiến tranh:
Từ năm 1961-1972 quân đội Mỹ đã tiến hành rãi trên 76,9 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích bằng 24-27% tổng diện tích lãnh thổ Nam ViệtNam mà trong đó chủ yếu là Chất độc màu da cam là các chất có chứ thành phần Dioxin.Hệ sinh thái rùng ngập nước ở khu vực Tây Nam Bộ (rừng Tràm và rừng ngập mặn) đã bị tàn phá rất nặng nề trong những năm chiến tranh. Diện tich rừng ngập mặn đã bị tàn phá với trên 13.520 ha.Hậu quả của chiến tranh hóa học ngoài việc gây thiệt hại trực tiêp cho con người và tài nguyên môi trường, còn gây hậu quả cho nhiều thế hệ nối tiếp hết sức thương tâm và lâu dài đối với con người ở đây.
Cà Mau, Bạc Liêu là một trong những vùng bị nhiễm dioxin. Qua kết quả phân tích mẫu đất ta cũng thấy được sự thay đổi trong thành phần đất như trong những khu vực bị nhiễm dioxin thì hàm lượng các ion Fe3+, Fe2+, Al3+, SO42-, Cl cao hơn so với các khu vực không bị nhiễm dioxin, ngoài ra, tại khu vực rừng ngập mặn Cà Mau cũng bị nhiễm dioxin, chúng xâm nhập vào môi trường đất làm hàm lượng Cacbon, Nitơ, Photpho, Kali trong đất biền động, làm thay đổi đặc tính của môi trường.
Hàm lượng Mg2+ ở đất rừng tái sinh (trên đất đã nhiễm dioxin) cao hơn so với vùng đất ở vùng rừng nguyên sinh.
Lượng Al3+ trong đất trồng rừng, hàm lượng Fe3+, Al3+ trong đất thoái hóa do dioxin đã giảm dần khi đất ngập triều định kỳ hay đất có rừng che phủ.
Hàm lượng mùn ở đất hoang hóa cao hơn ở vùng đất rừng trưởng thành do có nhiều xác cây.
Độ pH trên vùng đất bị nhiễm dioxin khoảng 4-5.
Nguyên nhân của hiện tượng trên là do khi rải chất độc dioxin lên môi trường, diện tích rừng bị che phủ không còn, do đó mà dưới tác động của ánh nắng mặt trời, các trầm tích Pirit có trong đất sẽ oxi hóa tạo thành axit Sunphuric làm chua đất.
Ngoài ra, nguyên nhân khác làm cho đất trở nên chua hơn là do hàm lượng mùn trong đất tăng lên làm xuất hiện các axit hữu cơ như: axit acetic, axit puteric và H2S tăng lên, đồng thời quá trình hòa tan các ion Fe3+, Fe2+, Al3+, Mg2+ diễn ra nhanh chóng làm cho môi trường đất bị thoái hóa mạnh.
b. Dân cư- xã hội:
Sức ép dân số đang gia tăng:
Năm
Số dân ( triệu người)
1995
15,33
2000
16,34
2004
17,076
2006
17,42
Bảng 5 : Dân số ở ĐBSCL từ năm 1995-2006
Dân số tăng nhanh, tài nguyên suy giảm, môi trường ô nhiễm...đã gây áp lực ngày càng lớn đến phát triển kinh tế- xã hội, đến tài nguyên, môi trường và ảnh hưởng đến đời sống và sức khỏe của nhân dân. Tổng lượng rác thải sinh hoạt ở ĐBSCL ở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ô nhiễm đất đồng bằng sông Cửu Long.doc