Năm 2008 là một năm đầy khó khăn và biến động đối với toàn nền kinh tế nói chung và đối với ngành xây dựng nói riêng. Đây là một năm mà hoạt động kinh doanh của ngành xây dựng liên tục phải đối diện với nhiều trở ngại. Có thể nói chưa bao giờ trong suốt những năm đổi mới, doanh nghiệp ngành xây dựng lại phải trải qua những thử thách ở cường độ cao và trên diện rộng như năm 2008.
Những khó khăn do lạm phát và khủng hoảng kinh tế tác động mạnh lên cả ba lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng là xây lắp, vật liệu xây dựng (VLXD) và địa ốc. Khiến các doanh nghiệp cảm thấy chới với trước một thực tế biến đổi khôn lường khi mà năm trước đó (năm 2007) các doanh nghiệp xây dựng làm không hết việc và luôn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 30%/năm .
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4283 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích báo cáo tài chính công ty cổ phần Vimeco, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiền
7.20
4.41
3.87
7.18
7.84
II
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
0.00
0.00
0.00
0.00
0.00
III
Các khoản phải thu ngắn hạn
21.87
16.67
15.70
10.67
16.04
1
Phải thu của khách hàng
17.75
13.54
13.45
-
-
2
Trả trước cho người bán
3.64
3.08
1.65
-
-
3
Các khoản phải thu khác
0.55
0.05
0.60
-
-
4
Dự phòng phải thu ngắn hạn khó đòi
-0.06
0.00
0.00
-
-
IV
Hàng tồn kho
52.20
53.20
47.93
40.38
32.32
V
Tài sản ngắn hạn khác
1.50
3.61
3.54
3.22
2.24
1
Thuế GTGT được khấu trừ
1.01
2.77
2.88
-
-
2
Tài sản ngắn hạn khác
0.49
0.84
0.66
-
-
B
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
17.23
22.11
28.96
38.55
41.57
I
Tài sản cố định
14.69
20.56
27.34
34.22
40.20
1
Tài sản cố định hữu hình
12.28
18.97
26.32
33.58
-
2
Tài sản cố định vô hình
0.37
0.51
0.46
0.64
-
3
Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
2.05
1.08
0.56
1.38
-
II
Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
1.70
0.72
0.42
0.08
0.11
1
Đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh
0.84
0.00
0.00
-
-
2
Đầu tư dài hạn khác
0.86
0.72
0.42
-
-
III
Tài sản dài hạn khác
0.83
0.84
1.20
2.87
-
1
Chi phí trả trước dài hạn
0.83
0.84
1.20
2.87
-
NGUỒN VỐN
100
100
100
100
100
A
Nợ phải trả
87.09
86.35
92.89
91.29
91.81
I
Nợ ngắn hạn
77.69
71.84
70.70
77.82
71.64
1
Vay và nợ ngắn hạn
6.48
9.04
18.96
-
-
2
Phải trả người bán
18.37
13.59
12.94
-
-
3
Người mua trả tiền trước
49.46
46.62
35.54
-
-
4
Thuế và các khoản phải nộp Nhà nước
0.41
0.59
0.19
-
-
5
Phải trả người lao động
0.84
0.97
0.98
-
-
6
Chi phí phải trả
0.03
0.05
0.24
-
-
7
Các khoản phải trả, phải nộp khác
2.10
0.98
1.85
-
-
II
Nợ dài hạn
9.40
14.51
22.19
13.47
20.17
1
Phải trả dài hạn khác
0.04
0.04
22.10
-
-
2
Dự phòng trợ cấp mất việc làm
0.04
0.06
0.09
-
-
B
Vốn chủ sở hữu
12.91
13.65
7.11
8.71
8.19
I
Vốn chủ sở hữu
12.38
12.98
6.58
8.13
8.01
1
Vốn đầu tư của chủ sở hữu
5.57
6.98
4.58
6.98
8.01
2
Thặng dư vốn cổ phần
2.57
3.22
0.00
0.00
0.00
3
Quỹ đầu tư phát triển
3.48
2.35
1.80
0.96
0.00
4
Quỹ dự phòng tài chính
0.76
0.42
0.19
0.18
0.00
II
Nguồn kinh phí và quỹ khác
0.52
0.67
0.54
0.58
0.18
1
Quỹ khen thưởng, phúc lợi
0.52
0.67
0.54
-
-
Nhìn trên bảng cân đối kế toán ta thấy tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản ngắn hạn của Vimeco, tỷ trọng này cũng tăng lên qua các năm, trong đó chủ yếu là sự gia tăng của hàng tồn kho và khoản phải thu, tiền và các khoản tương đương tiền có xu hướng giảm. Tỷ trọng hàng tồn kho tăng là do thời gian qua, khối lượng các công trình mà Vimeco đảm nhận ngày càng tăng lên ở tất cả các lĩnh vực: từ thi công gia cố nền móng, xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng và khu công nghiệp, xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thủy lợi, thủy điện đến sản xuất, chế biến và kinh doanh vật liệu xây dựng. Do đó công ty cấn một lượng hàng tồn kho lớn để có thể đảm bảo yêu cầu kinh doanh.
Tỷ trọng các khoản phải thu khá lớn chứng tỏ công ty đang bị chiếm dụng vốn . Công ty cần phải có những biện pháp thu nợ hợp lý. Mặt khác tiền và các khoản tương đương tiền chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm, trong khi các khoản nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu. Điều này sẽ làm giảm khả năng thanh toán của công ty.
Tỷ trọng tài sản cố định giảm mạnh qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do thời gian đầu sau khi cổ phần hóa, Vimeco phải đầu tư một lượng máy móc, thiết bị mới để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thi công thủy điện, là lĩnh vực thi công mới của công ty nhưng đã thu được những kết quả đáng khích lệ.
Giá tri đầu tư dài hạn của Vimeco ngày càng tăng. Điều này hợp với xu hướng chung của các công ty hiện nay là đa dạng hóa vào những lĩnh vực, ngành nghề khác. Tỷ trọng đầu tư dài hạn của công ty năm 2008 tăng lên vượt bậc so với những năm trước, do công ty đã mở rộng liên kết, liên doanh với các công ty khác. Điển hình là việc kết hợp với công ty Hanel xây dựng tòa nhà Vimeco – Hanel với tổng mức đầu tư khoảng 700 tỷ đồng…
Trong cơ cấu nợ, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn nhiều so với nợ dài hạn. Như thế, sự đảm bảo tài trợ của tài sản bằng nợ dài hạn là không cao. Tỷ trọng nợ ngắn hạn của công ty là khá cao so với nợ dài hạn. Như thế, có thể công ty sẽ tiết kiệm được chi phí vốn vì chi phí huy động nợ ngắn hạn thấp hơn nợ dài hạn. Nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của công ty: nguồn dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn, mà phải dùng một phần nợ ngắn hạn là nguồn có tính ổn định thấp để tài trợ cho tài sản dài hạn là tài sản có tính thanh khoản thấ Thông thường các khoản vay dài hạn sẽ ý nghĩa cao hơn về mặt hiệu quả đầu tư cho doanh nghiệp, công ty nên điều chỉnh lại cơ cấu nợ hợp lý hơn.
Vốn chủ sở hữu của Vimeco tăng lên qua các năm, chủ yếu là do nguồn vốn giữ lại để đầu tư vào các dự án mới, đặc biệt là quỹ đầu tư phát triển ngày càng tăng. Tỷ trọng nợ so với vốn chủ sở hữu của công ty là khá cao chứng tỏ công ty đã sử dụng tốt đòn cân nợ để tận dụng được ưu đãi thuế từ lãi vay. Mặt khác, khi tăng nợ tức là giảm chi phí chi ra trên một đồng tiền mặt và vì thế sẽ tăng cao lợi nhuận, cũng như gía trị của công ty . Tuy vậy tỷ trọng nợ của công ty quá cao so với chủ sỡ hữu, bình quân 8.9 lần . Dẫn đến nguy cơ rủi ro cao như nguy cơ phá sản, nguy cơ mất khách hàng, nhân viên và nhà cung cấp…Do đó công ty đã điều chỉnh lại việc sử dung cán cân nợ, bằng cách tăng sử dụng vốn chủ sở hữu, giảm sử dụng nợ để giữ cho công ty ở trong tình trạnh tài chính lành mạnh.
2. Phân tích cơ cấu báo cáo kết quả kinh doanh :
Đơn vị tinh : %
Chỉ tiêu
2008
2007
2006
2005
2004
DDT bán hàng và cung cấp dịch vụ
100
100
100
100
100
Giá vốn hàng bán
93.19
90.01
91.29
89.49
88.77
LN gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
6.81
9.99
8.71
10.51
11.23
Doanh thu hoạt động tài chính
0.56
0.39
0.43
2.53
0.16
Chi phí tài chính
2.10
4.29
4.88
6.80
5.30
Trong đó: Chi phí lãi vay
2.07
4.29
4.88
6.80
3.91
Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính
-1.54
-3.90
-4.46
-4.27
-0.05
Chi phí bán hàng
0.00
0.00
0.00
0.00
0.00
Chi phí quản lý doanh nghiệp
1.35
1.98
1.84
3.09
2.23
LN/(lỗ) thuần từ hoạt động kinh doanh
3.92
4.11
2.42
3.15
3.85
Thu nhập khác
0.50
0.35
0.17
0.00
0.03
Chi phí khác
0.26
0.07
0.03
0.00
0.48
Lợi nhuận khác
0.23
0.28
0.14
0.00
-0.45
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
4.15
4.39
2.56
3.15
3.40
Chi phí thuế TNDN hiện hành
0.72
1.01
0.36
0.44
0.00
LN sau thuế thu nhập doanh nghiệp
3.43
3.39
2.20
2.71
3.4
Lợi nhuận sau thuế của Vimeco có xu hướng tăng lên, thấp nhất là năm 2006, do giá vốn hàng bán và chi phí tài chính của công ty đều ở mức cao. Từ bảng cân đối kế toán ta có thể thấy năm 2006 là năm mà tỷ trọng nợ vay của doanh nghiệp ở mức cao nhất, chiếm 92.89% tổng nguồn vốn, làm tăng lãi vay phải trả, tăng chi phí tài chính của công ty.
Lợi nhuận sau thuế của công ty cao nhất là vào năm 2008. Năm 2008 là một năm đầy khó khăn cho toàn nền kinh tế nói chung và ngành xây dựng nói riêng. Trong nước, tình hình lạm phát gia tăng, chi phí xây dựng tại thời điểm tháng 5/2008 đã tăng hơn 40% so với cuối năm 2007. Khiến cho giá vốn hàng bán năm 2008 tăng vọt so với những năm trước. Mặt khác cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng đã ít nhiều ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh trong nước. Trước những khó khăn chung đó, lợi nhuận thuần của công ty không những không giảm đi mà còn tăng lên. Nguyên nhân chính là do công ty đã cắt giảm được các chi phí tài chính, chi phí quản lý doanh nghiệp một cách đáng kể. Thể hiện khả năng quản lý chi phí của công ty đã tăng lên rõ rệt.
III. Phân tích tỷ số :
1. Phân tích tỷ số thanh khoản :
Các chỉ tiêu
2008
2007
2006
2005
Hệ số thanh toán hiện hành (lần)
1.07
1.08
1.00
0.79
Hệ số thanh toán nhanh (lần)
0.37
0.29
0.28
0.23
Hệ số thanh toán tức thời (lần)
0.09
0.06
0.05
0.09
Hệ số thanh toán lãi vay (lần)
3
2
1
1
Khả năng thanh toán hiện hành trung bình đạt 0.985, tức nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng 0.985 lần tài sản ngắn hạn. Nguyên nhân chính khiến tỷ số này thấp là do năm 2005, tỷ trọng tài sản lưu động ở mức thấp nhất trong khi nợ ngắn hạn lại chiếm tỷ lệ cao nhất, dẫn đến hệ số thanh toán hiện hành của công ty rất thấp. Tuy nhiên trong giai đoạn 2006-2008 tỷ số này đã tăng lên so với giai đoạn trước và vượt mức 1, đạt giá trị cao nhất vào năm 2007 và giảm nhẹ trong năm 2008. Sở dĩ có sự giảm xuống này là do năm 2008 nợ ngắn hạn tăng lên đáng kể, bằng 108% so với năm 2007, trong khi tài sản ngắn hạn chỉ bằng 106% . Năm 2008 hệ số thanh toán hiện hành của Vimeco thấp hơn hệ số bình quân của toàn ngành là 1.26. Mặt khác quan sát các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán ta thấy lý do khả năng thanh toán hiện hành cao chủ yếu là do hàng tồn kho và các khoản phải thu của công ty có giá trị lớn. Do đó trong trường hợp này khả năng thanh toán hiện hành của công ty cao chưa hẳn là tốt. Nhìn chung công ty đáp ứng khả năng thanh toán hiện hành nhưng chưa thật sự tốt
Khả năng thanh toán nhanh đạt trung bình 0.3 lần, cho thấy tài sản lưu động có tính thanh khoản nhanh của công ty nhỏ hơn nhiều so với giá trị nợ ngắn hạn. Hay nói cách khác là tài sản lưu động có thể sử dụng ngay của công ty không đủ đảm bảo cho việc thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn, nếu các chủ nợ đòi tiền cùng một lúc. Như vậy, nói chung tình hình thanh toán nhanh của công ty không tốt lắm.
Một vấn đề đáng quan tâm đó là hệ số thanh toán nhanh của công ty quá thấp so với hệ số thanh toán ngắn hạn. Nguyên nhân là do hàng tồn kho của công ty chiếm tỷ trọng khá cao trong giá trị tài sản lưu động. Điều này cũng do đặc điểm của các công ty xây dựng, tuy nhiên công ty cũng cần phải có những biện pháp để cắt giảm lượng hàng tồn kho, như việc thu mua và sử dụng hợp lý nguồn nguyên vật liệu, công cụ xây dựng…
Khả năng thanh toán tức thời của công ty rất thấp, thể hiện Tiền và các khoản tương đương tiền của công ty là rất nhỏ so với Nợ ngắn hạn, công ty thiếu vốn bằng tiền để thanh toán nợ tức thời. Như thế khả năng thanh toán ngay các khoản nợ của công ty là rất kém.
Cũng cần chú ý rằng, các con số này đều có xu hướng tăng lên. Đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ khả năng thanh khoản của công ty ngày càng tăng lên, song cũng có thể phản ánh rằng việc sử dụng tài sản lưu động cũng như các tài sản có tính thanh khoản cao nhưng suất sinh lợi thấp không hiệu quả.
Khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ đảm bảo thanh toán lãi vay bằng Lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Hệ số này của công ty đều lớn hơn 1 chứng tỏ công ty có khả năng sử dụng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh để trang trải lãi vay. Khả năng thanh toán lãi vay năm 2008 tăng 3 lần so với năm 2005. Năm 2008, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho lãi vay tăng cao, trên 20%. Tuy nhiên khả năng thanh toán lãi vay của công ty vẫn tăng lên, một lần nữa chứng tỏ công ty công ty thể điều chỉnh thích ứng tốt với thay đổi của nền kinh tế.
2. Phân tích khả năng hoạt động:
Các chỉ tiêu
2008
2007
2006
2005
Vòng quay tổng tài sản(vòng)
1.03
0.66
0.73
0.64
Vòng quay tài sản ngắn hạn(vòng)
1.28
0.89
1.09
1.07
Vòng quay tài sản cố định(vòng)
5.96
2.81
2.22
1.76
Mức độ đảm nhiệm tổng tài sản
0.97
1.50
1.36
1.55
Vòng quay hàng tồn kho(vòng)
1.83
1.18
1.50
1.55
Số ngày tồn kho(ngày)
197
305
204
232
Vòng quay các khoản phải thu
5.27
4.09
5.40
5.02
Kỳ thu tiền bình quân(ngày)
68
88
67
72
Vòng quay các khoản phải trả
5.92
4.50
Số ngày nợ bình quân(ngày)
61
80
Theo như tính toán ta thấy :
Bình quân cứ 1 đồng tài sản của Vimeco đem lại 0.62 đồng doanh thu thuần cho công ty, bình quân cứ 1 đồng tài sản ngắn hạn tạo ra 1.08 đồng doanh thu thuần và bình quân cứ 1 đồng tài sản cố định đem lại 3.19 đồng doanh thu thuần. Năm 2008, vòng quay tài sản của công ty là 1.03 lớn hơn mức bình quân ngành là 0.6. Các tỷ số này có xu hướng tăng lên qua các năm chứng tỏ việc sử dụng tài sản của công ty vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng hiệu quả. Đặc biệt là sự tăng lên rõ rệt của vòng quay tài sản cố định hay hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Như đã phân tích ở trên, do thời gian đầu công ty phải đầu tư nhiều vào tài sản cố định, chẳng hạn như chỉ tính riêng năm 2005, giá trị đầu tư xe máy thiết bị của Vimeco là 70 tỷ đồng, tương đương 23% tổng doanh thu. Thời gian về sau công ty có thể tiết kiệm được phần chi phí cố định và sử dụng nhiều hơn chi phí biến đổi.
Ngoài ra ta cũng thấy bình quân cần 1.35 đồng tài sản được đầu tư để có thể tạo ra 1 đồng doanh thu.
Vòng quay hàng tồn kho bình quân của công ty là 1.52 vòng, như vậy bình quân hàng tồn kho của công ty quay được 1.52 vòng một năm để tạo ra doanh thu, bình quân hàng tồn kho là 235 ngày. Vòng quay hàng tồn kho có xu hướng tăng lên, số ngày tồn kho có xu hướng giảm xuồng, thể hiện công ty đã sử dụng ngày càng hiệu quả lượng hàng tồn kho để tạo ra doanh thu. Tuy nhiên ta thấy năm 2007, vòng quay tài sản ngắn hạn, vòng quay hàng tồn kho của công ty giảm so với các năm còn lại. Nguyên nhân là do năm 2007, Vimeco đã thực hiện thi công rất nhiều công trình có giá trị lớn như: công trình thủy điện Srepok, trụ sở Bộ Công an, cầu vượt Lê Thanh Nghị, đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, nhà máy bao bì Vinaconex…khiến cho giá trị nguyên vật liệu, giá trị xây dựng cơ bản dở dang tăng lên, làm tăng giá trị hàng tồn kho.Và việc công ty giữ lượng hàng tồn kho lớn đã làm số ngày tồn kho năm 2007 tăng mạnh.
Bình quân công ty mất 74 ngày để có thể thu hồi được khoản phải thu, tức thời gian bình quân từ lúc công ty bán hàng hàng hay hoàn thành bàn giao công trình cho đến khi thu được tiền là 74 ngày. Số ngày nợ bình quân của công ty là 71 ngày, tức thời gian bình quân từ lúc công ty mua hàng cho đến khi phải thanh toán tiền hàng là 71 ngày. Con số này không chênh lệch so với số ngày thu tiền bình quân là mấy, chứng tỏ công ty không đi chiếm dụng vốn và cũng không để tình trạng công ty bị chiếm dụng vôn.
3.Phân tích khả năng sinh lời :
Các chỉ tiêu
2008
2007
2006
2005
Thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
3.54%
2.25%
1.61%
1.74%
Thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE)
26.73%
21.03%
21.93%
20.51%
Thu nhập trên một cổ phiếu EPS(đ/cp)
5712
2935
3054
2342
Giá trên thu nhập của CP thường (P/E)
4.5
17.8
45.5
Cổ tức trên một cổ phiếu DPS (đ/cp)
1500
1500
1500
1500
Thu nhập trên tổng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu thu nhập trên vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu. Đứng trên góc độ cổ đông thì đây là chỉ tiêu được quan tâm nhất khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào công ty.Theo tính toán ta thấy bình quân 100 đồng tài sản của công ty tạo ra 2.29 đồng lợi nhuận dành cho cổ đông và bình quân 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 22.56 đồng lợi nhuân dành cho cổ đông. Các tỷ số ROA và ROE mặc dù có tăng qua các năm nhưng con số đạt được lại không phải là cao. ROA ở mức thấp so với ROA chung của toàn ngành là 16.39%. ROE bình quân của ngành năm 2008 là 27.93% cao hơn ROE của công ty. Điều đó cho thấy lợi nhuận tạo được tính trên hiệu suất sử dụng tài sản và nguồn vốn chủ sở hữu của Vimeco chưa thực sự tốt.
Bình quân cứ một cổ phiếu của Vimeco tạo ra 3511 đồng thu nhập. EPS của công ty tăng qua các năm, đặc biệt là năm 2008, EPS tăng mạnh và cao hơn mức bình quân ngành là 2.484 đồng/cổ phiếu.
Các tỷ số thể hiện khả năng sinh lợi ở trên khá ổn định và có xu hướng tăng qua các năm. Điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra lợi nhuận của Vimeco ngày càng tăng lên.
Cổ tức trên một cổ phiếu của Vimeco ổn định và hợp lý. Điều này vừa đảm bảo quyền lợi cho cổ đông, vừa phù hợp với mục tiêu tích tụ lợi nhuận nhằm mở rộng hoạt động của công ty.
Do không có được con số chính xác về giá cổ phiếu Vimeco qua các năm nên ta tạm lấy tỷ số P/E do công ty Sascombank tính toán. Năm 2005 và 2006 P/E của công ty rất cao, chứng tỏ công ty rất được thị trường kỳ vọng và đánh giá cao triển vọng của công ty . Năm 2008, do khó khăn chung của thị trường cũng như của ngành xây dựng, lạm phát tăng cao, một phần cũng là do sự tăng lên của EPS đã khiến P/E của công ty giảm mạnh, thấp hơn cả mức bình quân ngành là 4.8. Tuy nhiên để đánh giá được một cách chính xác nhất hay đê quyết đinh có nên mua cổ phiếu của công ty hay không cần theo dõi xu hướng dài hạn dựa trên con số P/E trong một thời gian dài.
4. Phân tích triển vọng và rủi ro của ngành mà công ty đang hoạt động.
Năm 2008 là một năm đầy khó khăn và biến động đối với toàn nền kinh tế nói chung và đối với ngành xây dựng nói riêng. Đây là một năm mà hoạt động kinh doanh của ngành xây dựng liên tục phải đối diện với nhiều trở ngại. Có thể nói chưa bao giờ trong suốt những năm đổi mới, doanh nghiệp ngành xây dựng lại phải trải qua những thử thách ở cường độ cao và trên diện rộng như năm 2008.
Những khó khăn do lạm phát và khủng hoảng kinh tế tác động mạnh lên cả ba lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng là xây lắp, vật liệu xây dựng (VLXD) và địa ốc. Khiến các doanh nghiệp cảm thấy chới với trước một thực tế biến đổi khôn lường khi mà năm trước đó (năm 2007) các doanh nghiệp xây dựng làm không hết việc và luôn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 30%/năm .
Một trong những khó khăn lớn nhất của năm 2008 là giá cả trên thị trường VLXD tăng cao trong sáu tháng đầu năm: sắt thép tăng 90%, gạch tăng 300%... khiến chi phí VLXD chiếm đến 60-70% giá thành xây lắp. Song song đó, chi phí nhân công cũng tăng 30-55% và đặc biệt là lãi suất cho vay tăng mạnh (cao nhất là 21%/năm) càng khiến cho chi phí đầu vào vượt quá sức chịu đựng của phần lớn doanh nghiệp. Các chủ công trình buộc phải trì hoãn tiến độ dự án để tránh bị lỗ. Mới bước vào đầu quí 2, tình hình thi công dự án đã rơi vào đình trệ, cộng đồng doanh nghiệp xây dựng teo tóp lại. Phần lớn những doanh nghiệp nhỏ yếu vốn, yếu công nghệ hầu như không có doanh thu, phải quay trở lại hình thức các đội nhóm nhận thầu khoán một số phần việc ở các công trình nhà tư nhân hoặc nghỉ việc. Số doanh nghiệp loại này ước tính chiếm đến 40% trong tổng số hơn 2.000 doanh nghiệp tại TPHCM (số thực sự có làm nghề thi công tại TPHCM). Bên cạnh đó, đến cuối quí 1, giá nhà đất bắt đầu giảm từ 20% đến 60-70% khiến những nhà thầu có tên tuổi cũng phải lao đao bởi các chủ dự án mất thị trường.
Bên cạnh đó khả năng đàm phán lại với chủ đầu tư ở những dự án vốn tư nhân và vốn nước ngoài để điều chỉnh mức trượt giá là không nhiều, nhiều nhà thầu cầm chắc chữ “lỗ”, nhiều trường hợp chấp nhận phạt hoặc mất khoản bảo lãnh thực hiện hợp đồng, nhiều doanh nghiệp đã trúng thầu nhưng không ký được hợp đồng, nhiều dự án lên kế hoạch đấu thầu nhưng không gọi được nhà thầu nào tham gia.
Thị trường chứng khoán sụt giảm và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra khiến các chủ đầu tư càng cạn kiệt nguồn vốn triển khai dự án, kể cả những dự án đang thi công dở dang. Hàng loạt công trình nhà xưởng, công nghiệp, dự án căn hộ hoặc ngưng hẳn hoặc chỉ thi công cầm chừng. Có việc làm nhưng phải chấp nhận việc thanh toán bị chậm, đôi khi không có thời hạn, cũng là vấn đề nan giải cho nhiều doanh nghiệp đang cố gắng cầm cự.
Những khó khăn trên được phản ánh trong kết quả kinh doanh năm 2008 của các công ty niêm yết. Thống kê cho thấy, tăng trưởng doanh số của ngành là 32.3% nhưng do giá vốn hàng bán tăng 36.3%; chi phí tài chính tăng 1.1 lần khiến lợi nhuận sau thuế giảm 14.11% so với năm 2007.
Giá cổ phiếu của ngành xây dựng sụt giảm mạnh trong năm 2008 và hiện nay giá trị giao dịch thị trường đã lớn hơn so với giá trị sổ sách (P/B<1). Theo thống kê, 82% cổ phiếu trong ngành xây dựng đang giao dịch dưới giá trị sổ sách. Với mức giá giảm thấp như hiện nay, chỉ số P/E bình quân của ngành chỉ bằng 4.8 lần, với EPS tương ứng là 2,484 đồng/cổ phiếu
Mặt khác, trong khi hoạt động kinh doanh đang gặp nhiều khó khăn, ta lại thấy rủi ro tài chính của ngành xây dựng khá cao do tỷ số tổng nợ/vốn chủ sở hữu là 2.9 lần, cao hơn mức 1.35 của toàn thị trường. Thậm chí một số công ty có tỷ mức độ đòn bẩy rất cao như: SDS (11.1 lần); VCG (11.1 lần); SDJ (6.7 lần); VMC (7.8); STL (6.3 lần); SC5 (5.72 lần). Việc sử dụng nhiều nợ cộng thêm tỷ số thanh toán giảm từ 1.36 lần vào năm 2007 xuống còn 1.26 lần vào năm 2008 có thể gây nên những lo ngại về khả năng thanh toán của ngành.
Theo nhận định của tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM): Từ quý IV-2008, Việt Nam từ một “ngôi sao đang lên ở châu Á” về tăng trưởng kinh tế đã suy thoái nghiêm trọng. Những năm trước đây, ngành xây dựng thường tăng trưởng hơn 10%/ năm, nhưng đến năm 2008, tỷ lệ tăng trưởng của ngành này chỉ còn 0,2%/năm, thấp nhất trong lịch sử hơn 20 năm tiến hành đổi mới.
Các chuyên gia cho rằng, dù chưa biết thời gian nào mới chấm dứt suy giảm kinh tế nhưng khả năng nền kinh tế Việt Nam phục hồi vào cuối năm 2009 hoặc đầu năm 2010 là rất lớn và do ngành xây dựng thường đi trước một bước nên thị trường cũng hồi phục trước. Có thể thấy thị trường xây dựng đang có bước chuyển mình trong nửa cuối quý 1-2009 nhờ sức tiêu thụ vật liệu xây dựng tăng đáng kể so với những tháng trước đó. Khủng hoảng đã giúp sắp xếp lại “bản đồ” doanh nghiệp xây dựng và “chính trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, năng lực và tư cách của mỗi nhà thầu được bộc lộ rõ”. Do vậy, lợi thế hiện đang có phần nghiêng về những nhà thầu đã thể hiện được tính thích ứng cao trong năm 2008 đầy khó khăn. Ngoài ra, nhu cầu xây dựng, sửa chữa nhà tư nhân cũng sôi động trở lại.
Một nguyên nhân cộng hưởng hết sức quan trọng khác là do giá các mặt hàng vật liệu xây dựng cơ bản giảm mạnh, nhiều chủ đầu tư có điều kiện trả được phần lớn nợ vay nên đã mạnh dạn vay tiếp với lãi suất thấp để thúc đẩy dự án. Phân khúc nhà tư nhân cũng tranh thủ lợi thế này mà trở nên sôi động hơn
Một tín hiệu đáng mừng nữa là hôm 5/5 vừa đây Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã đưa ra nhận định : “Ngành xây dựng dẫn đầu trong tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” . Theo IMF, ngành xây dựng ở Việt Nam đã tăng 6,9% trong quý I/2009 và các số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 4 tháng đầu năm 2009 đã tăng 21,5% so với cùng kỳ
Theo các chuyên gia của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định kinh tế Việt Nam đang thể hiện sức mạnh trong các lĩnh vực như xây dựng và tiêu thụ nội địa và dự kiến sẽ là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất châu Á trong năm nay.
Vậy với góc nhìn lạc quan, chúng ta có thể tin tưởng bức tranh ngành xây dựng sẽ trở nên sáng sủa hơn trong thời gian tới, đặc biệt khi mà các chính sách kích cầu của Chính phủ bắt đầu phát huy tác dụng.
5. Một số nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của công ty
Phân tích nhân tố ( DU POINT)
2008
2007
2006
2005
ROE (%)
26.73
21.03
21.93
20.51
Gánh nặng thuế = LNR/LN trước thuế
0.83
0.77
0.86
0.86
Gánh năng lãi vay = LN trước thuế/EBIT
0.76
0.55
0.37
0.42
Vòng quay TTS = DT/ TTS bình quân
1.03
0.66
0.73
0.64
Tỷ suất lợi nhuận biên = EBIT/Doanh thu
0.05
0.08
0.07
0.07
Hệ số nợ = Tài sản/Vốn chủ sỡ hữu
7.75
7.33
14
11
Việc xem xét các nhân tố ở trên sẽ góp phần cho ta thấy được những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh (ROE) của doanh nghiệp.
- Gánh nặng thuế: Sau khi cổ phần hóa vào năm 2003 công ty được miễn 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Tháng 12/2006 khi công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán lại được giảm tiếp 50% trong 2 năm tiếp theo.Do đó công ty phải đóng một khoản thuế nhỏ. Vì thế gánh nặng thuế là không lớn lắm. Điều này đã ảnh hưởng làm tăng ROE của doanh nghiệp.
- Gánh nặng lãi vay: tỷ số này tăng lên trong các năm vừa qua do doanh nghiệp đã hạn chế việc sử dụng vốn vay hơn. Do đó hệ số nợ cũng giảm đi. Những yếu tố tác động đến hai chỉ số trên đã được khai thác tốt nên đã tác động làm tăng ROE
- Vòng quay tổng tài sản có xu hướng ngày càng tăng chứng tỏ tài sản được sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Đây cũng chính là một trong những chỉ tiêu làm tăng ROE.
- Tỷ suất lợi nhuận biên năm 2008 giảm so với 2006 và năm 2007 ,tuy nhiên trong tương lai tương lai tỷ số này có khả năng gia tăng do có nhiều dự án mới đang được đầu tư,hiện các dự án mới đi vào hoạt động trong một thời gian nên chưa phát huy được hết công suất,doanh thu chưa cao.
- Tổng hợp tất cả các yếu tố trên sẽ cho ta kết quả của hệ số ROE có xu hướng tăng cao hơn trong những năm trở lại đây. Phân tích nhân tố cho thấy nhìn chung hiệu quả kinh doanh của Vimeco là tốt.
III. Kết luận và khuyến nghị :
Kết quả phân tích tài chính của Vimeco cho thấy:
- Nhìn chung việc quản lí thanh khoản, quản lí tài sản của Vimeco tương đối tốt. Các tài sản cũng như các nguồn thu nhập đảm bảo cho các khoản nợ đến hạn là khá tốt,tuy nhiên việc dữ trữ quá nhiều tài sản ngắn hạn sẽ làm giảm suất sinh lời của chúng. Đồng thời với tỷ trọng nợ vay quá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21505.doc