Đề tài Phân tích các phương pháp tính chỉ số giá, liên hệ thực tiễn Việt Nam

Trên sàn chứng khoán Việt Nam hiện nay, một số mã có vốn hóa lớn như VCB, BVH, VIC, MSN, VNM trên sàn HOSE hay ACB, PVS, PVX trên sàn HNX có ảnh hưởng rất lớn tới các chỉ số. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, các mã BVH, VIC, MSN có thanh khoản rất thấp, nhưng ảnh hưởng của nó tới VN-Index là khá cao. Có thể nói, chỉ một lượng nhỏ cổ phiếu của các mã này giao dịch, nó sẽ “chấp” đại bộ phận các mã còn lại. Chính vì vậy, chỉ cần một lượng tiền nhỏ, một nhóm nào đó có thể “điều khiển” VN-Index một cách dễ dàng được đề cập trong bài viết “1 tỷ đồng để “điều khiển” VN-Index” đăng trên ĐTCK số ra ngày 3/1/2011. Từ đó, có thể thấy, chỉ số VN-Index – “nhiệt kế” của TTCK Việt Nam hiện đã không còn chính xác, nó làm méo mó thực trạng của thị trường và ảnh hướng lớn đến nhận định của nhà đầu tư, hiện nay cũng có một số nhà đầu tư giao dịch mà không quan tâm đến diễn biến của VN-Index nữa, mà chỉ quan tâm đến diễn biến của từng cổ phiếu cụ thể. Như vậy, ý nghĩa của VN-Index là nhiệt kế đo diễn biến của thị trường sẽ không còn nữa. đã đến lúc các nhà quản lý TTCK Việt Nam xác định lại cách tính chỉ số thị trường, để nó phản ánh xác thực nhất thực trạng của thị trường, giúp nhà đầu tư dễ dàng trong việc theo dõi xu hướng của thị trường.chúng ta nên áp dụng cách tính chỉ số như Dow Jone hay Nasdaq của Mỹ là tính giá trung bình của một số cổ phiếu được lựa chọn., trong nước hiện nay, Báo Đầu tư Chứng khoán cũng có chỉ số VIR50-Index tính theo cách này. VIR50-Index là chỉ số về giá cổ phiếu được tính theo phương pháp tính chỉ số Dow Jones – chỉ số chứng khoán lâu đời nhất trên thế giới - được sáng lập vào năm 1896 và được công bố trên tờ The Wall Street Journal bắt đầu từ năm 1929. VIR50-Index biểu trưng cho sự biến động giá của 50 mã cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn nhất và có tính thanh khoản cao nhất trên Sở GDCK TP. HCM (HOSE) và TTGDCK Hà Nội (HASTC). Rổ cổ phiếu sẽ được tính toán, xem xét và thay đổi lại mỗi quý một lần. cách tính này vừa đơn giản, lại vừa phản ánh khá chính xác xu hướng của thị trường. Tuy nhiên, các cổ phiếu trong VIR50-Index chỉ có tiêu chuẩn vốn hóa, nên cũng phản ánh chưa thực sự chính xác diễn biến của thị trường.

doc30 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5811 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các phương pháp tính chỉ số giá, liên hệ thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Chọn rổ đại diện. Một nhiệm vụ thứ hai quan trọng trong việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán là việc chọn rổ đại diện. Ở Sở giao dịch chứng khoán New york có trên 3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồm 65 cổ phiếu. Trong đó chỉ số Dow Jones công nghiệp (DJIA) chỉ bao gồm 30 cổ phiếu, Dow Jones vận tải (DJTA) bao gồm 20 cổ phiếu và Dow Jones dịch vụ (DJUA) bao gồm chỉ 15 cổ phiếu. Tuy chỉ bao gồm một số lượng cổ phiếu niêm yết rất nhỏ như vậy trong tổng thể nhưng các chỉ số Dow Jones vẫn trường tồn qua năm tháng, vì nó phản ánh được xu thế, động thái của quá trình vận động của giá cả. Rổ đại diện này là tiêu biểu, đại diện được cho tổng thể vì họ thường xuyên thay những cổ phiếu không còn tiêu biểu nữa bằng cổ phiếu tiêu biểu hơn. Ví dụ tháng 11/1999 họ đã thay 4 cổ phiếu trong rổ đại diện, công ty IBM cũng có lúc phải loại khỏi rổ đại diện khi thị trường PC nói chung phát triển và lấn át. Ba tiêu thức quan trọng để xác định sự tiêu biểu của cổ phiếu để chọn vào rổ đại diện là số lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị niêm yết và tỷ lệ giao dịch, mua bán chứng khoán đó trên thị trường (khối lượng và giá trị giao dịch). Đối với Việt Nam, hay bất kỳ thị trường nào khi mới ra đời, số lượng các cổ phiếu niêm yết chưa nhiều, thì rổ đại diện nên bao gồm tất cả các cổ phiếu. Tuy nhiên cũng nên chú ý đến khối lượng và giá trị giao dịch. Nếu một cổ phiếu nào đó trong một thời gian dài không có giao dịch hoặc giao dịch không đáng kể thì nên tạm loại khỏi phạm vi tính toán. Có như vậy chỉ số chúng ta tính ra mới phản ánh được động thái vận động thực sự của giá cả thị trường. 3. Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu Trong quá trình tính toán một số nhân tố làm thay đổi về khổi lượng và giá trị của các cổ phiếu trong rổ đại diện sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của chỉ số. Ví dụ như  phạm vi, nội dung tính toán của ngày báo cáo không đồng nhất với ngày trước đó và làm cho việc so sánh bị khập khiễng, chỉ số giá tính ra không phản ánh đúng sự biến động của riêng giá.  Các yếu tố đó là: Thêm, bớt cổ phiếu khỏi rổ đại diện, thay cổ phiếu trong rổ đại diện; nhập, tách cổ phiếu; thưởng cổ phần, thưởng tiền, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới; bán chứng quyền; cổ phiếu trong rổ đại diện bị giảm giá trong những ngày giao dịch không có cổ tức... Để trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu, làm cho chỉ số giá cổ phiếu thực sự phản ánh đúng sự biến động của riêng giá cổ phiếu mà thôi người ta dùng kỹ thuật điều chỉnh  hệ  số chia. Đây là một đặc thù riêng của việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán.   Để hiểu bản chất của kỹ thuật này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ đơn giản sau: Chỉ số tính theo phương pháp bình quân giản đơn (phương pháp Dow Jones). Giá 3 cổ phiếu hình thành như sau: Cổ phiếu Giá ngày giao dịch 1 Giá ngày giao dịch 2 Giá ngày giao dịch 3 A B C 17 13 15 19 13 16 19 13 8 Tổng giá 45 48 30 DJA ngày 1 là 45/3 =15 (ngàn đồng, hay điểm) DJA ngày 2 là 48/3 = 16 (ngàn đồng, hay điểm), tăng 1 điểm hay  6.7% Ngày thứ 3 cổ phiếu C tách làm hai và giá coi như không  có gì thay đổi (cổ phiếu C giảm còn 8 không coi là giảm giá, mà chỉ vì cổ phiếu tách đôi. Về nguyên tắc nếu giá không có gì thay đổi, thì chỉ số vẫn giữ nguyên. Ta không thể lấy tổng mới chia cho 3: 30/3=10 để kết luận chỉ số giá đã giảm 5 ngàn đồng (hay điểm) được. Vì thực chất giá không hề thay đổi . Bởi vậy chỉ số giá mới tính ra phải bằng 15 như ngày 2. Đây là cốt lõi của kỹ thuật tính toán lại hệ số chia. Kỹ thuật hết sức đơn giản: áp dụng quy tắc tam suất. Cụ thể là: 48 == ====> Hệ số chia là 3 (Do) 30 =======> Hệ số chia là D1 Từ đây suy ra D1 =(30 x 3)/48 = 1.875 và DJA ngày thứ 3 là 30/1.875 = 16 không có gì thay đổi. Chỉ số này phản ánh đúng động thái của giá (không đổi). Trong thực tế giá thường có thay đổi nên chỉ số sẽ có giao động. Nhưng khi tính lại hệ số chia người ta luôn giả định giá không đổi. Tức là hệ số chia của ngày giao dịch được xác định trước khi xẩy ra giao dịch. Chúng ta cũng có thể tham khảo thêm ví dụ sau về phương pháp tính chỉ số giá gia quyền Passcher mà nước ta đang áp dụng, công thức tính như sau: å qt pt å qt pt I p = ------------- => -------------- å qt po Dt Dt: giá trị giao dịch ngày t. Chứng khoán Khối lượng niêm yết Giá đóng cửa 21/7 Giá đóng cửa ngày 31/7 Giá đóng cửa ngày 2/8 A B C 1000 2000 5000 10 15 12 16 18 13 17 20 Do = 1000x10+2000x15 = 40000 - Chỉ số giá ngày giao dịch đầu tiên là 100%  (điểm) S(Qo x Po) / Do = 100 = 100 x (1000x10+2000x15) / (1000x10+2000x15) = 100 Phải nhân với 100 bởi vì chúng ta quy ước ngày đầu là 100 điểm - Chỉ số giá ngày 31/7 là 110 % (điểm) tăng 10% hay 10 điểm S(Q1 x P1)/ D1 = 110S = 100x (1000x12 + 2000x16) / (1000x10+2000x15) = 110 Trong trường hợp này Do =D1 = 40000 và ngày này cổ phiếu C chưa được tham gia vào việc tính chỉ số giá (vì mới có giá ban đầu chưa có thay đổi). Do đó chỉ số giá của ngày 31/7 chỉ là chỉ số giả tổng hợp của 2 cổ phiếu A và B mà thôi. - Chỉ số giá ngày 2/8 là tính như sau: S(Q2 x P2) / D2 Các giá trị Q2 và P2 đã biết. Tính D2 như sau: ( 12x1000 + 16x2000) ==> Hệ số chia là (10x1000+ 15x2000) ( 12x1000 + 16x2000 +18x5000) ==> Hệ số chia là D2 Từ đó: (10x1000+ 15x2000)x( 12x1000 + 16x2000 +18x5000) D2  =  -------------------------------------------------------------------- =  121.818,1818 ( 12x1000 + 16x2000) Hệ số chia đã thay đổi  từ 40.000 (Do và D1)  thành 121.818,1818 (D2). Từ đó, S(Q2 x P2) / D2 = 100 x (1000x13+2000x17+5000x20) / 121818.1818 = 120, 67 tức là tăng 10,67 điểm Trong 2 phiên giao dịch ngày 21 và 31 hệ số chia không có gì thay đổi và đều chia cho gốc, vì vậy, chỉ số thực sự là tính theo % so với gốc và vì thế ở  hai ngày này chúng ta có thể gọi là điểm hay % cũng đúng. Đến phiên giao dịch 2-8 thì điều này không đúng nữa, bởi vì ta đã đổi hệ số chia và vì vậy, kết quả tính toán lần này chỉ có thể gọi là điểm. Liên hệ Việt Nam Hiện nay trên sàn chứng khoán Việt Nam, cách tính VN-Index, cũng như HNX-Index và UPCoM-Index đều giống nhau là theo phương pháp Passcher, tức là các chỉ số của TTCK Việt Nam hiện nay được tính bằng chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị, với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời kỳ tính toán. Với cách tính này thì mã nào có giá trị vốn hóa càng lớn thì sự ảnh hưởng của nó tới các chỉ số càng cao. 1. VN-Index VN-Index là một chỉ số thị trường chứng khoán của Việt Nam. VnIndex được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tính toán theo phương pháp chỉ số Passcher. VN - Index được tính theo công thức sau: Vn-Index = Trong đó: P1i: Giá hiện hành của cổ phiếu i Q1i: Khối lượng đang lưu hành của cổ phiếu i P0i: Giá của cổ phiếu i thời kỳ gốc Q0i: Khối lượng của cổ phiếu i tại thời kỳ gốc Các trường hợp điều chỉnh và cách điều chỉnh: Khi trên thị trường xảy ra trường hợp niêm yết mới hay tổ chức niêm yết tiến hành tăng vốn, hệ số chia sẽ được điều chỉnh như sau: D1 = Trong đó: D1: Hệ số chia mới D0: Hệ số chia cũ V1: Tổng giá trị hiện hành của các cổ phiếu niêm yết: V1 = AV: Giá trị điều chỉnh cổ phiếu Khi huỷ niêm yết hay tổ chức niêm yết tiến hành giảm vốn, hệ số chia mới sẽ được tính như sau: D1 = 2. HNX-Index Chỉ số HNX-Index (trước đây là chỉ số Hastc-Index) được tính toán và công bố bắt đầu từ ngày chính thức mở cửa phiên giao dịch đầu tiên của thị trường (ngày 14/7/2005), được gọi là thời điểm gốc. Chỉ số này tính toán mức biến động giá của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên Sở GDCK Hà Nội. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc. Cụ thể: tại thời điểm gốc, chỉ số có giá trị = 100.Công thức tính chỉ số thị trường: Tổng giá trị thị trường hiện tại (GTn) HNX-Index = -------------------------------------------------- x 100 Tổng giá trị thị trường gốc (GTo) Hoặc: ∑ Pit x Qit HNX-Index = --------------------- x 100 ∑ Pio x Qit Trong đó, Pit: Giá thị trường của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại Qit: Số lượng cổ phiếu niêm yết của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại. Pio: Giá thị trường của cổ phiếu I vào ngày cơ sở (gốc)i : 1,……, n. Trong phiên giao dịch, chỉ số HNX-Index sẽ được tính mỗi khi có một giao dịch cổ phiếu được thực hiện. Như vậy, khi giá thực hiện của mỗi giao dịch cổ phiếu thay đổi thì chỉ số HNX-Index sẽ thay đổi theo. Chỉ số HNX-Index phản ánh sự biến động giá trong suốt phiên giao dịch và tạo nên biểu đồ HNX-Index trực tuyến. Chỉ số HNX-Index đóng cửa là chỉ số được tính bởi các mức giá đóng cửa của các cổ phiếu. Ví dụ : a. Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ nhất ngày 14/7/2005: # Mã CK Giá đóng cửa SL Đăng ký giao dịch Giá trị thị trường 01 CID 17.800 541.000 9.629.800.000 02 GHA 16.500 1.289.480 21.276.420.000 03 HSC 55.000 580.000 31.900.000.000 04 KHP 15.000 15.252.260 228.783.900.000 05 VSH 13.000 122.500.000 1.592.500.000.000 06 VTL 22.000 1.800.000 4.050.000.000 Tổng 1.924.590.120.000 1.924.590.120.000 => HNX-Index = ---------------------------- x 100 =100 1.924.590.120.000 Giá trị thị trường thời điểm gốc = 1.924.590.120.000 b. Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ hai ngày 18/7/2005: # Mã CK Giá đóng cửa SL Đăng ký giao dịch Giá trị thị trường 01 CID 16.000 541.000 8.656.000.000 02 GHA 18.200 1.289.480 23.468.536.000 03 HSC 53.600 580.000 31.088.000.000 04 KHP 14.500 15.252.260 221.157.770.000 05 VSH 13.000 122.500.000 1.592.500.000.000 06 VTL 21.000 1.800.000 37.800.000.000 Tổng 1.914.670.306.000 1.914.670.306.000 => HNX-Index = --------------------------- x 100 =99,48 1.924.590.120.000 3. UPCoM-Index Theo HNX, cách tính chỉ số của UPCoM-Index tương tự như cách tính chỉ số HNX-Index; được tính toán bắt đầu từ ngày chính thức mở cửa phiên giao dịch đầu tiên của thị trường (ngày 24/6/2009), được gọi là thời điểm gốc. Chỉ số này tính toán mức biến động giá đối với các giao dịch thỏa thuận điện tử của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên thị trường UPCoM. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường  của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc. Cụ thể: tại thời điểm gốc, chỉ số có giá trị = 100. Công thức tính chỉ số thị trường:                         Tổng giá trị thị trường hiện tại  (GTn) UPCoM-Index = --------------------------------------------------- x 100                        Tổng giá trị thị trường gốc (GTo) Hoặc:                                ∑ Pit x Qit  UPCoM-Index  = ----------------- x 100                                 ∑Pio x Qit Trong đó:    Pit: Giá thị trường của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại Qit: Số lượng cổ phiếu niêm yết của cổ phiếu I vào thời điểm hiện tại. Pio: Giá thị trường của cổ phiếu I vào ngày cơ sở (gốc) i: 1,……, n. Trong phiên giao dịch, chỉ số UPCoM-Index sẽ được tính mỗi khi có một giao dịch cổ phiếu được thực hiện. Như vậy, khi giá thực hiện của mỗi giao dịch cổ phiếu thay đổi thì chỉ số UPCoM-Index sẽ thay đổi theo. Chỉ số UPCoM-Index phản ánh sự biến động giá trong suốt phiên giao dịch. Chỉ số UPCoM-Index đóng cửa là chỉ số được tính bởi các mức giá đóng cửa của các cổ phiếu.  Ví dụ  : Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ nhất ngày 24/06/2009: Mã CK Giá đóng cửa Số lượng Đăng ký giao dịch Giá trị thị trường 1 AAA 20.000 12.000.000 240.000.000.000 2 BBB 50.000 5.000.000 250.000.000.000 3 CCC 55.000 1.000.000 55.000.000.000 4 DDD 15.000 15.000.000 225.000.000.000 Tổng 770.000.000.000                                     770.000.000.000 => UPCoM-Index = ------------------------- x 100 =100                                     770.000.000.000  Giá trị thị trường thời điểm gốc = 770.000.000.000 b. Tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch thứ hai ngày 25/06/2009: Mã CK Giá đóng cửa Số lượng Đăng ký giao dịch Giá trị thị trường 1 AAA 22.000 12.000.000 264.000.000.000 2 BBB 49.000 5.000.000 245.000.000.000 3 CCC 52.000 1.000.000 52.000.000.000 4 DDD 16.000 15.000.000 240.000.000.000 Tổng 801.000.000.000                                        801.000.000.000 => UPCoM-Index =     --------------------------- x 100 =113,29                                        770.000.000.000 4. Nhận định chung Trên sàn chứng khoán Việt Nam hiện nay, một số mã có vốn hóa lớn như VCB, BVH, VIC, MSN, VNM… trên sàn HOSE hay ACB, PVS, PVX… trên sàn HNX có ảnh hưởng rất lớn tới các chỉ số. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, các mã BVH, VIC, MSN có thanh khoản rất thấp, nhưng ảnh hưởng của nó tới VN-Index là khá cao. Có thể nói, chỉ một lượng nhỏ cổ phiếu của các mã này giao dịch, nó sẽ “chấp” đại bộ phận các mã còn lại. Chính vì vậy, chỉ cần một lượng tiền nhỏ, một nhóm nào đó có thể “điều khiển” VN-Index một cách dễ dàng được đề cập trong bài viết “1 tỷ đồng để “điều khiển” VN-Index” đăng trên ĐTCK số ra ngày 3/1/2011. Từ đó, có thể thấy, chỉ số VN-Index – “nhiệt kế” của TTCK Việt Nam hiện đã không còn chính xác, nó làm méo mó thực trạng của thị trường và ảnh hướng lớn đến nhận định của nhà đầu tư, hiện nay cũng có một số nhà đầu tư giao dịch mà không quan tâm đến diễn biến của VN-Index nữa, mà chỉ quan tâm đến diễn biến của từng cổ phiếu cụ thể. Như vậy, ý nghĩa của VN-Index là nhiệt kế đo diễn biến của thị trường sẽ không còn nữa. đã đến lúc các nhà quản lý TTCK Việt Nam xác định lại cách tính chỉ số thị trường, để nó phản ánh xác thực nhất thực trạng của thị trường, giúp nhà đầu tư dễ dàng trong việc theo dõi xu hướng của thị trường.chúng ta nên áp dụng cách tính chỉ số như Dow Jone hay Nasdaq của Mỹ là tính giá trung bình của một số cổ phiếu được lựa chọn., trong nước hiện nay, Báo Đầu tư Chứng khoán cũng có chỉ số VIR50-Index tính theo cách này. VIR50-Index là chỉ số về giá cổ phiếu được tính theo phương pháp tính chỉ số Dow Jones – chỉ số chứng khoán lâu đời nhất trên thế giới - được sáng lập vào năm 1896 và được công bố trên tờ The Wall Street Journal bắt đầu từ năm 1929. VIR50-Index biểu trưng cho sự biến động giá của 50 mã cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn nhất và có tính thanh khoản cao nhất trên Sở GDCK TP. HCM (HOSE) và TTGDCK Hà Nội (HASTC). Rổ cổ phiếu sẽ được tính toán, xem xét và thay đổi lại mỗi quý một lần. cách tính này vừa đơn giản, lại vừa phản ánh khá chính xác xu hướng của thị trường. Tuy nhiên, các cổ phiếu trong VIR50-Index chỉ có tiêu chuẩn vốn hóa, nên cũng phản ánh chưa thực sự chính xác diễn biến của thị trường. III. Diễn biến giá chứng khoán tại SGDCK TP.HCM trong thời gian qua: Như chúng ta đã biết,VN-index được tính dựa trên rổ hàng hóa trên sàn HoSE,vậy,việc chúng ta ghi nhận thông tin diễn biến của sàn thành phố Hồ Chí Minh chính là việc chúng ta rút ra những nhận xét,đánh giá về VN-Index.Trong khuôn khổ đề tài,nhóm thực hiện quyết định sẽ tổng hợp các diễn biến của VN-Index trong 4 năm gần đây,cụ thể giai đoạn 2007-2010. 1.Những diễn biến chính VN-Index năm 2007: Biểu đồ 2007 Nguồn: Với sàn TP Hồ Chí Minh,năm 2007 là năm “Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM chính thức thành Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE)”-Một trong 10 sự kiện chứng khoán tiêu biểu năm 2007. Tháng 01/2007 đến giữa tháng 03/2007: Thời kỳ hoàng kim Dư âm của các sự kiên lớn năm 2006 như sự kiện gia nhập WTO, tổ chức hội nghị APEC, Mỹ thông qua PNTR( Thương mại bình thường vĩnh viễn) với Việt Nam cùng với việc hết hạn ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp niêm yết vào ngày 31/12 đẩy mạnh tiến trình “chạy đua” niêm yết tại HOSE và HASE của các doanh nghiệp tăng sự đa dạng hóa các “mặt hàng” trên thị trường chứng khoán đã tạo đà cho VN-Index tăng vọt kể từ cuối năm 2006 cho đến giữa tháng 3 năm 2007. Ngày 26/02/2007 thị trường chứng khoán mở cửa trở lại sau Tết Đinh Hợi.Chỉ sốVN-Index lần đầu tiên vượt mốc 1.100 điểm kể từ đầu năm. Thị trường có nhiều thông tin và tâm lý thuận lợi, các doanh nghiệp cũng trong thời kỳ công bố kết quả kinh doanh tốt đẹp năm 2006 và tổ chức đại hội cổ đông. Đỉnh của năm 1.175 được thiết lập ngày 12/03/2007. Nửa sau của tháng 03/2007 đến cuối tháng 04/2007: Đợt sụt giảm đầu tiên VNIndex từ đỉnh 1.175 điểm đã thiết lập đáy 905 điểm. Giá trị giao dịch hàng ngày trên thị trường đã giảm xuống còn khoảng 500 tỷ đồng một ngày trong tháng 4 so với mức 1.000 tỷ đồng một ngày trong tháng 3. Giao dịch mua bán của nhà đầu tư nước ngoài cả tháng 4 sụt giảm mạnh, giá trị mua khoảng 2.400 tỷ đồng và bán khoảng 1.300 tỷ đồng. Nguyên nhân: nhiều ý kiến cho rằng trên thị trường, cung ít trong khi cầu quá nhiều và lượng tiền từ ngoài đổ vào đang tạo nên cơn sốt. Thông tin về một thị trường tăng trưởng nóng được giới tài chính nhắc đến thường xuyên, cùng với các báo cáo khuyến nghị nhà đầu tư về hiện tượng này của các tổ chức có tên tuổi và uy tín trong đó có HSBC cho rằng PE của thị trường Việt Nam hiện quá cao và mức 900 điểm của VNIndex mới là hợp lý. Quan điểm này gây xôn xao dư luận và nhận được không ít lời phản đối. Báo cáo của họ sau đóđược ghi nhận có sai sót trong tính toán chỉ số PE tuy nhiên vẫn tác động tiêu cực lên tâm lý nhà đầu tư. Ngoài ra, một yếu tố tác động tới thị trường lúc này còn là quy luật giảm lặp lại như năm 2006. Đối với các thị trường mới nổi, quy luật thường được duy trì trong một thời gian tương đối dài, yếu tố này đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhà đầu tư. Tháng 05/2007: Tạm phục hồi VNIndex bắt đầu tăng trở lại trong tháng 5. Đỉnh điểm của tháng 5, VNIndex đạt 1123 điểm ngày 23. Tháng 06/2007 đến hết tháng 08/2007: Đợt sụt giảm thứ hai, đánh dấu một giai đoạn suy thoái. Thị trường bước vào giai đoạn suy thoái chỉ số VN index đã có vài phiên tăng giá, tuy nhiên sức tăng không mạnh. VN-Index chạm đáy thấp nhất của năm vào ngày 06/08 ở mức gần 884 điểm. Nguyên nhân: Chỉ thị số 03/2007/CT–NHNN, ngày 28/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá… cho khách hàng đầu tư, kinh doanh chứng khoán của Tổ chức tín dụng ở mức dưới 3% tổng dư nợ của Tổ chức tíndụng đó được ban hành. Tuy được ban hành từ cuối tháng năm nhưng có hiệu lực từ đầu tháng 07/2007, sau đó được hướng dẫn thi hành với hạn chót là ngày 31/12/2007 Dẫn đến việc ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi các khoản nợ cũ, đồng thời không cho vay mới khiến nhà đầu tư lúng túng quay vòng tiền, cầu chứng khoán sụt giảmkhiến giá trị giao dịch giảm mạnh so với chu kỳ trước đó, dần về mứcgiao dịch trong tháng 4.Đánh giá về chỉ thị 03 của NHNN,giới đầu tư và phân tích nhận xét,đó là một trong 10 sự kiện nổi bật của TTCK Việt Nam năm 2007. Tháng 09/2007 đến hết tháng 10/2007: Tăng vọt trở lại Đỉnh cao nhất của chukỳ VN-Index đạt 1.110 điểm ngày 10/10. Nguyên nhân : Không còn xu hướng bán tháo cổ phiếu cắt lỗ của nhà đầu tư Một số công ty niêm yết đã công bố lợi nhuận kinh doanh khá lạc quan, trong đó theo dự đoán kết quả kinh doanh cuối năm của các doanh nghiệp này sẽ còn tốt đẹp hơn.Những cổ phiếu thuộc nhóm tài chính ngân hàng sau một thời gian dài điều chỉnh đã tăng trở lại tạo đà cho các cổ phiếu khác và VN-Index. Tháng 11/2007 đến hết tháng 12/2007: Không có sức bật, suy giảm. VN-Index sụt giảm mạnh, nhất là từ đầu tháng 11. Nhiều nhà đầu tư cho rằng mức hỗ trợ 1.000 điểm là mạnh, tuy vậy ngưỡng này đã bị phá vỡ hoàn toàn giữa tháng 11, tiếp đó mốc 970 điểm đượcgiới phân tích kỹ thuật nhắc tới nhiều lần. Không chắc chắn hơn là mấy, mốc này tiếp tục bị xuyên thủng, đáy thấp nhất của chu kỳ rơi vào ngày 17/12 ở mức 911 điểm. Mốc 1.200 điểm mà nhiều nhận định lạc quan đầu năm cho rằng VN-Index sẽ cận kề vào cuối năm đã trở thành quá xa. Nguyên nhân : ngoài các yếu tố kinh tế vĩ mô và một phần tác động của thị trường thế giới mà tâm điểm làcuộc khủng hoảng tín dụng của Mỹ còn các yếu tố trong nước nhưviệc chỉ thị 03 càng gần kề với đích thực hiện không được thay đổi,mặc dù có nhiều đề xuất của các Ngân hàng lên Chính phủ.Ngày 20/11, Quốc hội đã thông qua Dự luật Thuế thu nhập cá nhân.Mức thuế suất từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoánlà 20% chênh lệch giá hoặc 0.1% trên giá trị giao dịch. Luật sẽ cóhiệu lực bắt đầu từ ngày 1/1/2009. Dự luật tuy chưa lập tức tác độngtới nhà đầu tư nhưng đã kịp tác động tới tâm lý của họ trong thời điểm thông qua Dự luật. Như vậy,tính đến hết ngày 28/12/2007, thị trường có thêm 32 loại cổ phiếu và 1 chứng chỉ quỹ được niêm yết mới, nâng tổng số cổ phiếu trên sàn HOSE là 138 cổ phiếu và 3 chứng chỉ quỹ; và thêm 17 loại trái phiếu (trong đó có 12 trái phiếu chính quyền địa phương và 5 trái phiếu công ty). Số lượng cổ phiếu niêm yết tăng trưởng gần 30% so với năm 2006. Năm 2007, VN-Index không hề sụt giảm. Trong phiên giao dịch đầu tiên của năm 2007, chỉ số VN- Index dừng ở mức 741,27 điểm. Ngày 28/12/2007 (phiên giao dịch cuối cùng của năm) đạt mức 927,02 điểm, tăng hơn 25% sau một năm. Như vậy,đến hết năm 2007, quy mô thị trường chứng khoán tăng mạnh , tổng giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán Việt Nam đạt gần 500.000 tỷ đồng, bằng khoảng 43,7% GDP của năm 2007.Trong đó,sàn HoSE là một nhân tố chính quan trọng góp phần tạo nên sự tăng trưởng đó. 2.Những diễn biến chính VN-Index năm 2008: Bảng: 2.1. Thống kê cơ bản TTCK Việt Nam - Tính đến ngày 31/12/2008, mức vốn hóa thị trường của cổ phiếu đạt khoảng 169.346 tỉ VND tại SGD TpHCM, chiếm 11,45% GDP. Hiện nay, mức vốn hóa thị trường giảm chủ yếu do các chứng khoán giảm giá mạnh. -Tính đến cuối năm 2008 (ngày 31/12/2008), có 170 doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng Khoán Tp .HCM. - Trong năm 2008 (tính đến ngày 31/12/2008) Sở Giao dịch Tp.HCM đã thực hiện được 249 phiên giao dịch với tổng khối lượng gần 3,404 triệu chứng khoán tương ứng giá trị 152.615,908 tỉ đồng. - Trên thị trường đến ngày 26/12/2008 đã có 101 công ty chứng khoán và 42 công ty quản lí quỹ đang hoạt động. - Tính đến 31/12/2008 đã có 12.720 tài khoản giao dịch thuộc khối đầu tư nước ngoài, trong đó 887 tài khoản là của tổ chức còn lại là của nhà đầu tư cá nhân nước ngoài. - Tính đến 31/12/2008 khối đầu tư nước ngoài đã giao dịch 2.263.341.354 chứng khoán với giá trị 202.534,873 tỷ đồng tại sàn Hà Nội và tương ứng là 1.119.037.618 chứng khoán với giá trị 68.974,151 tỷ đồng tại Sở GD TpHCM. Như vậy, khối nhà đầu tư nước ngoài tính đến hiện tại có giao dịch chiếm khoảng 68,07% doanh số giao dịch toàn thị trường và khoảng 48,82% khối lượng giao dịch toàn thị trường. - Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài về trái phiếu ở sàn HoSE: Tại SGD TpHCM vẫn còn niêm yết 1 loại trái phiếu do Kho bạc Nhà nước phát hành và 7 loại trái phiếu do BIDV TpHCM phát hành còn lại là 50 loại trái phiếu do địa phương phát hành. 2.2. Diễn biến Thị trường Chứng khoán Việt Nam 2008 -Trong Quý I, VN-Index có 9 phiên giảm điểm liên tục từ ngày 14/3/2008 đến ngày 26/3/2008 cùng với khối lượng giao dịch cũng giảm làm VN-Index mất 21,6% điểm so với ngày 14/3/2008. Trong khi cả quý 1 VN-Index mất 43,9% so với đầu năm (921,07 ngày 2/1/2008). Đáy của quý 1 là 496,64 điểm vào ngày 25/3/2008 . - Trong Quý II, cả giá trị giao dịch và khối lượng giao dịch đều giảm và là quý có tính thanh khoản kém nhất trong năm (bình quân mỗi phiên giao dịch với khối lượng 5.942.920 cổ phiếu). Cũng trong quý này VN-Index có 25 phiên giảm điểm liên tục từ 5/5/2008 đến 11/6/2008 với 28,9% điểm bị mất so với ngày 5/5/2008 trong khi cuối quý giảm 23,5% so với đầu quý. Đáy của quý 2 là 366,02 điểm vào ngày 20/6/2008. - Quý III, VN-Index có tính thanh khoản cao nhất trong năm với khối lượng giao dịch bình quân ngày là 17.486.971 cổ phiếu. Trong quý 3, VNIndex thiết lập đỉnh sau 10 phiên tăng điểm liên tục với mức giá đóng cửa 561,85 vào ngày 27/8/2008. Đáy của VN-Index trong quý 3 ở mức giá đóng cửa 409,61 điểm vào ngày 1/7/2008. Trong 10 phiên tăng điểm liên tục đã giúp VNIndex tăng 18,08% so với ngày 5/8/2008. -Quý IV, VN-Index lại tiếp tục xu hướng giảm điểm với đáy là 286,85 vào ngày 10/12/2008 và đây cũng là mức đáy của năm 2008. Đáy của quý này giảm 29,97% so với đáy của quý 3 và giảm 21,63% so với đáy của quý 2. VNIndex đóng cửa vào ngày 31/12/2008 là 315,62 điểm giảm 73,04% so với đỉnh của VN_Index (giá đóng cửa ngày 12/3/2007 với 1170,67 điểm) và giảm 65,73% so với ngày đầu năm 2008. 3.Những diễn biến chính VN-Index năm 2009: (Bảng: Sự vận động thị trường chứng khoán 2009 của VN-Index tạo thành 4 xu hướng chính với 2 quá trình tăng mạnh và 2 quá trình giảm,phản ánh khách quan các sự kiện kinh tế cũng như tâm lý,tập quán đầu tư của các thành phần thị trường. -Giai đoạn 1 (cuối tháng 2 tới giữa tháng 6): Đây là quá trình các chỉ số chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh khi thị trường được hỗ trợ bởi những thuận lợi đặc thù của giai đoạn: + Sau Tết Nguyên Đán, VN-Index bắt đầu rơi điểm sâu và đạt mức đáy 235,5 điểm vào cuối tháng 2/2009 – mức điểm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- Phân tích các phương pháp tính chỉ số giá Liên hệ thực tiễn Việt Nam Bình luận về diễn biến giá chứng khoán trên sàn giao dịch TPHCM trong thờ.doc
Tài liệu liên quan