Mục lục
I. Nhiễm độc thực phẩm do tác nhân hóa học 4
1. Những chất hóa học cho vào thực phẩm theo ý muốn 4
a. Khái niệm chất phụ gia thực phẩm 4
b. Mục đích khi sử dụng chất phụ gia thực phẩm 4
c. Tác dụng tích cực của chất phụ gia thực phẩm 5
d. Những nguy hại của phụ gia thực phẩm 5
e. Phân tích một số hóa chất thường có trong thực phẩm 5
f. Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm 9
2. Ngộ độc do kim loại nặng lẫn vào thực phẩm 9
a. Nguyên nhân của sự ô nhiễm các kim loại nặng 10
b. Hậu quả của ô nhiễm kim loại nặng lên 10
c. Một số kim loại nặng thường thấy trong thực phẩm 11
d. Đề phòng ô nhiễm và ngộ độc do kim loại nặng 13
3. Ngộ độc thực phẩm do hóa chất bảo vệ thực vật 14
a. Hóa chất bảo vệ thực vật 14
b. Biểu hiện lâm sàng của khi ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật 15
c. Phân tích một số hóa chất bảo vệ thực vật thường được dùng 15
d. Biện pháp phòng chống ngộ độc chất hóa chất bảo vệ thực vật 18
4. Các loại thuốc kích thích tăng trưởng 19
a. SHS 19
b. Hormon sinh trưởng 20
5. Ngộ độc thực phẩm do bản thân thực phẩm có chứa chất gây độc tự nhiên 21
a. Ngộ độc cá nóc 21
b. Ngộ độc cóc 22
c. Ngộ độc nấm 22
d. Thực phẩm chứa nhiều tanin 24
e. Thực phẩm chứa nhiều nitric-nitrat 24
f. Thực phẩm chứa nhiều chất solanin 24
g. Thực phẩm chứa nhiều chất xyanhydric 24
6. Các chất độc hại tạo ra trong quá trình chế biến, các hợp chất tạo ra do phản ứng hóa học trong thực phẩm 25
a. Chất độc hại từ món nướng 25
b. Hóa chất trong nước tương 25
II. Nhiễm độc thực phẩm do tác nhân lý học 26
III. Một số biện pháp thông thường trong xử lý ngộ độc thực phẩm 26
28 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 9600 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ô nhiễm thực phẩm do tác nhân hóa học, vật lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược dùng để làm trắng các sản phẩm để làm bắt mắt người tiêu dùng. Các sản phẩm được nhà sản xuất áp dụng tính chất này là: bánh tráng, các loại bột dưới dạng sợi như bánh canh, bún, miếng
Tẩy trắng bánh đa bằng hóa chất Sodium Hydrosulfite
Sulfua đioxit được dùng để làm thịt nhìn tươi hơn
Melamine
Melamine là hợp chất hữu cơ, công thức hóa học là C3H6N6, màu trắng, dạng bột tinh thể tan nhẹ trong nước. Melamine được biết đến như một chất gây hại nếu nuốt, hít và có thể hấp thụ qua da. Mắt, da và đường hô hấp có thể gây kích thích khi tiếp xúc với melamine, nếu tiếp xúc lâu dài với melamine có thể gây ung thư và ảnh hưởng đến bộ phận sinh sản. Liều độc của melamine khá cao với liều gây chết trung bình là hơn 3 g/kg trọng lượng cơ thể.
Melamine chỉ được phép dùng trong sản xuất công nghiệp (đồ chơi, đồ nội thất, gia dụng…) với nhiều đặc tính ưu việt như tính kết dính cao, kháng nhiệt tốt, không bị ăn mòn, không mùi vị… Ngoài ra, melamine còn được dùng để sản xuất phân bón.
Do tính chất melamine có mức độ nitrogen cao - chiếm 66% khối lượng - là cơ sở để nhà sản xuất thiếu lương tâm nghĩ ra mánh khóe kiếm lời bất chính. Việc cho melamine vào sữa lừa người tiêu dùng và lừa được cả máy móc xét nghiệm về hàm lượng đạm (protein) cao trong sữa, nhưng thực chất không phải như vậy.
Do hầu hết các cuộc kiểm tra protein hiện nay vẫn căn cứ vào hàm lượng ni-tơ, khi thêm melamine vào sữa, chỉ số xét nghiệm sẽ cho thấy hàm lượng ni-tơ rất cao, gây hiểu lầm là lượng protein cao, nhưng đó chỉ là đạm giả, vì ni-tơ trong melamine không có giá trị dinh dưỡng.
Lấy mẫu xét nghiệm melamine trong sữa
Theo tài liệu mới nhất mà Văn phòng đại diện WHO tại Việt Nam, dựa trên những nghiên cứu ngẫu nhiên về thức ăn vật nuôi có nhiễm melamine với sự phát triển của sỏi thận và suy thận cấp sau đó ở chó và mèo, đã cho thấy rằng, melamine và các chất cấu trúc tương tự như nó, như axit cyanua có thể kết hợp với nhau tạo ra tinh thể. Với liều lượng cao, đạt ngưỡng tập trung, thì tinh thể này sẽ hình thành và gây tác hại.
Những nghiên cứu tiếp theo trên động vật cho thấy, khi chúng được cho ăn hỗn hợp của melamine và axit cyanua, sẽ hình thành chất rắn trong ống thận, cuối cùng làm tắc nghẽn, gây ra suy thận và hoại thận.
Về độc tính, melamine không được trao đổi chất, mà nhanh chóng bài tiết qua nước tiểu. Tuy chưa có dữ liệu về độc tính của melamine qua đường miệng ở người, nhưng các nhà khoa học đã thấy có tác hại trên chuột. Tệ hại hơn, Trung tâm Quốc tế nghiên cứu ung thư (IARC) đã có kết luận rằng có bằng chứng trên động vật thí nghiệm cho thấy, melamine có sản sinh chất gây ung thư trong cùng điều kiện mà nó sản sinh ra sỏi bàng quang.
Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm
Để đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng, các nhà sản xuất phải tuân thủ các quy định sau:
Chỉ được phép sản xuất, xuất khẩu, kinh doanh tại thị trường Việt Nam các phụ gia thực phẩm trong danh mục và phải được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của cơ quan có thẩm quyền
Việc sử dụng phụ gia thực phẩm trong danh mục trong sản xuất, chế biến, xử lý, bảo quản, bao gói và vận chuyển thực phẩm phải thực hiện theo “Quy định về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ Y Tế”
Việc sử dụng phụ gia thực phẩm trong danh mục phải đảm bảo:
Đúng đối tượng thực phẩm và liều lượng không vượt quá giới hạn an toàn cho phép
Đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật, vệ sinh an toàn quy định cho mỗi chất phụ gia
Không làm biến đổi bản chất, thuộc tính vốn có tự nhiên của thực phẩm
Các chất phụ gia thực phẩm trong “Danh mục lưu thông trên thị trường” phải có nhãn đầy đủ các nội dung theo quy định
Yêu cầu đối với cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm: Trước khi sử dụng một chất phụ gia thực phẩm cần chú ý xem xét:
Chất phụ gia có nằm trong danh mục hay không?
Chất phụ gia có được sử dụng với thực phẩm mà cơ sở định sử dụng không?
Giới hạn tối đa cho phép của chất phụ gia đó đối với thực phẩm là bao nhiêu? (mg/kg hoặc mg/lít)
Phụ gia đó có phải cho thực phẩm hay không? Có bảo đảm các quy định về chất lượng vệ sinh an toàn, bao gói, ghi nhãn theo quy định hiện hành hay không?
Ngộ độc do kim loại nặng lẫn vào thực phẩm
Nguyên nhân của sự ô nhiễm các kim loại nặng
Nước thải từ nhà máy ra ruộng
Các nguyên tố kim loại nặng tồn tại và luân chuyển trong tự nhiên thường có nguồn gốc từ chất thải của hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng các kim loại ấy trong quá trình công nghệ hoặc từ chất thải sinh hoạt của con người. Ví dụ nước thải của các khu công nghiệp, các nhà máy hóa chất, các cơ sở in; hoặc dưới dạng bụi trong khí thải của các khu công nghiệp hóa chất… Sau khi phát tán vào môi trường dưới dạng nói trên, chúng lưu chuyển tự nhiên, bám dính vào các bề mặt, tích lũy trong đất và gây ô nhiễm các nguồn nước sinh hoạt, đó là căn nguyên chính dẫn đến tình trạng thực phẩm bị ô nhiễm.
Nước thải từ nhà máy ra sông
Rau quả sẽ bị ô nhiễm nếu được trồng trên nguồn đất ô nhiễm kim loại nặng, được tưới nước bị ô nhiễm. Cá, tôm, thủy sản nuôi trong nguồn nước bị ô nhiễm cũng thường bị ô nhiễm. Gia súc, gia cầm được nuôi bằng thức ăn bị ô nhiễm (rau, cỏ...) được uống nguồn nước ô nhiễm thì thịt thành phẩm cũng khó tránh khỏi ô nhiễm các kim loại nặng. Ngoài ra thực phẩm có thể bị ô nhiễm các kim loại nặng một cách trực tiếp do thực phẩm bị tiếp xúc với các vật liệu dễ nhiễm kim loại nặng trong quá trình sản xuất và bao gói chứa đựng thực phẩm. Mặt khác, thực phẩm cũng có thể bị ô nhiễm do việc sử dụng các nguyên liệu chế biến không tinh khiết,các các phụ gia thực phẩm có hàm lượng kim loại nặng vượt mức cho phép.
Hậu quả của ô nhiễm kim loại nặng lên
Đối với người tiêu dùng
Gây ngộ độc cấp tính. Vd asen với liều lượng cao có thể gây chết người ngay
Ngộ độc mãn tính hoặc tích lũy
Đối với thức ăn
Làm hư hỏng thức ăn. Ví dụ: chỉ cần có vết đồng cũng đỏ kích thích quá trình oxy hóa và tự oxy hóa dầu mỡ…
Làm giảm giá trị dinh dưỡng của thực phẩm. Ví dụ: chỉ cần vết kim loại nặng cũng đủ để kích thích sự phân hủy vitamin C, vitamin B1…
Một số kim loại nặng thường thấy trong thực phẩm
Asen (As)
Asen không được coi như một vị khoáng cần thiết. Hợp chất vô cơ của asen với liều lượng cao rất độc. Ngộ độc do asen chủ yếu là ngộ độc cấp tính: bị nhiễm với liều lượng 0.06g As là đã bị ngộ độc, với liều lượng 0.15g/người có thể gây tử vong. Ngộ độc cấp tính là do ănn nhầm thức ăn có chứa asen…
Ở người, ngộ độc thường diễn ra do tích lũy asen trong cơ thể, kết quả của nghề ngiệp hoặc do thức ăn, thức uống bị nhiễm asen do quá trình chế biến công nghiệp. do đó mỗi thức ăn đều được quy định có một lượng tối đa asen cho phép. Ví dụ: hoa quả có được tối đa 1.4ppm As. Thiếc dùng để làm hộp đựng thực phẩm chỉ được có tối đa 0.001ppm As
Liều lượng tối đa asen có thể chấp nhận được hàng ngày cho người là 0.05mg/kg thể trọng
Triệu chứng ngộ độc:
Cấp tính: như bị dịch tả, xuất hiện rất nhanh, có khi ngay sau khi ăn phải asen. Bệnh nhân nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy, khát nước dữ dội, mạch đập yếu, mặt nhợt nhạt, thâm tím chết sau 24 giờ
Mãn tính: do tích lũy lượng nhỏ asen trong thời gian dài, có các biểu hiện: mặt xám, tóc rụng, viêm dạ dày và ruột, đau mắt, đau tai, cảm giác về sự si động bị rối loạn, gày gòm, kiệt sức
Chì (Pb)
Chì là một thành phần không ần thiết của khẩu phần ăn. Trung bình liều lượng chì do thức ăn, thức uống cung cấp cho khẩu phần ăn hàng ngày từ 0.0033-0.005 mg/kg thể trọng. Nghĩa là trung bình một ngày, người lớn ăn vào cơ thể từ 0.25-0.35 mg chì. Với liều lượng đó hàm lượng chì tích lũy sẽ tăng dần theo tuổi, nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng cho rằng sự tích lũy liều lượng đó có thể gây độc đối với cơ thể bình thường khỏe mạnh
Liều lượng chì tối đa hàng ngày có thể chấp nhận cho người, do thức ăn cung cấp, được tạm thời quy định là 0.005mg/kg thể trọng
Ngộ độc cấp tính do chì thường ít gặp. Ngộ độc thường diễn ra là do ăn thức ăn có chứa một lượng chì, tuy ít nhưng liên tục hàng ngày. Chỉ cần hàng ngày cơ thể hấp thụ từ 1mg chì trở lên, sau một vài năm, sẽ có triệu chứng đặc hiệu: hơi thở thối, sưng lợi với viền đen ở lợi, da vàng, đau bụng dữ dội, táo bón, đau khớp xương, bại liệt chi trên (tay bị biến dạng), mạch yếu, nước tiểu ít, trong nước tiểu có poephyrin, phụ nữ dễ bị sẩy thai
Cho pin để bánh chưng nhanh chín và trong hơn có thể gây ung thư
Các chất từ pin chủ yếu là kim loại nặng như chì (Pb), thủy ngân (Hg), cadmium (Cd) và thạch tín (As)...
Thủy ngân (Hg)
Thủy ngân không có chức năng gì cần thiết trong quá trình chuyển hóa cơ thể con người và thường có rất ít trong thực phẩm rau quả. Nếu thực phẩm có thủy ngân rất có tác hại cho sức khỏe con người. Vì vậy, cần phải giữ để thực phẩm rau quả không có lẫn thủy ngân dù ở hàm lượng thấp.
Biểu hiện của ngộ độc thủy ngân: bệnh nhân thường có biểu hiện có vị kim loại trong cổ họng, đau bụng, nôn, xuất hiện những chấm đen trên lợi, bệnh nhân bị kích động, tăng huyết áp, sau 2-3 ngày thường chết vì suy thận
Đồng (Cu)
Đồng là một thành phần cần thiết cho cơ thể do thức ăn đưa vào hàng ngày từ 0.033-0.05 mg/kg thể trọng. Với liều lượng này, người ta không thấy có tích lũy đồng trong cơ thể người bình thường
Đến một nồng độ nào đó, ngay cả khi thể vết đồng có thể làm ảnh hưởng đến mùi vị và giá trị dinh dưỡng thức ăn. Ví dụ: kích thích sự tự oxy hóa của dầu mỡ làm chúng chống bị ôi khét, đẩy nhanh sự phá hủy các vitamin…
Liều lượng đồng chấp nhận hàng ngày cho là 0.5 mg/kg thể trọng. Liều lượng này không đáng lo ngại với điều kiện nồng độ molypđen và kẽm trong thức ăn không vượt quá giới hạn thông thường, vì các chất này ảnh hưởng đến chuyển hóa của đồng trong cơ thể của người. Đồng không gây ngộ độc cho tích lũy, nhưng nếu ăn phải một lượng lớn muối đồng, thì bị ngộ độc cấp tính. Biểu hiện của ngộ độc ngay như nôn nhiều do vậy làm thoát ra một lượng lớn đồng ăn phải. Cũng vì vậy ít thấy trường hợp tử vong do ngộ độc đồng. Chất nôn có màu xanh đặc trưng của đồng, sau khi nôn, nước bọt vẫn tiếp tục ra nhiều và trong một thời gian dài vẫn còn dư vị đồng trong miệng
Kẽm (Zn)
Kẽm là thành phần tự nhiên của thức ăn cần thiết cho đời sống của con người. Một khẩu phần mẫu cung cấp hàng ngày từ 0.17-0.25 mg Zn/kg thể trọng. Hàm lượng kẽm được quy định giới hạn trong thức ăn từ 5-10ppm không ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng. Ngộ độc do kẽm cũng là ngộ độc cấp tính, do ăn nhầm phải một lượng lớn kẽm (5-10g ZnSO4 hoặc 3-5g ZnCl2) có thể gây tử vong với triệu chứng như: có kim loại khó chịu và dai dẳng trong miệng, nôn, tiêu chảy, mồ hôi lạnh, mạch đập khẽ, tử vong
Thiếc (Sn)
Thiếc là một thành phần bình thường của khẩu phần ăn, không có chức năng sinh lý gì, nhưng tính chất độc hại rất thấp. Liều lượng thiếc trong thực phẩm thường được quy định cho phép từ 100-200mg/kg. Thông thường không quá 100mg thức ăn có vị kim loại khó chịu và như vậy đã không đạt tiêu chuẩn về trạng thái cảm quan
Đề phòng ô nhiễm và ngộ độc do kim loại nặng
Từ việc phân tích các con đường ô nhiễm trên của các nguyên tố kim loại nặng có thể thấy vấn đề phòng ô nhiễm và ngộ độc kim loại nặng là vấn đề cần thiết, phải gắn liền với các giải pháp xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đất, nước và không khí khỏi nguy cơ ô nhiễm.
Cần tiến hành việc điều tra khảo sát và thông báo rõ nguy cơ ô nhiễm này cho cơ quan chức năng để kịp thời tìm kiếm các giải pháp khắc phục cho những vùng sản phẩm bị ô nhiễm.
Cần tăng cường công tác kiểm tra chất lượng thực phẩm, dụng cụ, trang thiết bị chế biến, bao gói, đồ chứa đựng... về chỉ tiêu kim loại nặng để đảm bảo các thực phẩm, đồ dùng không gây nhiễm vào thức ăn, nhất là thức ăn cho trẻ em
Ngộ độc thực phẩm do hóa chất bảo vệ thực vật
Hóa chất bảo vệ thực vật
Hiện nay các thuốc trừ sâu, trừ mốc trong nông nghiệp được gọi bằng tên chung là hóa chất bảovệ thực vật. Nhu cầu sử dụng hóa chất bảo vệ thức vật ở nước ta khoảng 30-40ngàn tấn/năm. Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật ở nước ta do từng hộ gia đình tự mua và tự dùng làm cho tình trạng ô nhiễm do hóa chất bảo vệ thực vật càng đáng lo ngại. Có nhiều cách chia loại hóa chất bảo vệ thực vật khác nhau, dựa vào nhóm đó để biết các thông tin về độ độc, cơ chế tác động, cấu tạo hoá học hay mục đích sử dụng
Bên cạnh những mặt lợi, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật có thể để lại nhiều tác hại cho môi trường và sức khoẻ của con người. Hóa chất bảo vệ thực vật có thể gây độc cho người qua các con đường chính như: thuốc ngấm vào trong đất, nguồn nước, và không khí (khi phun qua đó vào thức ăn đồ uống và vào cơ thể con người). Thuốc có thể trực tiếp ngấm qua da do tiếp xúc, thuốc ngấm vào thức ăn, đồ uống do vô tình hay hữu ý. Đặc biệt quan trọng là dư lượng thuốc trừ sâu còn tồn dư trên bề mặt thực phẩm rau quả do người sản xuất thực hành sai nguyên tắc.
Qua điều tra thống kê, nguyên nhân ngộ độc chủ yếu là do công tác quản lý thuốc trừ sâu không tốt. Con đường lây nhiễm độc chủ yếu qua đường ăn uống (tiêu hóa) chiếm 97.3% . Qua da và hô hấp chỉ chiếm 1.9 và 0.8%. Thuốc gây độc chủ yếu là WOLFATOX (77.3%), 666 (14.7%), DDT (8%), ngoài ra còn một số loại thuốc trừ sâu như: Carbaryl, Coumaphos, Lindan, Trichlorphon, Dichlorvos, Diazinon, Fenchlorphos, Chlopyrifos
Biểu hiện lâm sàng của khi ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật
Hội chứng về thần kinh
Rối loạn thần kinh trung ương, nhức đầu, mất ngủ, giảm trí nhớ
Rối loạn thần kinh thực vật như ra mồ hôi, ở mức độ nặng hơn có thể gây tổn thương thần kinh ngoại biên dẫn đến liệt. Nặng hơn nữa có thể tổn thương đến não, hội chứng nhiễm độc não thường gặp nhất là do thủy ngân hữu cơ sau đó đến lân hữu cơ và chlor hữu cơ
Hội chứng về tim mạch
Co thắt mạch ngoại vi, nhiễm độc cơ tim, rối loạn nhịp tim, nặng là suy tim, thường là do nhiễm độc lân hữu cơ, chlor hữu cơ và nicotin.
Hội chứng hô hấp
Viêm đường hô hấp trên, thở khò khè, viêm phổi nặng hơn có thể suy hô hấp cấp, ngừng thở, thường là do nhiễm độc lân hữu cơ và chlor hữu cơ.
Hội chứng tiêu hóa-gan mật
Viêm dạ dày, viêm gan mật, co thắt đường mật thường là do nhiễm độc chlor hữu cơ, carbamat, thuốc vô cơ chứa Cu, S
Hội chứng về máu
Thiếu máu giảm bạch cầu, xuất huyết, thường do nhiễm độc cho, lân hữu cơ carbamat. Ngoài ra trong máu có sự thay đổi hoạt tính của một số men như men Axetyl cholinesteza do nhiễm độc lân hữu cơ. Ngoài ra có thể thay đổi đường máu. Tăng nồng độ axit pyruvic trong máu.
**Ngoài 5 hội chứng trên nhiễm độc hóa chất bảo vệ thực vật còn có thể gây tổn thương hệ tiết niệu, nội tiết và tuyến giáp
Phân tích một số hóa chất bảo vệ thực vật thường được dùng
DDT (dichloro-diphenyl-trichloroethane)
DDT thuộc nhóm chlor hữu cơ, có tác dụng diệt sâu bệnh, duy trì hoạt tính trong vài tháng, nó khá bền vững trong môi trường bên ngoài. Vào cơ thể nó tích lũy khá lâu ở các mô cơ và gan. DDT chỉ gây ngộ độc cho người và gia súc khi qua đường tiêu hóa.
Liều gây chết đối với người chưa xác định được rõ ràng, có thể nó ở mức độ trung bình khoảng 500mg/kg. Như vậy liều gây độc đến chết có thể nằm vào khoảng từ 5-25g DDT cho người trưởng thành. Do đặc tính tích lũy lâu trong cơ thể, nếu dùng DDT với liều thấp dài ngày cũng có thể gây ngộ độc và tử vong.
Bảng: Liều lượng DDT còn sót lại trong thực phẩm đã được phun DDT 5.5%
Thực phẩm có phun DDT 5,5%
Lượng DDT còn sót lại (mg/kg)
Táo
0.5-1
Rau xanh
0-14.8
Ngũ cốc
0.7-0.8
Su hào, cải bắp, cà chua, khoai tây, hành lá
3.6
Như vậy, nếu người ăn các loại lương thực thực phẩm đã được phun DDT với lượng còn sót lại như trên và ăn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc mãn tính
666 công thức C6H6Cl6 (Hexachlorocyclohexane)
Phun chất diệt cỏ lên ruộng
666 kết thành bột không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan mạnh trong dung môi hữu cơ. Khác với DDT, 666 gây nhiễm độc mạnh ở sâu bọ và ít gây độc với động vật máu nóng. Liều gây chết cho thỏ là 900 mg/kg. 666 sau 1 lần dùng vẫn còn tồn tại trong cơ thể một thời gian dài. Khi cho thỏ ăn 1 liều 600mg/kg người ta thấy chất (độc vẫn còn tồn tại trong máu 11 ngày sau. Như vậy các hóa chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm Chlor hữu cơ bao gồm DDT VÀ 666 đều có tính tích lũy lâu trong cơ thể và là chất gây độc đối với hệ thần kinh trung ương, thường được tích lũy trong các mô mỡ và thải trừ rất chậm. Nó rất bền trong nước, đất, từ đó gây ô nhiễm ra bên ngoài môi trường một cách lâu dài. Trong thực phẩm đã phát hiện thấy dư lượng cao hóa chất bảo vệ thực vật nhóm Chlor hữu cơ trong sữa, sản phẩm chế biến từ sữa, mỡ động vật, cá, trứng... Hiện nay nhiều nước đã cấm hoặc hạn chế sử dụng, ở nước ta 666 VÀ DDT không còn được sử dụng trong nông nghiệp mà chỉ còn được dùng trong công tác phong chống dịch như diệt muỗi trong phòng chống sốt rét, chống sốt xuất huyết...
Nhóm lân hữu cơ
Cũng có tác dụng mạnh đối với côn trùng và thực vật có hại. Hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu cơ thường được dùng với nồng độ thấp, thời gian tồn tại trên cây trồng ngắn và được phân hủy rồi đào thải nhanh khỏi cây trồng. Khi phân hủy, nó thường tạo ra các sản phẩm ít độc hoặc không độc. Ðối với người và gia súc ít có khả năng tích lũy. Thường được đào thải nhanh sau 1-2 tuần.
Ðiều đáng chú ý là hóa chất bảo vệ thực vật lân hữu cơ có tính chuyển hóa nhanh trong cơ thể động vật có xương sống nên nó thường gây tác dụng độc lên hệ thần kinh, làm tê liệt men axetyl cholinesteraza và gây ngộ độc cấp tính.
Trong nhóm Lân hữu cơ hiện nay thường được dùng nhiều hơn cả là Wolfatox (parathion metyl), Malathion, Diázinon, Dimethoate (Bi 58.. .)
Hóa chất dùng để ướp trái cây
rau quả được phun hóa chất giữ trái cây tươi lâu
Táo, lê, cam, quýt kể cả nho bày bán cả tháng trời nhưng vẫn không hề hư hỏng và màu sắc vẫn không thay đổi nhiều. Đặc biệt là trái cây nhập ngoại lưu thông trên thị trường nhiều ngày do tốn thời gian vận chuyển nên hầu hết đều được giới kinh doanh trái cây phun lên một lớp hóa chất bảo quản giữ trái cây tươi lâu. Theo giới chuyên môn, các loại hóa chất này có tác dụng vừa chống mốc vừa bảo quản hàng hóa lâu bị hư hại. Hóa chất này có gốc chlor, peroxit rất độc hại cho người sử dụng vì nó không mùi, không vị, không màu nên rất khó phát hiện. Những loại hóa chất này thẩm thấu rất mạnh vào bên trong củ quả. Ngoài tính chất diệt côn trùng, diệt tất cả vi khuẩn (kể cả vi khuẩn có lợi) nên ngăn chặn được quá trình chuyển hóa các tế bào, các vitamin bị chậm chuyển hóa cũng như chống ôxy hóa làm củ quả tươi lâu.
Thông tin từ Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm cho thấy tại một số địa phương ở các tỉnh phía Bắc, nhất là vùng giáp biên giới, người ta còn sử dụng cả chất 2,4D (thuốc diệt cỏ) để tẩm ướp củ quả nhằm mục đích bảo quản được lâu.
Các hóa chất này thấm vào bên trong làm trái cây cứng và giảm vị ngọt nhưng nguy hại hơn là chất bảo quản dễ gây ung thư và một số bệnh khác.
Gần đây, hóa chất được phát hiện dùng để phun hay tẩm nhanh trái cây sau thu hoạch là chất carbendazim. Chất này có tác dụng trị nấm, được xếp vào loại hóa chất gây rối loạn hệ thống nội tiết tố.
Quýt là một trong những loại quả có tỷ lệ tồn dư thuốc bảo vệ thựcvật cao nhất
Biện pháp phòng chống ngộ độc chất hóa chất bảo vệ thực vật
Ðể chủ động đề phòng ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vặt, bảo vệ môi trường sống, đảm bảo an toàn trong sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Tăng cường công tác quản lý hóa chất bảo vệ thực vật chặt chẽ của ngành nông nghiệp. Chỉ nhập hoặc sản xuất các loại hóa chất bảo vệ thực vật có hiệu quả cao đối với sinh vật gây hại nhưng ít độc đối với người và động vật
- Tăng cường giáo dục và huấn luyện người sừ dụng hóa chất bảo vệ thực vật các biện pháp bảo đảm an toàn cho bản thân và người tiêu dùng. Riêng đối với các loại rau quả tươi sử dụng ăn ngay cần phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp sau:
Tôn trọng và đảm bảo thời gian cách ly quy định cho từng loại hóa chất bảo vệ thực vật trên từng loại rau quả.
Với rau quả nghi là có khả năng đã bị phun thuốc hóa chất bảo vệ thực vật cần rửa sạch, ngâm nước nhiều lần.
Với loại rau quả có vỏ, vẫn phải được rửa sạch rồi mới cắt bỏ vỏ
- Phối hợp chặt chẽ giữa ngành nông nghiệp với ngành y tế để kiểm tra
việc phân phối, sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật.
Quản lý sức khỏe đối với những người có tiếp xúc trực tiếp
Trang bị phòng hộ đầy đủ
Tiến hành nghiên cứu lâu dài mức độ ô nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật ra môi trường xung quanh
Về phương diện vệ sinh nên chọn dùng những loại thuốc ít độc đối với người và gia súc, đồng thời có độ bền vững kém, tích lũy ít trong cơ thể người tiêu dùng và không có khả năng gây ung thư, gây đột biến gen, gây độc đối với bào thai… chẳng hạn như dùng Polmetox (DMDT) thay DDT, nó cũng có tác dụng trừ sâu bệnh như DDT nhưng không tồn dư trong lương thực thực phẩm.Dùng Sumition thay Wolfatox và Thiophot, độc tính giảm 8-10 lần so với Wolfatox và giảm 40-50 lần so với Thiophot.
Các loại thuốc kích thích tăng trưởng
SHS
Đây là chất chưa rõ công thức hóa học được dùng để kích thích giá đỗ tăng trưởng
Nuôi giá theo phương pháp truyền thống phải ủ hạt đỗ xanh trong thúng hoặc hũ có lót lá chuối/tre bọc ở trên, dưới và xung quanh, sau đó úp ngược xuống. Hàng ngày lại phải lật lên để tưới nước giữ ẩm. Khi mầm hạt dài 3-4cm có thể lấy ra sử dụng. Tuy nhiên, nếu chỉ ăn nước và đợi thân giá đỗ dài ra 3-4cm thì rất lâu. Mặt khác, dài được 3-4cm thì thân giá không còn mậpmạp, trắng và đặc biệt là có nhiều rễ. Vì thế, để kích thích giá đỗ tăng trưởng, người nuôi giá đỗ có thể sử dụng một loại thuốc kích thích có tên SHS.
Loại thuốc trên có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nhãn thuốc chỉ ghi: Vô căn giá đậu tố (chất kích thích giá đậu sạch không rễ)- chữ viết tắt SHS. Ngoài hộp thuốc có ghi tác dụng là điều tiết phốichế bằng nhiều loại thực vật sinh trưởng, rất công hiệu, không độc hại. Sau khi tác dụng vào đậu sẽ có khả năng ức chế không cho giá mọc rễ, làm cho giá đậu to, mập, trắng nõn, nâng cao được chất lượng, tăng được sản lượng.
Hormon sinh trưởng
Bình thường, động vật tự tổng hợp được những hormone cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển. Nhằm thu lãi và tăng thời gian quay vốn, người sản xuất vô lương đã sử dụng thường xuyên thức ăn chứa hormone hoá học tổng hợp để tăng tốc quá trình trên ở vật nuôi. Có hai loại thuốc phục vụ cho mục đích trên. Đó là nhóm chất kích thích tăng trưởng và nhóm nguy hại hơn đối với sức khỏe NTD - hormone sinh trưởng.
Không thể đánh giá thịt qua bên ngoài
Chất kích thích tăng trưởng (CKTTT) bao gồm thuốc kháng sinh và những hợp chất kích thích giống hormone. Thuốc kháng sinh dược dùng để phòng và trị bệnh gia súc, nhưng phần lớn trên 90% thuốc được sử dụng như những chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Thuốc kháng sinh được trộn vào thức ăn hỗn hợp với những nồng độ thật thấp để giúp thú mau lớn và tăng trọng nhanh.
Một lượng tồn dư kháng sinh và hóa chất trong thịt có thể gây ra các hiệu ứng sau cho NTD: Phản ứng quá mẫn cảm đối với người nhạy cảm kháng sinh; gây dị ứng sau khi tiêu thụ thịt tồn dư kháng sinh; tạo ra thể vi sinh vật kháng thuốc; gây khó khăn cho công tác điều trị nhiễm khuẩn; làm giảm sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể, tạo ra con giống yếu ớt; không sống được khi không có kháng sinh; một số kháng sinh, hóa dược có thể gây ung thư cho người tiêu thụ.
Ngộ độc thực phẩm do bản thân thực phẩm có chứa chất gây độc tự nhiên
Ngộ độc cá nóc
Đặc điểm cá nóc
Cá nóc là nguyên nhân của các vụ ngộ độc gây chết người thường gặp ở nước ta. Ở Việt nam, qua khảo sát phát hiện có trên 20 loài cá nóc và chủ yếu là cá nóc độc
Cá nóc
Cá nóc sinh sống ở nước mặn, nước ngọt, nhưng phần nhiều sinh sống ở nước mặn. Cá nóc nước ngọt có các loại : Cá nóc vàng, cá nóc hạt mít. Cá nóc nước mặn có các loại cá nóc hòm, cá nóc gáo, cá nóc nhím vv..
Độc tố cá nóc
- Độc tố cá nóc có tên là Tetrodotoxin, tập trung nhiều ở gan, thận, tuỵ, cơ quan sinh sản (Buồng trứng, túi tinh), mắt, mang, da, máu. Độc tính của độc tố tăng mạnh vào mùa sinh sản của cá (từ tháng 2 đến tháng 7)
- Khi đánh bắt, chế biến, để cá ươn, dập nát, độc tố ngấm vào thịt cá sẽ gây độc khi dùng.
- Độc tố cá nóc rất độc, chỉ cần 4 mg thịt cá có độc tố đã giết chết 1 con thỏ 1kg. Với người chỉ cần ăn 10 gam thịt cá nóc có độc tố là bị ngộ độc. Chỉ từ 1-2mg độc tố có thể gây chết người.
- Độc tố có tính bền vững cao. Nếu đun sôi ở 1000 C trong 6 giờ độc tố mới giảm một nửa, ở 2000C mất 10 phút độc tố mới bị phá huỷ hoàn toàn. Như vậy, nếu chỉ đun nấu thông thường, ngộ độc cá nóc vẫn có thể xảy ra, do độc tố chưa bị phá huỷ hết.
- Khi phơi khô, chế biến thông thường độc tố chưa bị phá huỷ vẫn gây ngộ độc.
Triệu chứng ngộ độc
Lúc đầu xuất hiện cảm giác ngứa ở miệng, tê ở môi, lưỡi, sau đó xuất hiện dị cảm kiến bò ở mặt, chân tay. Bệnh nhân thấy mệt mỏi, váng đầu, đau bụng, có thể tiêu chảy, buồn nôn, vã mồ hôi, nói khó, nuốt khó: Dần dần bị liệt chân tay, cuối cùng là liệt hành tủy, giảm huyết áp, loạn nhịp tim, liệt toàn thân, da tím tái, trụy tim mạch. Nếu sống qua 24 giờ thì hy vọng có thể sống được.
Ngộ độc cóc
Độc tố có trong cóc
Độc tố có trong cóc gọi là bufotoxin. Các bufotoxin chính là: bufotalin, bufotonin, bufotenin …
Độc tố bufotoxin có tro
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TIEU LU7852N.doc
- Presentation1.ppt