Đề tài Phạm vi và mức độ khuyến khích ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam

Mục lục:

Mở đầu 1

Danh mục tài liệu tham khảo 2

Phạm vi và mức độ ưu đãi đầu tư vào bảo vệ môi trường 4

Đánh giá ưu điểm và nhược điểm 7

1. Ưu điểm 7

I. Đã khuyến khích được những dự án đầu tư lớn vào giải quyết những vấn đề cấp bách của môi trường 7

II. Đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường nhận được sự quan tâm đặc biệt từ phía Chính phủ và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực môi trường 8

III. Việc ưu đãi khuyến khích đầu tư khiến nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong nước 9

1. Khuyết điểm 10

I. Việc thực hiện các chính sách đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chưa bám sát, đáp ứng nhu cầu thực tế ở Việt Nam 10

II. Các tiêu chuẩn trong luật chưa rõ ràng 15

III. Các hoạt động bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức 16

IV. Cơ chế chính sách về đầu tư và hạ tầng kỹ thuật còn thiếu đồng bộ, chi tiết và chưa phân bổ hợp lý với sự đầu tư vào những lĩnh vực khác trong danh mục đầu tư 19

V. Bất cập trong hạng mục hoạt động xây dựng công trình được ưu đãi 21

Kết luận 26

 

doc25 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phạm vi và mức độ khuyến khích ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Đề án “Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường” vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 129/2009/QĐ-TTg ngày 29/10/2009. Đề án này bao gồm các nhóm cơ chế chính sách khuyến khích về: đất đai, tài chính, thu hút các nguồn vốn đầu tư, nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ. Cụ thể, đối với đất sử dụng cho việc xây dựng các công trình, các dự án giải quyết mục tiêu về môi trường ở đô thị, môi trường nông thôn được miễn, giảm các loại phí trước bạ, tiền thuê đất, giao đất và thuế sử dụng đất. Trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm bãi thải để xử lý môi trường trong quá trình khai thác, tuyển chọn thì được giao, thuê đất và giảm tiền giao, thuê đất, giảm thuế sử dụng đất. Nhà nước cũng cho phép sử dụng quyền sử dụng đất để góp vốn trong các liên doanh xây dựng các công trình xử lý môi trường có mục đích kinh doanh hoặc được thế chấp vay ngân hàng để thực hiện dự án, hỗ trợ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp hoặc không lãi suất đối với các dự án thuộc lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường; đồng thời mở rộng diện chịu thuế, các loại phí và nâng thuế suất trong các hoạt động sản xuất kinh doanh gây tác động có hại, làm ô nhiễm tài nguyên và môi trường. Cũng tại Quyết định này, Thủ tướng Chính phủ giao các Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương... ban hành các chính sách để tổ chức thực hiện Đề án như chính sách ưu đãi về đất đai cho các dự án ưu đãi đầu tư về bảo vệ tài nguyên và môi trường; danh mục các dự án đầu tư và kế hoạch đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường đến năm 2015; chính sách miễn hoặc giảm thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường, nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện thu gom, lưu giữ, tái chế, xử lý; chính sách khuyến khích sản xuất và sử dụng sản phẩm bao gói bằng bao bì từ chất hữu cơ, bao gói dễ phân huỷ trong tự nhiên...Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 20/12/2009. III. Việc ưu đãi khuyến khích đầu tư khiến nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong nước: a. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thỏa thuận đầu tư 10 tỷ USD vào 30 dự án bảo vệ môi trường và bất động sản tại Việt Nam vừa được ký kết giữa Tập đoàn E.VO Global Asset Management chuyên về quản lý quỹ đầu tư của Úc và Tập đoàn đầu tư tài chính và địa ốc VN234. Dự kiến khoản đầu tư trên sẽ được triển khai trong 5 năm từ nay đến năm 2013 cho các dự án tại Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận và Lâm Đồng với mức vốn tối thiểu mỗi dự án là 100 triệu USD. Ông Mai Vũ Nhật, Tổng giám đốc VN234 cho biết các dự án tập trung vào việc xử lý nước thải, rác thải, xử lý nguồn nước nhiễm bẩn, tái sử dụng vật liệu, sử dụng năng lượng mặt trời, nghiên cứu sản xuất vật liệu xây dựng thế hệ mới. Bên cạnh đó, hai bên sẽ cùng đầu tư vào 2 dự án bất động sản tại khu vực phía nam Cần Thơ. Cụ thể là dự án Trung tâm Văn hóa Tây Đô với tổng vốn dự kiến 400 triệu USD và Dự án Trung tâm Hội nghị triển lãm quốc tế với tổng vốn đầu tư 800 triệu USD. (theo bài viết trên trang báo Diễn đàn doanh nghiệp điện tử: b. Xúc tiến đầu tư vào tỉnh Quảng Ninh tại Nhật Bản Ngày 19/5/2010, khoảng 200 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp Nhật Bản đã tham dự Hội thảo Xúc tiến Đầu tư vào tỉnh Quảng Ninh do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Mizuho tổ chức, vừa diễn ra tại thủ đô Tokyo. Theo bà Nhữ Thị  Hồng Liên, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, trong thời gian qua, Nhật Bản là nhà  tài trợ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho tỉnh, với tổng vốn cam kết lên tới 300 triệu USD, trong đó tập trung vào các dự án lớn như bảo vệ môi trường thành phố Hạ Long (111 triệu USD), xây dựng cầu Vân Tiên (90 triệu USD) và xây dựng cảng Cái Lân (78 triệu USD). Bên cạnh đó, Nhật Bản hiện có 6 dự án đầu tư trực tiếp, với tổng số vốn đăng ký 11,3 triệu USD.  Về thương mại và du lịch, bà Liên cho biết Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng của tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu của tỉnh sang nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này liên tục tăng trong thời gian gần đây và đạt 84,6 triệu USD trong năm 2009. Trong khi đó, số lượng du khách Nhật tới thăm tỉnh Quảng Ninh đang ngày càng tăng. Năm 2009, con số này là 38.200 lượt, tăng 3 lần so với năm 2006. (theo bài viết trên trang Thông tấn xã Việt Nam: 2) Khuyết điểm I. Việc thực hiện các chính sách đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường vẫn chưa bám sát, đáp ứng nhu cầu thực tế ở Việt Nam: 1. Các thiết bị xử lý nước thải sinh hoạt: Theo báo cáo từ các cơ quan chuyên môn, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh trên toàn quốc ước tính khoảng 21.500 tấn/ngày, ở khu vực nông thôn khoảng 30.000 tấn/ngày. Mặc dù việc xử lý ngày càng được chính quyền các địa phương quan tâm hơn, nhưng hiện trạng còn nhiều hạn chế, chủ yếu sử dụng hai hình thức là chôn lấp và chế biến thành phân hữu cơ. Trong đó, có tới 85% số đô thị từ thị xã trở lên sử dụng biện pháp chôn lấp không hợp vệ sinh gây ô nhiễm môi trường, tồn nhiều diện tích đất và lãng phí nguồn tài nguyên rác có khả năng tái chế. Hình thức chế biến phân hữu cơ mới được áp dụng ở khoảng 9% số đô thị từ thị xã trở lên, tổng công suất hiện tại khoảng 1.400 tấn/ngày. Thế nhưng vấn đề bất cập ở đây là hầu hết các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và công nghệ, thiết bị nhập ngoại đều chưa phù hợp với đặc điểm rác không được phân loại tại nguồn như ở ta. Trước tình hình đó , Nhà nước không ngừng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn thế nhưng lại gặp nhiều trở ngại trong việc vay vốn do nguồn hết sức hạn chế và trả nợ vốn vay. Nguồn thu từ phí xử lý chất thải rắn do địa phương cam kết chỉ đảm bảo khoảng 30% chi phí xử lý hàng năm. Doanh thu từ các sản phẩm tái chế (phân hữu cơ, nhựa tái chế, gạch block,…) hiện khá thấp và không ổn định. Biện pháp: Chính phủ xây dựng mục tiêu là đến năm 2020 sẽ áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp xử lý được đa số lượng rác phát sinh. Để mục tiêu này khả thi, sẽ xây dựng một loạt các cơ chế, chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, nghiên cứu khoa học công nghệ và đặc biệt là khả năng tiếp cận nguồn vốn đầu tư. Các địa phương căn cứ vào hệ thống chính sách chung để chủ động huy động các nguồn lực xã hội đầu tư, xây dựng các nhà máy hoặc giải pháp xử lý chất thải với quy mô, tính chất tùy thuộc vào điều kiện địa phương; tạo điều kiện về quy hoạch, mặt bằng để phấn đấu bắt đầu triển khai Chương trình trên thực tế vào năm 2011. (theo 2. Các thiết bị tái chế chất thải Theo khảo sát mới đây, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có gần 1.000 cơ sở tái chế chất thải đang hoạt động, trong đó phần lớn ác cơ sở này có quy mô vừa và nhỏ với những trang thiết bị, máy móc cũ kỹ và công nghệ tái chế lạc hậu, trong đó có đến 94% số cơ sở tái chế không có hệ thống xử lý nước thải và khoảng 84% cơ sở không có hệ thống xử lý khí thải, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Mỗi ngày, TPHCM thải ra trên 6000 tấn chất thải rắn sinh hoạt. Trong số đó, có khoảng 2000 tấn chất thải rắn công nghiệp có thể tái chế, sử dụng lại như giấy vụn, nhựa, nilon, thủy tinh, kim loại. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở tái chế chất thải là cơ sở nhỏ tập trung ở các quận 6, 8, 10, 11, Bình Tân, Tân Phú... với các máy móc, thiết bị phần lớn do cơ sở tự chế tạo hoặc mua công nghệ chế tạo trong nước theo kiểu bán tự động nên thiếu độ chuẩn xác. Biện pháp: Để giảm bớt nạn ô nhiễm môi trường do hoạt động tái chế chất thải gây ra, từ tháng 1/2008, TPHCM đã thành lập Quỹ tái chế chất thải với nguồn vốn điều lệ 50 tỷ đồng với mục đích cho các cơ sở tái chế chất thải quy mô nhỏ, dây chuyền tái chế lạc hậu được vay vốn với lãi suất ưu đãi để mua sắm máy móc mới, trang thết bị hiện đại.Việc hỗ trợ trên có thể giúp các cơ sở thay đổi công nghệ tái chế chất thải theo hướng bảo vệ môi trường, tăng cường tái sử dụng và tái chế chất thải thành những sản phẩm mới có giá trị kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, dù đã hoạt động hơn một năm nay nhưng đến nay Quỹ tái chế chất thải TPHCM vẫn chưa có đồng vốn nào vì chưa hoàn tất các thủ tục giấy tờ. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho nạn ô nhiễm môi trường nước và không khí do quá trình tái chế chất thải ở TPHCM ngày càng gia tăng. (theo 3. Ứng dụng công nghệ sinh học bảo vệ môi trường sinh thái Theo TS. Hoàng Chí Bửu, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, hiện giá cả nông sản trong nước phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới và nhu cầu người tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm phải sạch, an toàn, thân thiện với môi trường. Do đó, muốn bán được hàng và có lời, nông dân phải ứng dụng CNSH để giảm chi phí sản xuất, cải tiến chất lượng mẫu mã và sản phẩm. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất để mở rộng chương trình đầu tư là thiếu vốn đầu tư trong khi các kênh tín dụng lại quá hẹp, đồng thời Nhà nước chưa có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển và thương mại hóa sản phẩm CNSH, dẫn đến khả năng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Ngay cả các doanh nghiệp cũng thiếu niềm tin vào kỹ năng và khả năng sáng tạo của đội ngũ nghiên cứu nên chưa mạnh dạn đầu tư, ứng dụng vào thực tế. Biện pháp: Nhằm đẩy mạnh ứng dụng CNSH trong nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển khai Chương trình phát triển và ứng dụng CNSH vào lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản. Theo đó, đến năm 2020, Chương trình sẽ tập trung vào 4 nội dung chính là nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ (R - D), triển khai sản xuất thử sản phẩm (P); xây dựng tiềm lực phục vụ phát triển và ứng dụng CNSH, bao gồm đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hóa máy móc, thiết bị; hình thành và phát triển ngành công nghiệp sinh học; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNSH. ( 4. Đầu tư vào khắc phục hậu quả môi trường sau chiến tranh Việt Nam là một trong 70 nước bị ô nhiễm bom mìn lớn nhất và chịu hậu quả nặng nề nhất trên thế giới. Theo ước tính, số bom đạn còn sót lại sau chiến tranh khoảng 800 nghìn tấn, làm ô nhiễm trên 20% diện tích đất đai toàn quốc, hạn chế diện tích đất sinh hoạt canh tác. Trong thời gian qua, nhờ sự hỗ trợ đầu tư thiết bị tiên tiến của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và địa phương, Việt Nam đã tích cực triển khai các hoạt động rà phá bom mìn sót lại sau chiến tranh. Tuy nhiên việc triển khai các hoạt động này còn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại bởi ô nhiễm bom mìn sau chiến tranh ở Việt Nam còn rất nặng nề trên diện tích lớn trong khi thiết bị dò phá bom mìn của Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đủ . Biện pháp: Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 504/QĐ-TTg, ban hành Chương trình hành động quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh giai đoạn 2010-2025. Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015, chương trình sẽ hoàn thành việc điều tra, khảo sát, lập bản đồ ô nhiễm bom, mìn, vật nổ trên phạm vi toàn quốc. Cũng trong giai đoạn này, chương trình sẽ xây dựng bộ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khắc phục hậu quả bom mìn; thiết lập Trung tâm quản lý dữ liệu để tổng hợp, quản lý dữ liệu về nạn nhân bom mìn, tình trạng ô nhiễm và khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh; thực hiện công tác rà phá bom mìn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an toàn cho nhân dân. Chương trình tăng cường đầu tư giáo dục phòng tránh tai nạn bom mìn cho nhân dân; hỗ trợ nạn nhân, hỗ trợ tái định cư cho nhân dân vùng ô nhiễm bom mìn tại các tỉnh bị ô nhiễm nặng và xảy ra nhiều tai nạn bom mìn. Tiếp đó, từ năm 2016 đến năm 2025, chương trình tiếp tục thực hiện công tác rà phá bom mìn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm an toàn cho nhân dân, đạt khối lượng diện tích khoảng 800.000ha. Ngoài ra, trong giai đoạn này vẫn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của giai đoạn 2010-2015 như tiếp tục tuyên tuyền về thực trạng và hậu quả do bom mìn sót lại sau chiến tranh ở Việt Nam nhằm vận động chính phủ các nước, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tài trợ, hỗ trợ thực hiện chương trình; tiếp tục thực hiện hỗ trợ nạn nhân, hỗ trợ tái định cư cho nhân dân vùng ô nhiễm bom mìn. (theo II. Các tiêu chuẩn trong luật chưa rõ ràng Trong danh mục hoạt động, sản phẩm từ hoạt động bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ quy định tại Nghị định 04/09 NĐ-CP, vấn đề cũng nằm ngay trong chính từ ngữ được sử dụng trong văn bản. Rất khó có thể xác định được thế nào là “công nghệ cao, công nghệ mới chưa được sử dụng tại Việt Nam”. Công nghệ mới với nước ta nhưng có thể là đã là công nghệ lạc hậu, không hiệu quả đối với thực trạng hiện giờ. Quy trình kiểm tra, chỉ tiêu xem xét đánh giá hiệu quả của các công nghệ hiện nay vẫn còn rất sơ sài. Tiêu chuẩn, khái niệm “công nghệ cao, công nghệ mới chưa được áp dụng tại Việt Nam” chưa được đánh giá rõ ràng. Trong khi đó các hoạt động, sản phẩm này được hưởng ưu đãi cho lĩnh vực hoạt động bảo vệ môi trường dù cho có những sản phẩm không thực sự đủ tiêu chuẩn. Từ ngữ đã được giải thích: “tiêu chí sản phẩm sau khi thải bỏ dễ phân hủy trong tự nhiên” được xét dựa vào các sản phẩm được cấp nhãn sinh thái do các tổ chức được nhà nước công nhận (Điều 3. Giải thích từ ngữ Nghị định 04/09 NĐ-CP). Nhưng khái niệm, tiêu chí đánh giá “ công nghệ cao” hiện vẫn chưa được đưa vào văn bản. Trong vụ Vinashin Hải Phòng, công ty đã lợi dụng những thiếu sót trong luật liên quan đến xuất nhập khẩu, triệt để lợi dụng những sơ hở trong quy định về hàng hoá tạm nhập tái xuất; nhập khẩu phế liệu về làm nguyên liệu sản xuất; tiêu chí về yếu tố làm sạch trong hàng hoá nhập khẩu; quy trình về kiểm tra xác suất khi thông quan; điều kiện được từ chối hoặc bỏ mặc hàng hoá theo dạng hàng vô chủ; chấp nhận tái xuất khi bị phát hiện với lý do hàng nhầm...để nhập khẩu phế thải của Hàn Quốc về Việt Nam. Sự không rõ ràng trong phạm vi này có thể dẫn đến tình trạng giải ngân sai đối tượng hay áp dụng thuế ưu đãi không đúng… Biện pháp: Cần xây dựng một tiêu chuẩn rõ ràng gắn với các chỉ tiêu kỹ thuật liên quan đến các hoạt động, sản phẩm bảo vệ môi trường. Trong kỳ họp Quốc hội năm 2008 Dự thảo luật Công nghệ cao đã được đưa ra. Chúng em nhận thấy việc đưa ra luật Công nghệ cao là một điều cần thiết do tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam cũng như thực trạng đầu tư vào khoa học công nghệ của nước ta. Cần có sự định hướng đúng đắn trong quản lí và giám sát thực hiện chặt chẽ. III. Các hoạt động nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh thuộc danh mục các hoạt động bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức, chưa được đầu tư về cơ sở vật chất, các chính sách ưu đãi về đầu tư, hỗ trợ lãi suất, thuế, các đơn vị còn thiếu tính chuyên môn hóa, nguồn nhân lực chưa đạt yêu cầu v.v… gây ra hậu quả là không đáp ứng được các yêu cầu công tác trong khi các tiềm năng không được tận dụng hết. 1. Trong hoạt động “ xây dựng cơ sở công nghiệp môi trường, cơ sở sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường và các công trình bảo vệ môi trường khác phục vụ lợi ích công về bảo vệ môi trường”. Năm 2005, Bộ Công nghiệp đã tổ chức đợt điều tra khảo sát đánh giá về nhu cầu và năng lực phát triển ngành công nghiệp môi trường tại 20 tỉnh, thành trên cả nước. Kết quả đánh giá sơ bộ ban đầu cho thấy thị trường cho ngành công nghiệp môi trường có tiềm năng tương đối lớn. Lượng chất thải rắn phát thải hiện nay khoảng 15 triệu tấn và mức tăng trưởng hàng năm khoảng 7%. Ước tính nhu cầu thị trường cho lĩnh vực xử lý chất thải rắn hàng năm khoảng 2,340 tỷ đồng và dự báo đến năm 2010 đạt khoảng 3,900tỷ. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, tiềm năng tái chế chất thải rắn công nghiệp cũng là rất cao, ở nhiều ngành tỷ lệ chất thải có khả năng tái chế đạt hơn 80%. Mỗi năm sẽ tiết kiệm được 54 tỷ đồng nếu mỗi cơ sở sản xuất của 6 ngành công nghiệp tái chế 50% lượng chất thải của cơ sở minh. Những tiềm năng khác về các lĩnh vực khác như phòng ngừa kiểm soát ô nhiễm, dịch vụ hỗ trợ kĩ thuật, tư vấn chuyển giao công nghệ; sản xuất thiết bị, vật tư, nguyên liệu và sản phẩm thân thiện môi trường cũng là rất lớn. Tuy nhiên, năng lực các đơn vị cung cấp dịch vụ môi trường ở Việt Nam còn hạn chế, kinh nghiệm, tính chuyên môn hóa và chuyên nghiệp còn thấp. Chưa có các chính sách ưu đãi về đầu tư, hỗ trợ thuế, lãi suất. Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh bằng vốn tự có, chưa có sự bảo lãnh của các cơ quan tài chính ngân hàng. Biện pháp: Để phát triển ngành công nghiệp này, Việt Nam cần sớm xây dựng một hệ thống các cơ chế chính sách phù hợp nhằm tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp, người dân đầu tư nhiều hơn nữa vào lĩnh vực xử lý môi trường; tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, trong nước và quốc tế trong việc tham gia các dự án đấu thầu cung cấp công nghệ và thiết bị xử lý môi trường. Nhà nước cần đảm bảo cơ chế thu phí môi trường và thanh toán lại cho nhà đầu tư, điều này sẽ góp phần thu hút đáng kể lượng vốn đầu tư tư nhân (mà không cần phải dựa vào nguồn vốn vay ODA) vào lĩnh vực công nghệ và thiết bị xử lý môi trường. (theo Phát triển ngành công nghiệp môi trường ở Việt Nam – số ngày 04/12/2006 2. Trong hoạt động “ Xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường” Tỷ lệ cán bộ quản lý trên các lĩnh vực đang mất cân đối, ví dụ trong lĩnh vực rất rộng là quản lý đất đai, lực lượng  cán bộ về môi trường, địa chất, khoáng sản, tài nguyên nước, quản lý biển, hải đảo, biến đổi khí hậu, khí tượng thủy văn lại rất mỏng. Đội ngũ cán bộ, chuyên gia, cán bộ giỏi được đào tạo cơ bản hầu hết đều đã nghỉ hưu hoặc sắp nghỉ hưu, trong khi đó, đội ngũ cán bộ kế cận và thay thể chưa được chuẩn bị. (theo Tăng cường đào tạo nhân lực cho ngành Tài nguyên và Môi trường - 26/2/2010 – Tạp chí Ban Tuyên giáo - ) Theo thống kê của Bộ Tài nguyên-Môi trường, hàng năm, lực lượng lao động phục vụ cho ngành Môi trường chỉ đáp ứng được khoảng từ 20-30% nhu cầu. Việt Nam có nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú, mỗi dạng tài nguyên, hệ sinh thái của biển có tính đặc thù và giữ vai trò, vị trí nhất định trong phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên hiện nay, nguồn nhân lực cho ngành Tài nguyên môi trường ở nước ta còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Mỗi năm, nước ta cần khoảng 300 cán bộ, nhân viên làm việc trong ngành nghề này, nhưng chỉ khoảng 100/300 sinh viên tốt nghiệp mỗi năm là làm đúng ngành nghề và có khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc đặt ra. Tiến sĩ Trần Hồng Lam (Trung tâm Khí tượng thủy văn Biển) cho rằng: Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực làm việc trong ngành Môi trường và khí tượng thủy văn biển vừa thiếu vừa yếu là do cơ sở vật chất tại các trường đại học, cao đẳng và môi trường làm việc trong những ngành nghề này đã xuống cấp. Hầu hết các trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho công đoạn thực hành, nghiên cứu của sinh viên và cán bộ công tác đều cũ kỹ, còn nghèo nàn, lạc hậu. Nhiều khi sinh viên và cán bộ muốn tiến hành một hoạt động nào đó như: Tìm kiếm cứu hộ cứu nạn, xem xét mức độ ô nhiễm của nước biển cũng khó thực hiện. Điều này đã vô hình làm giảm sự nhiệt tình trong việc tìm kiếm, sáng tạo của sinh viên và cán bộ nghiên cứu về môi trường Biện pháp: Thượng tá Cồ Văn Ngãi (Quân chủng Hải quân Việt Nam) nêu ý kiến: Vấn đề nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư mua sắm trang thiết bị ở trường đại học và các cơ quan khí tượng thủy văn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tìm tòi, khám phá và chấp nhận hiểm nguy của các cán bộ khi nghiên cứu về biển. Bởi nghiên cứu và khám phá về biển và đại dương là lĩnh vực rất mạo hiểm, đòi hỏi người cán bộ, nhân viên phải được bảo vệ an toàn. Bên cạnh việc đổi mới, nâng cấp trang thiết bị, giáo viên ở các trường đại học cần  tăng cường đổi mới phương pháp giảng dạy. Ngoài ra, các trường đại học nên có nhiều hoạt động hợp tác quốc tế để mở rộng các khóa huấn luyện cho giáo viên và sinh viên về kỹ năng khi xuống biển tìm tòi, khám phá động, thực vật của biển. Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Văn Cư cho rằng: Để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực làm việc trong ngành môi trường và khí tượng thủy văn biển cần phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để thu hút sinh viên ra trường "trụ" và "sống" được với chính ngành nghề mình đã học. Theo ông Nguyễn Văn Cư, Bộ Giáo dục-Đào tạo, Bộ Tài nguyên-Môi trường và các cơ quan, doanh nghiệp hàng hải, đóng tàu cần có sự phối hợp với các trường đại học, cao đẳng trong việc đẩy mạnh chất lượng giáo dục cũng như tìm kiếm việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. (theo: Thiếu nhân lực ngành Môi trường, khí tượng thuỷ văn biển - 25/09/2008 - Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam – VOV News) IV. Cơ chế chính sách về đầu tư và hạ tầng kỹ thuật còn thiếu đồng bộ, chi tiết và chưa phân bổ hợp lý với sự đầu tư vào những lĩnh vực khác trong danh mục đầu tư. Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Tuy nhiên, thực trạng hệ thống hạ tầng đô thị ở nước ta vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đô thị. Trong Đề án số 118 của bộ xây dựng trình lên thủ tướng chính phủ ngày 24/12/2009 về việc phê duyệt cơ chế thí điểm khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị có đề cập đến hai hạn chế chính trong cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Trước hết, theo đề án thì Cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đồng bộ, thiếu chi tiết: Quy hoạch các lĩnh vực trong hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa đồng bộ, nhiều nội dung chồng chéo, chưa tính toán đầy đủ các nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các định hướng nêu trong quy hoạch. Ở các đô thị quy mô vừa và nhỏ, việc triển khai quy hoạch chi tiết các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị còn gặp khó khăn, đặc biệt các đô thị mới hình thành hoặc chia tách, sáp nhập. Hệ thống các văn bản về đầu tư xây dựng đã được Nhà nước ban hành tương đối đầy đủ, thường xuyên được sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị còn một số bất cập như: quy định nội dung cấp Giấy chứng nhận đầu tư còn phức tạp, nội dung hướng dẫn về thỏa thuận quy hoạch chưa cụ thể; cơ chế chính sách trong bồi thường, giải phóng mặt bằng hay điều chỉnh, mức giá đền bù chưa hài hòa về quyền lợi giữa người dân và nhà đầu tư; chưa có quy định về một đầu mối trong việc lấy ý kiến chấp thuận về kết nối hạ tầng khi lập dự án và lấy ý kiến các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan khi thẩm định dự án gây kéo dài thời gian, ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư. Thứ hai Cơ chế chính sách thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được ban hành nhưng chưa đủ sức hấp dẫn các thành phần kinh tế khác: Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư hạ tầng kỹ thuật đô thị. Tuy nhiên, các cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa được phát huy nhiều trên thực tế do còn thiếu các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành. Các văn bản hiện hành chủ yếu đề cập tới các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đối với lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt và xử lý nước thải, chưa đề cập nhiều tới các lĩnh vực khác của hạ tầng kỹ thuật đô thị. Chính sách hỗ trợ đền bù, giải phóng mặt bằng đối với một số lĩnh vực hạ tầng như cấp nước, giao thông đô thị chưa được chú trọng đúng mức Ngoài ra, đề án còn nhắc đến một số bất cập khác trong cơ chế chính sách như: Hạ tầng kỹ thuật đô thị là lĩnh vực phức tạp trong khi Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm nên hệ thống cơ chế chính sách chưa được ban hành đồng bộ, kịp thời, thiếu chi tiết, gây khó khăn khi áp dụng thực tiễn. Công tác quy hoạch chưa thực hiện được vai trò định hướng, thiếu đồng bộ, còn nhiều điều chỉnh. Một số cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị mới được ban hành nhưng các điều kiện, thủ tục để tiếp cận ưu đãi còn khó khăn. Các cơ chế, chính sách thu hút còn chưa linh hoạt, thiếu đa dạng, chủ yếu dựa vào đất đai thông qua giá trị quyền sử dụng đất trong khi nguồn lực này có hạn dẫn tới nhà đầu tư thường chọn các khu vực có khả năng sinh lời cao. Mặt khác, tính hấp dẫn của các dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị chưa cao; năng lực, kinh nghiệm của các nhà đầu tư còn yếu. Còn thiếu sự phối hợp, hỗ trợ đồng bộ, kịp thời của cơ quan nhà nước trong quá trình triển khai các dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị. Biện pháp: Từ những bất cập trên, bộ xây dựng cũng đề xuất một số hướng cho giải pháp khắc phục kèm trong đề án: Trước thực trạng trên, để đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống đô thị Việt Nam, ngoài vai trò chủ đạo của Nhà nước trong đầu tư xây dựng và quản lý, vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, cần thiết phải thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế vào lĩnh vực này. Để đạt được mục tiêu này, cần nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách nhằm thu hút sự tham gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhạm vi và mức độ khuyến khích ưu đãi đầu tư vào lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan