Đề tài Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. Lý luận chung về phân phối 2

1. Lý luận của Mác Lênin 2

2. Quan điểm của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh 9

3. Nguyên tắc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 11

II. Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam 14

1. Thực trạng của các chính sách phân phối thu nhập 14

2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra đối với phân phối thu nhập 18

III. Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập thời gian tới 22

1. Quan điểm 22

2. Giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập thời gian tới 24

KẾT THÚC VẤN ĐỀ 31

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó là thành quả của lao động, tác động trực tiếp vào tính tích cực của lao động xã hội. Đó còn là nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng cho những người sản xuất ngang nhau, tham gia vào quỹ tiêu dùng xã hội khi làm công việc ngang nhau. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nó được thực hiện trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của một doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chỉ có thể được thừa nhận, bán được sản phẩm hàng hoá. Hiệu quả kinh tế được thể hiện ở kết quả lao động của cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp. Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế trong những điều kiện lao động như nhau, những lao động mang lại kết quả như nhau thì được trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau thì được trả công khác nhau. Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được thực hiện thông qua hai khâu phân phối với các chủ thể tham gia là nhà nước, doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp. Khâu thứ nhất tổng thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp.Khâu thứ hai phân phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp với tư cách là chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự kết hợp chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp. Phân phối thu nhập qua hai khâu vừa bảo đảm quyền của chủ sở hữu vốn tài sản tại doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản lý của nhà nước, vừa đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối thu nhập. Bên cạnh đó, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế còn thực hiện dưới hình thức tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi xã hội. Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động sau khi đã hoàn thành các công việc theo chức năng, nhiệm vụ được thoả thuận trong hợp đồng lao động. Lương tối thiểu là một hình thức phân phối căn cứ vào mức sống tối thiểu và tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của một nước trong từng thời kỳ và mỗi vùng trong một nước. Việc quy định tiền lương tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp lý tạo ra lưới an toàn cho người lao động thu nhập thực tế của người lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào kết quả lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả của doanh nghiệp. Phụ cấp lương là chế độ được hình thành bởi sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Các loại phụ cấp đó gồm phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút lao động, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp làm thêm giờ... Ngoài ra còn áp dụng một số chính sách phụ cấp lương cho các ngành nghề ưu tiên phát triển như giáo dục, đào tạo, y tế... Tiền thưởng là khoản các doanh nghiệp lấy từ lợi nhuận để phân phối nhằm khuyến khích, động viên người lao động hoặc tập thể làm việc tốt, có thành tích đặc biệt. Phúc lợi xã hội cũng là một hình thức làm tăng thêm thu nhập cho người lao động do kết quả lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể được thông qua xây dựng nhà ở, công trình phục vụ công nhân về vui chơi, giải trí … 4.2 Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một đòi hỏi tất yểu và cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tương ứng với cơ cấu sở hữu như vậy đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối thep kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và có ý nghĩa thực tế, do đó cần xem nó cũng là một nguyên tắc phân phối cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 4.3 Phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Trong xã hội ngoài những người có sức lao động và vốn góp vào quá trình sản xuất, nhờ đó nhận được thu nhập dưới hình thức tiền lương hay tiền công lợi tức, còn có những người không có khả năng lao động hoặc hết khả năng lao động mà xã hội vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN, nên phân phối thông qua phúc lợi xã hội có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. II. Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam Thực trạng các chính sách phân phối thu nhập Chính sách tiền lương Chính sách tiền lương là bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội liên quan trực tiếp đến lợi ích, phân phối thu nhập của hàng triệu người lao động, ảnh hưởng tới sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nhà nước với tư cách là chủ thể sở hữu, nhà nước quyết định chính sách phân phối thông qua việc ban hành hêj thống lương bao gồm lương tối thiểu, hệ thống thang lương, bảng lương. Tiền lương và thu nhập của người lao động từng bước gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh mối quan hệ giữa tiền lương, tiền thưởng và lợi nhuận được giải quyết hợp lý hơn Tuy nhiên mối quan hệ giữa tiền lương và các điều kiện thực hiện còn chứa đựng những yếu tố chưa phù hợp với cơ chế thị trường nên thực hiện tác dụng rất hạn chế, hệ thống thang bảng lương do nhà nước ban hành phức tạp, ít tác dụng. Nhà nước thống nhất quản lý chi phí tiền lương ở đầu vào còn chưa chặt chẽ. Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và không có ý khống chế mức lương tối đa nhưng khống chế tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn năng suất lao động. Những cải cách này tuy đã giảm được sự can thiệp của nhà nước nhưng việc khống chế quỹ lương, thưởng, phúc lợi đã hạn chế tính tích cực sáng tạo của người lao động, không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các ngành. Các chế độ phụ cấp ban hành để cuốn hút được người lao động làm việc ở những nơi khó khăn, bù đắp được hao phí lao động chưa tính được trong tiền lương. Các chế độ phụ cấp lương hiện hành vừa trùng lặp về ý nghĩa khuyến khích vừa không quy định rõ cách tính, vừa tạo ra mâu thuẫn trong quan hệ cân đối tiền lương giữa các ngành nghề, chưa đủ mức để khuyến khích những người đến công tác ở những nơi khó khăn, vùng xa, miền núi hẻo lánh. Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế, đời sống của dân cư nói chung ngày càng sa sút, đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã hội, trong các đơn vị sản xuất kinh doanh có thể phân ra ba loại xí nghiệp Loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi, có điều kiện phát triển chưa nhiều. Loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh, khi thu nhập của họ quá cao không bị điều tiết. Loại xí nghiệp ở trạng thái bấp bênh, nay lãi mai lỗ, sản xuất không ổn định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ mà thu nhập người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách không chính đáng. Loại xí nghiệp làm ăn thua lỗ liên tục thiếu việc làm có nguy cơ giải thể thu nhập của người lao động thực chất là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài sản bị khánh kiệt nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư nhân Toàn bộ những thực tế này đã tạo ra sự chênh lệch về tài năng của người lao động tạo ra, mà phần lớn không phải do sự chênh lệch về tài năng của người lao động tạo ra. Nhà nước còn thực hiện sự phân phối gián tiếp qua ngân sách cho công nhân viên chức. Ví dụ, vấn đề phân phối nhà ở tuy đã có quyết định 150CP nhưng khi thực hiện lại rất tuỳ tiện, chế độ trang cấp đồ dùng gia đình, chế độ chi cho phương tiện đi lại thì tuỳ từng gia đình, từng đơn vị cũng thực hiện khác nhau không thống nhất. Tuy vậy việc giải quyết tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất. Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị, sức lao động, chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động làm công ăn lương. Nhà nước và công đoàn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu của người lao động, tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc thực hiện chế độ tiền lương. Song chính sách tiền lương không đảm bảo đời sống của người lao động làm công ăn lương, của người nghỉ hưu, tiền lương được tiền tệ hoá ở mức thấp, do đó vừa không được hạch toán đủ vào giá thành vừa che dấu sự phân phối không công bằng. Cơ chế quản lý tiền lương còn nhiều sơ hở. Khó khăn lớn nhất hiện nay là nhà nước chưa có cơ chế và giải pháp để giám sát thu nhập thực của người lao động đặc biệt là đối với lao động quản lý doanh nghiệp để có biện pháp xử lý phù hợp, việc quản lý tiền lương vẫn còn mang nặng tính hành chính, tập trung quan liêu bao cấp, chính sách tiền lương là một mặt quan trọng về sở hữu nhưng phân phối chưa được minh bạch. Do đó phải thực hiện cải cách tiền lương, thực hiện công bằng hơn tạo động lực tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác, tăng trưởng kinh tế, thay đổi phương thức quản lý về lao động tiền lương. 1.2. Chính sách xoá đói giảm nghèo. Bản chất của vấn đề nghèo đói là do quy luật phát triển kinh tế xã hội không đồng đều dẫn đến phân tầng xã hội và phân hoá giàu nghèo. Nghèo đói đanglà một trong những vấn đề bức xúc của Việt nam hiện nay và đựơc nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách để giảm hộ đói nghèo, đảm bảo cho những hộ đói nghèo được hưởng phúc lợi xã hội, y tế giáo dục … điều này đã được đảng ta xác định :" Tăng thu nhập cải thiện một bước đời sống vật chất văn hóa của nông dân, giảm mức tăng dân số, khắc phục nạn suy dinh dưỡng, tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo, nhất là các vùng cao vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng…". Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương thực hiện xóa đói giảm nghèo với một loạt chính sách và các giải pháp được đồng bộ triển khai thực hiện. Nghị quyết đại hội VIII đã khẳng định xoá đói giảm nghèo là một trong 11 chương trình kinh tế xã hội giai đoạn 1996-2000. Chính phủ chỉ đạo Bộ lao động thương binh xã hội xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và chỉ đạo các bộ ngành các cấp uỷ Đảng chính quyền, các tổ chức huy động nguồn lực thực hiện chính sách và mục tiêu giảm nghèo. Quyết định 13/1998/QĐ-TTG về việc thành lập ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển nội dung từ hoạt động phong trào sang nội dung phát triển kinh tế, những mục tiêu về xóa đói giảm nghèo đã chính thức được chính phủ cân đối nguồn lực từ ngân sách. Nhà nước đã ban hành hệ thống văn bản chính sách hỗ trợ trực tiếp xóa đói giảm nghèo đã từng bước xây dựng và tổ chức chỉ đạo có hiệu quả ở hầu hết các địa phương. Hệ thống chính sách một mặt tạo dựng giá đỡ cho người nghèo, mặt khác cũng chính là công cụ nhằm thực hiện mục tiêu của đảng và nhà nước. Nhiều hệ thống chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, tín dụng, đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nước sạch đã thực hiện tốt ở nhiều địa phương. Hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo gồm: Chính sách đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn và sắp xếp lại dân cư. Chính sách hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề. Chính sách hỗ trợ tín dụng với người nghèo. Chính sách hỗ trợ vể giáo dục. Chính sách hỗ trợ vể y tế. Chính sách hỗ trợ người nghèo cách làm ăn và khuyến nông - lâm - ngư. Chính sách hỗ trợ nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ xoá đói giảm nghèo và cán bộ ở các xã nghèo. Chính sách định canh, định cưm, di dân vùng kinh tế mới. Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Chính sách hỗ trợ tăng cường cán bộ xã nghèo. Tuy nhiên nước ta còn nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, ngân sách nhà nước còn hạn chế chưa đảm bảo đầu tư cho xã nghèo, người nghèo chưa đầu tư đúng mức cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Mặc dù Đảng có nhiều chính sách triển khai nhưng khi thực hiện còn nhiều khó khăn cán bộ chưa có kinh nghiệm và chưa tạo lập được nhiều mô hình, một số mô hình đã có thì việc tổng kết nhân rộng còn hạn chế. Môi trường bền vững cho xoá đói giảm nghèo như: đất đai, thuế xuất nhập khẩu, bảo hộ tiêu thụ nông sản phẩm…. Trình độ nhận biết về xóa đói giảm nghèo còn nhiều hạn chế nhất là đối với cán bộ cấp cơ sở. 1.3 các chính sách xã hội: trong công cuộc đổi mới, đời sống của nhân dân được nâng cao, nhà nước càng ngày càng đảm bảo cho nhân dân được hưởng sự chăm sóc từ quỹ phúc lợi của xã hội. Nhà nước đã điểu chỉnh , bổ sung , sửa đổi liên tục theo quan điểm huy động mọi lực lượng trong xã hội bao gồm nhà nước , cộng đồng , gia đình cùng tham gia thực hiện chính sách xã hội. Lĩnh vực giáo dục: Chính sách giáo dục có vai trò quan trọng đặc biệt trong phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí phục vụ quá trình phát triển đất nước. Vấn đề giáo dục đựơc coi là vấn đề quốc sách nên nhà nước ta rất coi trọng và có nhiều chính sách để phát triển giáo dục. Trong nền kinh tế thị trường , lĩnh vực Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt: Sự nghiệp giáo dục được cơ cấu lại, đa dạng hoá các loại hình trường học. Hệ thống giáo dục và đào tạo , tạo điều kiện mở rộng cho người họclựa chọn. Đa dạng hoá các hình thức cung cấp các dịch vụ giáo dục bao gồm dịch vụ của nhà nước và tư nhân. Thực hiện xã hội hoá giáo dục, tạo điều kiện cho người dân , nhất là người nghèo được tiếp cận với dịch vụ giáo dục, khuyến khích phát triển các trường ngoài công lập từ mầm non đến đại học, làm giảm sức ép cho giáo dục công lập. Bên cạnh giáo dục tiểu học, nhà nước còn thực hiện một số chính sách đốí với con em người nghèo như miễn giảm học phí, thành lập quỹ học bổng cho học sinh nghèo vay... Tuy nhiên lĩnh vực giáo dục vẫn còn nihều bất cập, tình trạng thiếu giáo viên , cơ sở vật chất học tập, số lượng học sinh phải học ca ba... vẫn còn tương đối phổ biến. Thực hiện triển khai chính sách giáo dục còn nhiều thiếu, yếu và không đồng bộ... ở bậc đaị học tỷ lệ giảng viên trình độ còn thấp. Nhiều học sinh trong độ tuổi vẫn chưa được đến trường , đặc biệt là đối tượng yếu thế trong xã hôị người nghèo , trẻ em vùng sâu, vùng xa, trẻ em mồ côi, lang thang hè phố . chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với học sinh đầu cấp còn thấp. để thực hiện phân phối công bằng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hay ở các nhiệm vụ chiến lược khác thì vấn đề giáo dục luồn được coi trọng giáo dục , khi nhận thức của con người cao thì dễ dàng thực hiện tốt được các mục tiêu và kế hoạch đã được đặt ra. b.Lĩnh vực y tế việc chăm sóc sức khoẻ của người dân là mục tiêu của Đảng và nhà nước. Do đó việc phân phối thu nhập cũng là tạo điều kiện cho chăm sóc cho moị tầng lớp nhân dân. trong nền kinh tế thị trường, các chính sách y tế ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Xoá bỏ bao cấp mang tính toàn bộ và tràn lan của nhà nước trong y tế thay đôỉ phương thức quản lý, từ việc cấp kinh phí theo đầu giường bệnh chuyển sang cấp theo đầu người. đa dạng hoá các hình thức chăm sóc sức khoẻ, tổ chức mạng lưới khám chữa bệnh từ chỗ quy định địa giới hành chính sang tổ chức cụm dân cư. Thực hiện chính sách xã hội hoá y tế, cho phép tư nhân hành nghề y dược. Khi người dân được chăm sóc tốt thì mới có sức khoẻ để thực hiện các mục tiêu về kinh tế xã hội đã được đặt ra. c.bảo hiểm xã hội. Hiện nay mạng lưới bảo hiểm xã hôị của nước ta được mở rộng với nhiều loại hình: bảo hiểm y tế, giáo dục, thân thể... số lượng người dân tham gia vào mạng lưới bảo hiểm càng nhiều vì nó mang lại lợi ích thiết thực và do thu nhập của người dân cao hơn trước . nhà nước ta cũng tạo điều kiện để mở rộng nhiều loại hình bảo hiểm để đảm bảo nhu cầu của người dân. bảo hiểm xã hội về hưu trí, về giáo dục... vấn đề đặt ra là phải thực hiện công bằng đảm bảo như nhau đối với mọi người dân. 2. Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra dưới phân phối thu nhập. Do những cải cách và mở cửa , nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển và đã đạt được những thành tựu đáng kể, thu nhập của người dân tăng cao so với trước, mức sống của nhân dân đựơc cải thiện không ngừng. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2002, của tổng cục thống kê, thu nhập bình quân đầu năm 2002 theo giá thực tế đạt 357.000 đồng / tháng, tăng 21% so với năm 1999, trong đó khu vực thành thị đạt 626.000 đồng/ tháng, tăng 21,1%và khu vực nông thôn đạt 275.000đồng/ tháng tăng 22,2%. Thu nhập của nhóm 20% hộ giàu đạt 877.000đồng/ tháng tăng 18,2%, nhóm 20% hộ nghèo đạt 108.000 đồng / tháng tăng 11,7%. Nét mới trong thời kỳ này là tốc độ tăng thu nhập của dân cư nông thôn cao hơn thành thị trong đó thu nhập của các vùng nghèo , vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cắn cứ cách mạng, các hộ nghèo , hộ chính sách... đã có nhiều tiến bộ rõ nét do tác động của những chương trình135, và các chương trình dự án khác về xã hội đã đi vào cuộc sống. Do thu nhập tăng và ổn định nên chi tiêu của các tầng lớp dân cư đều tăng. Mức chi tiêu cho đời sống bình quấnmột người một tháng năm 2001-2002 đạt 26,8 nghìn đồng bằng 75% thu nhập và tăng 21,4% so với năm 1999, trong đó chi tiêu của khu vực thành thị đạt 460.000 đồng /người/ tháng, tăng 26,3%. Mức chi tiêu cuả nhóm 20% số hộ nghèo tăng 11%, nhóm 20% số hộ nghèo tăng 18% so với năm 1999. mức sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện còn thể hiện trong đổi mới cơ cấu chi tiêu theo hướng giảm tỷ trọng chi cho ăn uống, tăng tỷ trọng chi tiêu cho văn hóa, giáo dục, giải trí, mua sắm đồ dùng có giá trị lớn xây dựng nhà cửa chi tiêucho ăn uống của dân cư giảm từ 63% (năm 1999) xuống 57%(năm 2002) nhưng lượng tuyệt đối về lương thực , thực phẩm tiêu dùng vẫn tắng. Nhóm hộ gia đình thuộc loại trung bình khá và giàu chi nhiều hơn cho nhu cầu ăn uống, mua sắm đồ dùng từ 3,8%(năm 1999)đến 8%(năm 2002). Chi tiêu chăm sóc sức khoẻ từ 4,6% lên 5,7% , giáo dục từ 4,6%lên 6,1%. Vì vậy nhìn chung cả nước điều kiện nhà ở đồ dùng trong nhà , phương tiện đi lại đều được cải thiện. Diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng từ 9,7m2(1997-1998)lên 12,5m2(năm 2001-2002) tỷ lệ nhà tạm và nhà khác giảm từ 26% xuống 24,5% tỷ lệ nhà kiên cố và bán kiên cố tăng từ 74% lên 75,5% xe máy từ 24% lên 32,5% , hộ dùng nước máy làm nguồn nứơc ăn tăng từ 15% lên 17,6% trong thời gian tương ứng. Kết quả của tăng thu nhập và cải thiện mức sống các tầng lớp dân cư trong 3 năm đầu trong đó rõ nét nhất là giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo . năm 2003 ứơc tính tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn khoảng 12% đến 12,5% và đạt mục tiêu do quốc hội đề ra tại kỳ họp thứ 2(khoá XI) theo báo cáo của tổng cục thống kê đến ngày 21-10-2003 cả nước có 49,7 nghìn lượt hộ với 252,3 nghìn khẩu bị thiếu đói giáp hạt, chiếm 0,42% số hộ và 0,46% số khẩu nông nghiệp , giảm 45% so với cùng kỳ năm 2002. Mức sống của nhân dân tiếp tục có chuyển biến tích cực thể hiện qua mức chi tiêu cho đời sống . bên cạnh việc tăng các khoản chi nâng cao chất lượng khẩu phần như chi mua thịt, trứng, đậu phụ , đường, sữa bánh kẹo thì nhiều khoản chi tiêu ngoài ăn uống cũng tăng cả về mức chi tuyệt đối và tỷ trọng trong chi tiêu đời sống của họ. Khối lượng tiêu dùng một số mặt hàng bình quân 1 người / tháng 1999 2001-2002 Các loại gạo(kg) 13.5 12.01 Thịt các loại(kg) 1.23 1.28 Mỡ , dầu ăn(kg) 0.23 0.23 Trứng, gia cầm(quả) 2.04 2.21 đưòng , mật, sữa. bánh, mứt kẹo(kg) 0.33 0.41 Đạt được những thành tựu trên do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do tác động tích cực của các chính sách kinh tế xã hôị đúng đắn hợp lòng dân của đảng và nhà nước . các chính sách đó tạo thêm động lực mới thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định với công bằng . những hộ có thu nhập tương đối cao ngoài chi tiêu cho đời sống hàng ngày còn tích luỹ xây dựng nhà ở mua sắm đồ đắt tiền , sử dụng điện nước máy và các khoản chi tiêu khác góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Nét nôỉ bật về tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư trong thời kỳ đựơc nhà nước quan tâm đầu tư thỏa đáng đạt được kết quả khả quan. Nước ta là nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt nó vưà tạo ra điều kiện xoá đói giảm nghèo để không ngừng tạo ra sự giàu nghèo mới trong xã hôị, chúng tao không hy vọng chỉ lợ i dụng mặt tăng trưởng và hiệu quả của cơ chế thị trường mà loại bỏ mặt phân phối không công bằng của nó đó là sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng trong cả nước. So sánh thu nhầpgiưa thành thị và nông thôn, khoảng cách về thu nhập ở mức sống có xu hướng ngày càng tăng. Mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn đồng/ tháng tăng 63,4% hay tăng 17,8% so với năm 1996 nếu loại trừ yếu tố lạm phát thì mức tăng 13,1% /năm( theo kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1999 của tổng cục thống kê). mức thu nhập ở nông thôn đạt225.000 đồng/ tháng, tăng 19,7% và tăng 6,2% so với cùng kỳ, mức thu nhập hiện nay ở khu vực thành thị có xu hướng ngày càng dãn ra so với mức tăng thu nhập ơ r vùng nông thôn(17,8% /năm so với 6,2%/năm). nếu loại trừ mức tăng giá thì mức thu nhập ở nông thôn trong vòng 4 năm qua hâù như không tăng. Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu của các hộ trong hai khu vực không giống nhau không những cao mà còn có xu hướng tăng dần theo thời gian do tốc độ tăng thu nhập dân cư thành thị hàng năm thường cao hơn dân cư nông thôn. tính ổn định thu nhập dân cư nông thôn còn thấp , nhất là nông dân vì nguồn thu của họ phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và điều kiện sản xuất. Mà trong những năm gần đây hay có những hiện tượng bất thường xảy ra hạn hán,lũ lụt, do đó nông ,lâm, ngư nghiệp bị ảnh hưởng giá nông sản không ổn định và có xu hướng giảm. mặc dù nhà nước đã có một số chính sách tích cực để thu hẹp khoảng cách chênh lệch này nhưng đến nay vẫn còn lớn, tỷ giá kéo giữa các mặt hàng nông sản và công nghiệp. Do vậy nhà nước cần có giải pháp giải quyết vấn đề này. đó là một vấn đề cấp bách để đảm bảo phân phối công bằng cho toàn xã hội. Sự phân hoá thu nhập và đời sống trong nội bộ dân khu từng khu vực từng vùng vẫn còn lớn và có xu hướng tăng nhanh. So 6 vùng kinh tế trong cả nước vùng Đông Nam Bộ đạt mức thu nhập cao nhất 527,8000 đ/ tháng tăng 11,8% tiếp đến là tây nguyên 344,7000 đ/tháng tăng 9,1%/năm, Bắc trung bộ 212,4000 đ/ tháng, tăng 6,9%/năm và thấp nhất là vùng tây bắc và đông bắc chỉ đạt 210000 đ/ tháng tăng 6,5%/năm(1996-1999). Mặc dù có đảng và nhà nước quan tâm và đầu tư chính sách cho các khu vực miền núi vùng sâu, vùng xa nhưng vẫn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng , các miền vối nhau. Nếu như các vùng từ Tây Nguyên trở vào có mức thu nhập bình quân một người /một ngày trên 10000 đ thì khu vực miền núi phía bắc mức thu nhập bình quân 1 người/1ngày chưa đến 6000đ và nhiều nơi còn thấp hơn nữa. xu hướng ngày càng gia tăng chênh lệch giữa các vùng còn tiếp tục. Kết quả các cuộc điều tra do tổng cục thống kế công bố trong những năm gần đây cho thấy khoảng cách về thu nhập và chi tiêu giữa các nhóm hộ giàu (gồm 20% số hộ có thu nhập cao nhất với nhóm hộ nghèo gồm20% số hộ có thu nhập thấp nhất) có xu hướng dãn ra. Nếu so sánh thu nhập của 10% số hộ có thu nhập cao nhất với 10% số hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch giữa hai nhóm năm 2001-2002 chung cả nước là 13,86 lần trong khu vực thành thị là 14,22 lần, khu vực nông thôn là 9,4 lần. Sự chênh lệch về thu nhập như trên dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo thể hiện qua hệ số là 0,39 , năm 2002 đã tăng lên 0,42. như vậy cùng với kết quả tăng thu nhập của các tầnglớp dân cư trong những năm đổi mới sự bất bình đẳng về thu nhập có gia tăng không lớn. đó là một trong những vấn đề nổi bật hiện nay và giải quyết nhằm thu hẹp khoảng cách này. thu nhập bình quân đầu người 1 tháng năm 2001-2002 ở khu vực thành thị cao gấp 2,3 lần khu vực nông thôn. ở nông thôn thu nhập bình quân đầu người tuy có tăng lên nhưng còn ở mức thấp, nhất là thu nhập của người nghèo. Trong các vùng thì khu vực tây bắc , đông bắc và bắc trung bộ có mức sống thấp nhất và tỷ lệ nghèo cao nhất cả nước. Chi tiêu cho đời sống và nhà ở của các tầng lớp dân cư cũng có sự phân hoá theo xu hướng phân hoá thu nhập. Khi so sánh nhóm có thu nhập cao nhất có mức chi không phải ăn uống gấp 7,6 lần so với nhóm thu thấp nhất(276 nghìn đống so với 36,6 nghìn đồng 1 người/ tháng). Do vậy những người giàu có điều kiện nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện sinh hoạt tốt hơn có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội cao hơn. các gia đình thuộc nhóm hộ trung bình , hộ khá và hộ giàu chi tiêu nhiều tiền hơn cho các nhu cầu ngoài ăn uống, tỷ trọng chi không phải ăn uống tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50647.doc
Tài liệu liên quan