Mục lục
Sơ lược về NHTMCP Vietcombank
I. Đánh giá khái quát tình hình tài sản – nguồn vốn 7
1. Về tài sản 7
2. Về nguồn vốn 10
II. Phân tích tình hình nguồn vốn của ngân hàng 14
1. Phân tích vốn tự có và các quỹ của ngân hàng 14
2. Phân tích vốn huy động : 18
III. Phân tích tình hình sử dụng vốn 26
1. Phân tích tình hình dữ trữ 26
2. Phân tích tình hình hoạt động tín dụng 28
IV. Phân tích tình hình lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân và tổng tài sản bình quân 34
1. Lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân 34
2. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản 40
V. Phân tích về cơ cấu thu nhập: 41
VI. Phân tích về hiệu quả hoạt động 42
1. PHÂN TÍCH LƯU CHUYỂN TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 43
2. PHÂN TÍCH LƯU CHUYỂN TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ 46
3. PHÂN TÍCH LƯU CHUYỂN TIỀN TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH 50
CỦA VIETCOMBANK TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010 50
Kết luận.52
Tài liệu tham khảo.53
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4779 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích báo cáo tài chính Vietcombank giai đoạn 2007 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ luôn trên 70% , theo sau là TIỀN GỞI VÀ VAY CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG KHÁC và CÁC KHOẢN NỢ CHÍNH PHỦ VÀ NHNN.PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ , khoảng 2%,trong cơ cấu huy động vốn của VCB .Tổng số vốn huy động cúa VCB tăng dần qua các năm , đặc biệt là từ sau năm 2008 , sau khi VCB tiến hành cổ phần hoá , mức tăng trưởng huy động vốn đạt khoảng 20% mỗi năm trong khi đó , giai đoạn 2007-2008 mức tăng trưởng này chỉ là 10%
Năm 2007 , tổng số vốn ngân hàng VCB huy động được là 175.435.217 triệu đồng trong đó TIỀN GỞI CỦA KHÁCH HÀNG chiếm 81% (141.589.093 triệu đồng) ,TIỀN GỞI VÀ VAY CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG KHÁC chiếm 10% ( 17.939.810 triệu đồng) ,CÁC KHOẢN NỢ CP VÀ NHNN chiếm 7% (12.685.256 triệu đông) và 2% còn lại thuộc về PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ
Sang năm 2008 , tổng số vốn huy động tăng 10% đạt mức 193.405.181 .Cơ cấu huy động như năm 2008 , tuy nhiên có sự dịch chuyển nhẹ 2% từ CÁC KHOẢN NỢ CP VÀ NHNN sang TIỀN GỞI VÀ VAY CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG KHÁC
Năm 2009 , tổng nguồn vốn huy động tăng mạnh với mức tăng 37.466.355 triệu đồng , tăng gần 20% so với năm trước . Tuy nhiên , trong cơ cấu huy động vốn tỷ trọng TIỀN GỞI CÚA KHÁCH HÀNG và PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ giảm mạnh .So với năm 2008 , số tiền huy động từ TIỀN GỞI KHÁCH HÀNG vần tăng với mức 12.004.543 triệu đồng , tuy nhiên tốc độ tăng không nhanh như tổng số vốn huy động nên tỷ trọng TIỀN GỞI CÚA KHÁCH HÀNG giảm xuống còn 73% . Tuy nhiên , số tiền thu được từ PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ giảm mạnh xuống chỉ còn 386.058 triệu đồng từ mức 2.922.015 triệu đồng năm 2008 .
Năm 2010 , tổng số tiền huy động được là 277.932.504 triệu đồng , trong đó TIỀN GỞI CỦA KHÁCH HÀNG là 204.755.949 triệu đồng (tăng 21,1% so với cùng kì năm ngoái) chiếm tỷ trọng 74% , theo sau là TIỀN GỞI VÀ VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG với mức tăng 20.700.118 triệu đồng ,mức tăng đáng chú ý với hơn 53% so với năm 2009.Cũng trong năn nay , số tiền huy động được từ PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ tăng mạnh trở lại với 3.563.985 triệu đồng , tuy nhiên , vẫn chỉ chiếm 1% trong tổng cơ cấu huy động vốn của VCB.
Nhận xét :
-Thực tế cho thấy , sau khi thực hiện cổ phần hoá , các doang nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn hẳn và VCB cũng không phải là một ngoại lệ. Năm 2008, khả năng huy động vốn của VCB đã tăng lên 20%/năm so với trước đó chỉ là 10%.
- Qua bảng số liệu, ta có thể thấy, VCB đã huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá. Năm 2007 là năm thành công với nhiều dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của VCB mà một trong số đó là phát hành thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) vào ngày 26/12/2007
-Những biến động của thị trường tài chính tiền tệ năm 2007 ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình huy động vốn của VCB. Thứ nhất, cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên gay gắt với việc mở rộng quy mô hoạt động, tăng lãi suất huy động, triển khai hàng loạt sản phẩm mới, các chương trình khuyến mãi rầm rộ để thu hút khách hàng. Thứ hai, hoạt động huy động USD gặp nhiều khó khăn, nhất là từ dân cu do lãi suất USD có xu hướng giảm vì Cục dự trữ liên bang Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất trong khi tỷ giá bất lợi cho người giữ tiền vì USD mất giá.
- Kết thúc năm 2007, VCB đã huy động được 175.435.217 triệu đồng, trong đó vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư đạt 144.810.151 triệu đồng, chiếm 82,5% tổng số vốn huy động.
-Trong năm 2008, tình hình thế giới có nhiều yếu tố không thuận lợi, khủng hoảng tài chính tại nhiều nước trên thế giới với việc sáp nhập hoặc phá sản của hàng loạt các tổ chức tài chính tên tuổi đã khởi đầu cho thời kì suy thoái của thế giới. Tại VN, thiên tai dịch bệnh đẩy giá cả tăng cao, xuất khẩu gặp khó khăn, thị trường bất động sản đình trệ…làm suy giảm đáng kể tình hình kinh tế thế giới. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, giữ ổn định thị trường tài chính, NHNN đã thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua các giải pháp như là tăng tỉ lệ dự trự bắt buộc tăng 1%, tăng lãi suất cơ bản, lãi tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Đồng thời thông qua nghiệp vụ thị trường mở, phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện việc chuyển tiền từ các tổ chức tín dụng về NHNN nên số tiền huy động từ CÁC KHOẢN NỢ CP VÀ NHNN giảm mạnh.
-Song song, việc tăng lãi suất cơ bản của NHNN, đã dẫn đến việc gia tăng lãi suất huy động giúp cho lượng tiền huy động từ TỔ CHỨC TÍN DỤNG và TIỀN GỞI KHÁCH HÀNG gia tăng đáng kể.
-Năm 2009, tình hình thế giới và trong khu vực có nhiều biến động phức tạp. Nền kinh tế thế giới tuy đã vượt qua được giai đoạn suy giảm và đã có những dấu hiệu phục hồi và trên đà tăng trưởng nhưng chưa thực vững chắc. Chính vì vậy, chính phủ đã ban hành các gói kích thích kinh tế, các gói cho vay hỗ trợ lãi suất (4%). Đây chính là nguyên nhận chính làm cho số tiền huy động từ CÁC KHOẢN NỢ CP VÀ NHNN tăng mạnh trở lại lên mức 22.578.400 triệu đồng. Lãi suất huy động được hỗ trợ, nên trong năm 2009, số giấy tờ có giá VCB phát hành giảm mạnh, vì thực tế, kênh huy động này không có lợi như kênh huy động từ CÁC KHOẢN NỢ CP VÀ NHNN.
- Ngày 5/11/2010, NHNN đã ban hành các quyết định điều chỉnh tăng 1% đối với các mức LS bằng VND của NHNN, có hiệu lực kể từ ngày 5/11/2010. Như vậy, các mức lãi suất thị trường sẽ lập tức tăng theo lãi suất do NHNN công bố. Mặc dù về trần mức lãi suất huy động VND, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã đưa ra đề nghị đồng thuận ở mức 12%/năm, nhưng lãi suất cho vay thì không có sự đồng thuận trần và sẽ tiếp tục tăng cao hơn nhiều. Chính điều này đã nâng số tiền huy động TIỀN GỞI CỦA KHÁCH HÀNG và TIỀN GỞI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG tăng cao một cách đáng chú ý. Bên cạnh đó , do không còn được hỗ trợ vay ưu đãi , nên VCB lại tiếp túc phát hành GTCG để huy động nguồn vốn từ dân cư . Ngoài ra, việc Chính phủ thắt chặt tiền tệ để thực hiện mục tiêu lạm phát cũng đã làm giảm số tiến VCB thu được từ CÁC KHOẢN NỢ CỦA CP VÀ NHNN.
Khoản mục chiếmn tỉ trọng lớn nhất là tiền gởi khách hàng. Vì vậy , ta phân tích sâu về cơ cấu của khoản mục này :
Tiền gửi khách hàng
Hoạt động huy động vốn có chi phí thấp dựa trên nền tảng khách hàng vững chắc. Tốc độ tăng trưởng khách hàng của VCB luôn ở mức thấp hơn trung bình ngành, tuy nhiên nguồn huy động từ khách hàng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, cho thấy hoạt động huy động từ khách hàng luôn giữ vai trò cốt lõi tạo nguồn vốn cho VCB.
1, Tiền gửi theo kỳ hạn:
2007
2008
2009
2010
Tiền gửi không kỳ hạn
72.645.901
52.456.086
47.256.093
48.693.603
Tiền gửi có kỳ hạn
64.666.381
101.118.042
112.061.369
151.132.566
Tiền gửi khác
4.276.811
3.492.891
4.754.100
4.929.780
Tổng cộng
141.589.093
157.067.019
169.071.562
204.755.949
Qua bảng số liệu ta thấy:
-Tiền gửi không kỳ hạn:
+ Năm 2008 giảm mạnh so với năm 2007, từ 72.645.901 triệu đồng giảm 20.189.815 triệu đồng xuống 42.456.086 triệu đồng (giảm 27,8%).
+ Năm 2009 tiếp tục giảm còn 47.256.093 triệu đồng tương đương 9,9% nhưng năm 2010 lại tăng 1.437.510 triệu đồng, mức tăng không đáng kể.
Tiền gửi không kì hạn chiếm 1 tỷ trọng tương đối trong tổng vốn huy động, đây là 1 nguyên nhân khiến cho chi phí huy động vốn của VCB thấp hơn so với các NH khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn: tăng thêm rất lớn và tăng đều qua các năm:
+ Năm 2008 tăng 36.451.661 triệu đồng (tăng 46,36%) so với năm 2007.
+ Năm 2009 tăng 10.943.327 triệu đồng (tăng 10,82%) so với năm 2008
+ Năm 2010 tăng 39.071.197 triệu đồng (tăng 34.86%) so với năm 2009
Nguồn vốn có kì hạn dồi dào hơn cho thấy khả năng chủ động đầu tư và cho vay của VCB bởi NH có thể hoạch định được các khoảng thời gian trả tiền, không giống như viêc chi trả các khoản tiền gửi ko kì hạn là rất bất ngờ và khó dự tính trước bởi khách hàng có thể đến rút tiền 1 cách đột xuất.
2. Tiền gửi theo đối tượng:
2008
2009
2010
Tổ chức kinh tế
99.146.339
90.216.895
104.560.117
Cá nhân
57.242.440
76.964.703
98.879.938
Khác
678.240
1.889.964
1.285.894
Tổng cộng
157.067.019
169.071.562
204.755.949
Năm 2009, trong bối cảnh bị cạnh tranh gay gắt, huy động vốn tiền gửi của dân cư vẫn có mức tăng trưởng khá tốt (+34,5%) là nhờ vào các chương trình huy động vốn trải đều trong năm, và sự cố gắng, nỗ lực của hầu hết các chi nhánh trong hệ thống.
Đặc biệt trong năm 2010, huy động vốn từ dân cư đạt kết quả khá khả quan với số dư đạt 98.879.938 triệu đồng, tăng 28,5% so với năm trước. Số dư huy động từ TCKT đạt 104.560.117 triệu đồng, tăng 16,3%.
Trong khi đó, huy động vốn từ tổ chức kinh tế lại giảm dần qua các nam. Tuy nhiên đối tượng huy động vốn chủ yếu của VCB là khách hàng tổ chức. Đây là nguồn huy động có tính ổn định cao hơn so với khách hàng cá nhân, tạo cho VCB lợi thế có 1 nguồn vốn ổn định hơn so với các NH khác.
Phân tích tình hình sử dụng vốn
Phân tích tình hình dữ trữ
Dự trữ bao gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán. Hai khoản mục này đều được quan tâm như nhau trong khoản mục dự trữ của ngân hàng.
a. Phân tích dự trữ bắt buộc.
Chúng ta quan tâm đến việc xác định mức thừa thiếu trên cơ sở so sánh dự trữ thực tế và dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng nhà nước.
2007
2008
2009
2010
VIETCOMBANK
Tiền mặt, và tiền gửi tại NHNN
11.662.669
30.561.417
25.174.674
8.239.851
Tiền gửi không kỳ hạn bằng VNĐ
4.098.428
7.491.646
3.058.043
Tiền gửi không kỳ hạn bằng USD
26.462.989
17.683.028
5.181.808
TCB
Tiền mặt, và tiền gửi tại NHNN
1.298.682
2.296.574
2.719.744
2.752.951
ACB
Tiền mặt, và tiền gửi tại NHNN
5.144.737
2.121.155
1.741.755
2.914.353
Tiền gửi tại NHNN bao gồm quỹ dự trữ bắt buộc (“DTBB”) và tài khoản tiền gửi thanh toán.
Năm 2009 tiền gửi tại NHNN của Vietcombank là 25.174 tỷ đồng, trong đó tiền gửi VND là 7.491,646 tỷ đồng và ngoại tệ là 17.683.028 t ỷ đồng ; tuân thủ theo đúngquyết định số 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009 là 3% đối với tiền gửi bằng VND và 7% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có thời hạn dưới 12 tháng. Năm 2010 tiền gửi tại NHNN tại Vietcombank là 8.239,851 tỷ đồng trong đó đều đảm bảo khoản dự trữ bắt buộc là đúng theo luật định đối với VND và ngoại tệ. Mức tiền mặt gửi tại NHNN 2010 giảm 67,3% so với năm 2009 ,và 73,1% so với năm 2008,sỡ dĩ có mức dự trữ này là do Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam căn cứ Quyết định số 74/QĐ-NHNN điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tớn dụng,từ 7% xuống 4% đối với tiền gửi bằng ngoại tệ có thời hạn dưới 12 tháng,và từ 3% xuống 2% đối với tiền gửi bằng ngạo tệ có thời hạn trên 12 tháng ,còn VND thì không đổi,đồng thời Vietcombank là NH có lượng tiền gửi bằng ngoại tệ rất lớn so với nội tệ ( biểu đồ trên ) trong số các ngân hàng nên việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN ảnh hưởng đã ảnh hường lớn đến VCB.Bên cạnh đó là tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2010 rất cao 11,75% nên các khách hàng tập trung vào các kênh đầu tư khác để tránh mất giá VNĐ ,phần đông khách hàng chuyển qua ngoại tệ để gửi NH với mức lãi suất hấp dẫn hơn.Nhưng nhìn chung Vietcombank đã đảm bảo tốt phần dự trữ.
b. Phân tích dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán.
2007
2008
2009
2010
TS thanh khoản/Tổng tài sản
49,1%
47,9%
42,96%
40,9%
Cho vay/Tổng tài sản
49,4%
50,8%
55,4%
57,5%
Cho vay/Huy động
68,9%
71,8%
84%
86%
Tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động đến 31/12/2010 là 86%, so với năm 2009,2008 tương ứng là 84% và 71,8% phản ánh Vietcombank thực hiện cho vay nền kinh tế chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ khách hàng, là nguồn tiền gửi mang tính ổn định cao,ngày càng gia tăng đặc biệt là từ năm 2009, Tỷ lệ dư nợ cho vay nền kinh tế trên tổng tài sản ổn định, đạt 57,5% .Chỉ số tài sản có “lỏng” trên tổng tài sản đạt 40,9%, giảm hơn so với mức 42,96 % của năm 2009.Tài sản có “lỏng” chủ yếu là các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển hoá thành tiền hoặc trở thành vật bảo đảm để vay vốn khi cần thiết. Bao gồm các giấy tờ có giá sẵn sàng để bán như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, trái phiếu Chính phủ, tiền gửi ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng, tiền mặt và tiền gửi thanh toán tại NHNN. Chúng ta có thể thấy là chỉ số tài sản có “lỏng” trên tổng tài sản của Vietcombak ngày càng giảm. Điều này gồm có hai mặt. Một là, có thể Vietcombank đã không duy trì được khả năng thanh khoản cao. Hai là,VCB đã quản lí những tài sản có tính “lỏng” ngày càng hiệu quả hơn.
2. Phân tích tình hình hoạt động tín dụng
phân tích quy mô và tăng trưởng của hoạt động tín dụng
VCB là ngân hàng có vị thế lớn trong ngành ngân hàng. VCB chiếm khoảng 10.41% thị phần cho vay của toàn hệ thống
Hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng qua các thời kì.
Biểu đồ thể hiện dư nợ tín dụng tăng dần qua các năm hoạt động. Tổng dư nợ tín dụng tại thời điểm 31/12/2008 đạt gần 112.793 tỷ đồng, tăng 15,5% so với năm 2007 và tiếp tục đà tăng trong các năm tiếp theo 2009 (25,5%) và 24,8% trong năm 2010. Điều này đã thể hiện sự tăng trưởng liên tục trong tín dụng.
Để phân tích công tác tín dụng một cách chi tiết, các nhà quản trị VCB đã sử dụng phương pháp phân tổ với nhiều tiêu thức khác nhau:
Phân tích cơ cấu nợ theo đối tượng khách hàng và các loại hình doanh nghiệp
2007
2008
2009
2010
DN nhà nước
47.123.489
52.919.287
56.228.609
61.249.054
CT TNHH
14.132.512
15.780.959
21.992.871
32.851.968
DN có vốn đầu tư nước ngoài
11.675.679
9.640.296
11.495.821
9.744.238
HTX và CT tư nhân
2.715.917
3.673.869
6.190.863
6.510.681
Cá nhân
9.246.674
10.859.365
13.676.950
18.709.093
Khác
12.637.523
19.919.189
32.036.012
47.748.872
97.531.894
112.792.965
141.621.126
176.813.906
Đối tượng khách hàng vay vốn chủ yếu của VCB là nhóm khách hàng tổ chức, trong đó khối doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đây là đối tượng khách hàng có độ rủi ro tín dụng khá cao, vòng đời dự án dài, khả năng thu hồi vốn chậm nên rủi ro tín dụng thường cao hơn nhóm SMEs. Điển hình là vụ việc mất khả năng trả nợ của tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) trong khi dư nợ của Vietcombank chiếm 16% tổng dư nợ. Tỷ trọng cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước giảm dần qua các năm đặc biệt là sau khi cổ phần hóa, từ 48,3% năm 2007 xuống còn 47% ở năm 2008 và 39,7% (2009), 34,6% (2010). Đang có một sự dịch chuyển cơ cấu tương đối tích cực từ nhóm khách hàng các doanh nghiệp lớn sang các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ cấu cho vay khách hàng cá nhân chưa có sự tăng trưởng vượt bậc qua các năm, tỷ trọng cho vay khách hàng cá nhân chỉ xoay quanh mức 9,5%-10%. Hiện nay, khi tín dụng bị thắt chặt để đảm bảo ngưỡng tăng trưởng tín dụng 25% của Chính phủ, nhóm khách hàng cá nhân sẽ gặp nhiều bất lợi.
Phân tích cơ cấu nợ theo ngành nghề kinh doanh:
2007
2008
2009
2010
xây dựng
6.351.442
7.552.473
11.144.304
10.479.503
sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
5.112.208
4.734.813
8.125.594
14.158.727
sản xuất và gia công chế biến
37.569.013
44.831.131
54.568.332
63.622.119
khai khoáng
9.271.668
8.176.716
8.831.119
11.454.950
nông, lâm và thủy hải sản
3.614.146
2.414.403
1.944.886
2.071.144
vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
5.923.301
7.434.487
10.416.625
12.167.693
thương mại dịch vụ
18.560.451
24.990.989
35.928.224
38.862.585
nhà hàng khách sạn
3.305.780
2.843.598
3.042.568
3.969.130
ngành nghề khác
7.823.885
9.814.355
7.619.474
20.028.055
97,531,894
112,792,965
141,621,126
176,813,906
Xét về cơ cấu nợ theo ngành nghề kinh doanh, danh mục cho vay của VCB cũng chú trọng đến nhóm ngành sản xuất, gia công chế biến và thương mại. Đây là những nhóm ngành chịu nhiều tác động xấu trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn, dẫn tới tỷ lệ nợ xấu của VCB tăng khá cao trong những năm khủng hoảng. Tuy nhiên, cùng với sự phục hồi của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tỷ lệ này đang dần được cải thiện. Dư nợ tín dụng của nhóm ngành nông, lâm thủy hải sản có dấu hiệu giảm qua các năm.
phân tích chất lượng tín dụng
việc quan tâm đánh giá chất lượng tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra trong thực tiễn hoạt động hàng ngày của ngân hàng.
Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và tình hình tài chính của các doanh nghiệp, khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện đúng cam kết trả nợ với ngân hàng. Vì vậy mà trong năm này, tỷ lệ nợ xấu tăng cao (4.61%). Trong những năm tiếp theo, VCB đã tăng cường cải thiện chất lượng tín dụng, giảm dần tỉ lệ nợ xấu. Trong năm 2010, VCB đã tiến hành điều chỉnh phân loại nợ theo Điều 6 và Điều 7 của Quyết định 493. Điều này đã làm cho tỷ lệ nợ xấu năm 2010 tăng so với 2009. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của VCB vẫn thuộc loại cao so với các ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng cùng quy mô như Vietinbank.
31/8/2010, Fitch Ratings, một trong 3 công ty định mức tín nhiệm lớn nhất thế giới đã công bố hạ mức tín nhiệm của Vietcombank từ “D” xuống “D/E”. Việc hạ tín nhiệm lần này cho thấy bản cân đối kế toán của Vietcombank đang bị đánh giá là “yếu”, do tăng trưởng cho vay mạnh và chất lượng các khoản cho vay không tốt. Xếp hạng cá nhân của Vietcombank vẫn đang chịu sức ép, do các rủi ro bắt nguồn từ chi phí tín dụng cao từ các khoản vay chất lượng kém và hạn chế trong việc huy động vốn.
dự phòng rủi ro cho vay
5.689.082 triệu đồng
4.625.120 triệu đồng
4.175.342 triệu đồng
2007 2.102.199 triệu đồng
Hiện nay, các khoản cho vay (bao gồm cho vay các DNNN) đã được ngân hàng rà soát, đánh giá lại theo các tiêu chuẩn xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng và đã trích đủ 100% dự phòng chung và dự phòng cụ thể theo kết quả phân loại nợ hiện hành của NHNN. Điều này đã làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh của VCB.
Phân tích tình hình lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân và tổng tài sản bình quân
Lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân
Biểu đồ về lợi nhuận trước thuế và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu trung bình (ROAE) từ 2006-2010 ( số liệu tổng hợp từ báo cáo thường niên của VCB)
Năm 2008, lợi nhuận trước thuế là 3590 tỷ đồng tăng 14% so với năm 2007, 1 con số khá thấp, nguyên nhân là do năm này cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra ảnh hưởng đến tình hình vĩ mô trong nước, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh dẫn đến tỷ lệ nợ xấu tăng cao 4.61% (so với chỉ tiêu là <3.5%), làm cho quỹ dự phòng rủi ro tín dụng tăng cao đột biến lên mức 2757 tỷ đồng ( tăng hơn 200% so với năm 2007), ngoài ra thì tác động của cuộc biến động lãi suất mạnh trong quý III cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến mức lợi nhuận của VCB. Nhưng tuy mức lợi nhuận không cao như vậy nhưng VCB cũng đã vượt chỉ tiêu đề ra là 3320 tỷ đồng.
Nếu nhìn từ số liệu thống kê thì ROAE và lợi nhuận tăng dần qua các năm từ 2007-2010, tuy nhiên năm 2010, ROAE lại thấp hơn so với ROAE của năm 2009, dù cho lợi nhuận tăng khá cao so với năm 2009. Nhìn chung thì ROAE của VCB năm 2009 và 2010 có một sự tăng trưởng đặc biệt so với các năm trước, và cao hơn hẳn so với mức bình quân của khu vực châu Á là 15% và thế giới là 17%.
Trước tiên chúng ta xem xét năm 2009, nguyên nhân của sự tăng trưởng ROAE và lợi nhuận :
Nhìn từ một góc nhìn gần nhất thì ta có thể thấy rằng: lợi nhuận sau thuế năm 2009 tăng vọt từ mức 2728 tỷ đồng năm 2008 lên đến 3945 năm 2009, việc gia tăng lợi nhuận sau thuế là nguyên nhân trực tiếp làm ROAE gia tăng mạnh như vậy. Ngoài ra nếu xét đến tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu với tốc độ tăng lợi nhuận thì cũng có sự chênh lệch khá lớn, tốc đô tăng vốn chủ sở hữu ở mức trên 19% nhưng tốc độ tăng lợi nhuân là hơn 44%, điều đó làm cho ROAE có một bước tiến mạnh mẽ như vậy.
Nếu nhìn từ góc độ chu kỳ kinh tế thì năm 2009 là năm mà nền kinh tế trở lại sau khủng hoảng, hoạt động sản xuất kinh doanh sôi động trở lại làm cho nhu cầu về vốn vay tăng lên đáng kể với mức tăng trưởng dư nợ tín dụng là 25.6% , thu nhập từ lãi cho vay tăng lên đến hơn 15000 tỷ đồng so với mức của năm 2008 là xấp xỉ 11000 tỷ, với mức tăng thu nhập cao như thế, đồng thời là chi phí từ lãi vay tăng không đáng nhanh bằng với trên 1000 tỷ đồng tăng thêm, đã làm cho lợi nhuận tăng vọt. Đồng thời thì một yếu tố hỗ trợ nữa là mức huy động vốn từ thị trường I, II và khu vực dân cư khá tốt, cụ thể tổng huy động vốn từ hai thị trường (I và II) của Vietcombank năm 2009 tăng 17,5%. Huy động từ nền kinh tế (thị trường I) đạt 169.457 tỷ đồng, tăng 5,9% so với cuối năm 2008. Huy động VND từ khách hàng tăng 18,8% so với năm trước. Trong bối cảnh bị cạnh tranh gay gắt, huy động vốn tiền gửi của dân cư vẫn có mức tăng trưởng khá tốt (+34,5%) là nhờ vào các chương trình huy động vốn trải đều trong năm, và sự cố gắng, nỗ lực của hầu hết các chi nhánh trong hệ thống. Với việc huy động được nguồn vốn tốt như vậy, đã tạo điều kiện cho công tác cho vay được tốt hơn, tạo điều kiện để tăng trưởng dư nợ tín dụng.
Bên cạnh đó, lãi thuần từ mua bán chứng khoán kinh doanh năm 2009 là 183,297 tỷ đồng tăng 115,406 tỷ đồng so với năm 2008, tương đương tốc độ tăng 70%, đã góp phần không nhỏ vào mức tăng của thu nhập hoạt động kinh doanh, năm 2009 là năm mà thị trường chứng khoán chạm đáy và bắt đầu đi lên, dù thu nhập từ hoạt đồng mua bán chứng khoán giảm nhưng chi phí giảm mạnh với tốc độ nhanh hơn, đó là nguyên nhân chính của việc tăng trưởng lợi nhuận ngoài ra thì các cổ phiếu mà VCB đầu tư thì chủ yếu nằm ở khu vực tài chính ngân hàng, đây chính là khu vực phục hồi mạnh mẽ sau khủng hoảng, giá cổ phiếu của khu vực này tăng lên trở lại, đó là một trong những lý do làm cho lãi thuần từ mua bán chứng khoán tăng lên đáng kể.
Một yếu tố nữa là tỷ lệ cho vay trên tổng số vốn huy động năm 2009 tăng rất mạnh, chứng tỏ hoạt động cho vay diễn ra rất tốt, tránh được tình trạng huy động nhiều mà cho vay thì ít, việc tỷ lệ cho vay tăng như vậy, đã làm cho khoản lãi từ hoạt động cho vay tăng mạnh và từ đó hỗ trợ cho mức tăng của doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Cao hơn nhiều so với các năm từ 2005 trở lại đây với mức 83,57%.
Biểu đồ tỷ lệ cho vay trên tổng huy động từ 2005-2009 (số liệu tổng hợp từ báo cáo thường niên)
Nhưng đó không phải là yếu tố quan trọng nhất để làm cho ROAE tăng cao như thế, ở đây chúng ta cần chú ý đến mức chi phí dự phòng rủi ro tín dụng là thấp hơn hẳn so với các năm trước: chỉ là 789 tỷ năm 2009 nếu so với 2757 tỷ năm 2008 và 1337 tỷ năm 2007, điều đó có thể cho thấy rằng hoạt động tín dụng của năm 2009 là rất tốt và tương đối là an toàn cao hơn so với các năm về trước.
Một con số đáng chú ý nữa là tỷ lệ nợ xấu năm 2009 chỉ là 2.47% thấp hơn nhiều so với năm 2008 với mức 4.61%, và là thấp nhất trong 4 năm trở lại đây kể từ năm 2005, sự chênh lệch tỷ lệ nợ xấu này cho thấy những khoản nợ năm 2009 của VCB có mức độ an toàn cao hơn, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chi phí dự phòng rủi ro tín dụng giảm đi mạnh mẽ như vậy.
Biểu đồ tỷ lệ nợ xấu của VCB qua từ 2005-2009 ( số liệu từ báo cáo thường niên)
Nguyên nhân của việc gia tăng độ an toàn của các khoản nợ là do năm 2009 chính phủ có đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất 4% cho các doanh nghiệp, từ đó làm cho ngân hàng chắc chắn có thể thu được những khoản tiền từ chính phủ nếu như doanh nghiệp phá sản hay bỏ trốn, làm cho rủi ro tín dụng của VCB phần nào giảm đi, một yếu tố nữa là do VCB là một ngân hàng quốc doanh lớn , khách hàng của nó rất đông và đa dạng,do đó khi được hỗ trợ như thế này thì các khoản rủi ro tín dụng của nó giảm đi hẳn. Ngoài ra thì việc chính phủ hỗ trợ 4% lãi suất như thế đã làm cho gánh nặng nợ nần của các doanh nghiệp được vơi đi phần nào, đồng thời là có khả năng tập trung nguồn lực để trả nợ cho ngân hàng, làm cho các khoản nợ xấu giảm đi.
Một nguyên nhân khác nữa, đó là do VCB được sự hỗ trợ từ nguồn vốn giá rẻ từ các tập đoàn quốc gia hay những nguồn vốn viện trợ tạm thời chưa giải ngân, đó là những nguồn vốn lớn với chi phí sử dụng rất thấp, nhưng cũng phải kể đến khả năng vận dụng nguồn vốn nhàn rỗi ấy một cách tài tình của VCB để mang thêm lợi nhuận về cho ngân hàng.
Việc các công ty con của VCB hoạt động tốt cùng với đó là mức lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối cũng là nhân tố thúc đẩy cho lợi nhuận của VCB tăng mạnh như vậy, tiêu biểu là công ty chứng khoán VCBS và mức lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối 918,309 tỷ đồng tăng 326,907 tỷ đồng so với năm 2008, tương đương tốc độ tăng 55,3%.
Tuy nhiên có một điều khá lạ là, trích lập dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn năm 2009 lại cao hơn 3 lần so với năm 2008 ( 404 tỷ đồng năm 2009 so với 102.976 tỷ đồng).
Như vậy, việc ROAE năm 2009 tăng cao đột biến là một điều hết sức bình thường thông qua những nguyên nhân trên, cho thấy một sự vươn mình mạnh mẽ của một ngân hàng tầm cỡ như VCB sau cuộc khủng hoảng, cho thấy sự hiệu quả trong hoạt động của VCB.
Năm 2010, ROAE tuy có giảm so với năm 2009 (khoảng 3,03%) về mức 22,55% nhưng đây vẫn là một con số khá cao nếu tính trên bình quân ngành ở khu vực châu Á và trên thế giới như đã liệt kê ở trên.
Trước hết nếu xét đến tốc độ tăng trưởng của lợi nhuận sau thuế và tổng vốn chủ sở hữu thì ta dễ dàng nhận thấy, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận là 7,37% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng vốn chủ sở hữu là 23,6%, đây là nguyên nhân trực tiếp nhất để ROAE rơi về mức thấp hơn so với năm 2009. Lý do
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích báo cáo tài chính vietcombank.docx