Đề tài Phân tích các rủi ro trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp và biện pháp quản trị

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 5

NỘI DUNG TIỂU LUẬN 7

Chương 1: Các Rủi Ro Trong Quá Trình Sản Xuất

Của Doanh Nghiệp 7

1. Rủi Ro Từ Thảm Họa: 7

1.1. Thảm Họa Động Đất: 8

1.2. Thảm Họa Do Núi Lửa: 9

1.3. Thảm Họa Do Lũ Lụt: 9

1.4. Thảm Họa Do Hỏa Hoạn: 10

1.5. Thảm Họa Do Chiến Tranh: 11

1.6. Thảm Họa Do Khủng Bố: 11

2. Rủi Ro Tác Nghiệp: 12

2.1. Rủi Ro Về Nguyên Vật Liệu Trong Đầu Tư Vùng

Nguyên Liệu: 12

2.2. Rủi Ro Trong Tổ Chức Doanh Nghiệp: 14

3. Rủi Ro Thương Mại: 19

3.1. Rủi Ro Từ Việc Gia Nhập WTO: 19

3.2. Rủi Ro Từ Các Vụ Kiện Bán Phá Giá: 20

3.3. Rủi Ro Từ Toàn Cầu Hóa: 22

3.4. Đầu Tư Quốc Tế : 25

Chương 2: Các Biện Pháp Quản Trị Rủi Ro 28

1. Biện Pháp Quản Trị Rủi Ro Từ Thảm Họa: 29

2. Biện Pháp Quản Trị Rủi Ro Tác Nghiệp: 30

3. Biện Pháp Quản Trị Rủi Ro Thương Mại: 31

KẾT LUẬN 34

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11740 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích các rủi ro trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp và biện pháp quản trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng mía của Công ty vào khoảng 150 tỷ đồng, chiếm khoảng 9,2% tổng tài sản. Công ty đã thực hiện trích lập các khoản dự phòng phải thu khó đòi đối với những khoản cho nông dân vay với thời hạn từ 1 năm trở lên. Tỷ lệ này của SBT chiếm trung bình khoảng 3% trên tổng giá trị  đầu tư.  Đến nay, chất lượng của các khoản cho nông dân vay từng bước đã được cải thiện qua sự đánh giá và sàng lọc hàng năm. Công ty đang nỗ lực giảm tối đa tỷ lệ khoản thu khó đòi này trong tương lai.Tháng 03/2007, Công ty đã ký Hợp  đồng liên kết phát hành thư bảo lãnh số 93/2007/HĐLK ngày 16/03/2007 với Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank). Theo đó, Sacombank sẽ phát hành thư bảo lãnh nợ của nông dân đối với Công ty trên cơ sở giá trị tài sản đảm bảo của Nông dân tại Ngân hàng và Hợp đồng đầu tư mà Công ty đã ký kết với nông dân. Động thái này giúp giảm thiểu các rủi ro khi phát sinh nợ khó đòi và nâng cao trách nhiệm của nông dân đối với các cam kết đã ký trên các Hợp đồng đầu tư. Về vấn đề nguyên vật liệu và năng lượng. Thị trường xuất nhập khẩu của nước ta ngày càng được mở rộng với đủ các chủng loại sản phẩm. Theo thống kê cua Bộ Công Thương, hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu từ Thái Lan 10 tháng đầu năm 2010 tăng 27,4%về kim ngạch, kim ngạch xuất khẩu giày dép 10 tháng đầu năm 2010 tăng 24,7%..... Như vậy, với việc xuất và nhập khẩu một lượng hàng hóa lớn như thế rủi ro là điều khó tránh khỏi. Có thể là rủi ro trong việc ký kết hợp đồng giao dịch rủi ro trong khâu vận chuyển; rủi ro do người xuất khẩu không cung cấp hàng hóa; rủi ro do thanh toán dựa trên chứng từ giả, chứng từ không trung thực, mâu thuẫn giữa hàng hóa và chứng từ hay là rủi ro do lựa chọn hãng tàu không tin cậy, hư hỏng hàng hóa do xếp hàng không đúng quy định . . . nếu không có biện pháp phòng tránh phù hợp thì tổn thất sẽ rất lớn. Rủi Ro Trong Tổ Chức Doanh Nghiệp: Thứ nhất, có thể liệt kê đến rủi ro tồn tại trong hệ thống máy móc nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị công nghiệp của nước ta hiện nay. Theo Tiến sĩ Triệu Quốc Lộc - Viện Khoa học Kỹ thuật, trên thực tế máy móc trong sản xuất ở nước ta phổ biến đều thuộc thế hệ cũ, thậm chí có loại sản xuất từ những năm 80 của thế kỉ trước và đặc biệt là rất đa dạng về chủng loại và quốc gia chế tạo. Trong khi đó hệ thống chức năng nhà nước về quản lý, giám sát an toàn lao động lại quá mỏng, không đủ khả năng để bao trùm tới các địa phương, chứ chưa nói tới từng cơ sở sản xuất. Do vậy việc đánh giá rủi ro trong sản xuất chỉ dừng lại cho công tác kiểm định với các thiết bị, máy móc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Nếu không có hoat động quản trị rủi ro kịp thời sự cố, tai nạn lao động hoàn toàn có thể xảy ra gây tổn thất đáng kể đến doanh thu và cả nguồn nhân lực. Nhắc tới ngành công nghiệp da giày của chúng ta đổi mới công nghệ là vấn đề cần được cân nhắc. Sau chuyến đi tham quan trực tiếp nhiều cơ sở sản xuất giày tại TP.HCM mới đây, ông Peter T. Mangione, Giám đốc công ty tư vấn chiến lược tiếp thị Global Footwear Partnerships LLC (Mỹ), nguyên Chủ tịch Hiệp hội Phân phối và Bán lẻ da giày Mỹ nhận xét: “Nhiều DN giày dép Việt Nam vẫn đang áp dụng công nghệ sản xuất giày lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên liệu và cần nhiều nhân công. Những công nghệ này đã được sử dụng tại Đài Loan cách đây 20 năm và hiện nhiều nơi khác đã không còn sử dụng ”. Ông Peter T. Mangione đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý cho các DN da giày Việt Nam, nhằm nâng cao giá trị gia tăng và giảm bớt gánh nặng về lao động. Ông David Jiang, Tổng thư ký Hiệp hội Da giày Đài Loan cho rằng, đã đến lúc DN Việt Nam cần thay thế công nghệ hiện có bằng công nghệ mới. Công nghệ mới chưa chắc đã đắt nhiều hơn công nghệ cũ, nhưng nó sẽ an toàn hơn cho sức khoẻ người lao động và góp phần giảm thiểu được một số khâu nếu được tự động hoá, tạo điều kiện để ngành tăng năng xuất. Mặc dù được xếp hạng là nước sản xuất giày dép lớn thứ 4 thế giới, nhưng nhìn tổng thể, quy mô sản xuất của ngành da giày nước ta còn khá manh mún, do 80% nguyên phụ liệu phụ thuộc vào nhập khẩu, trình độ công nghệ và nguồn nhân lực còn thấp. Theo thống kê của hiệp hội Da giày Việt Nam ( Lefaso ), trình độ công nghệ sản xuất của ngành da giày Việt Nam hiện phổ biến ở mức trung bình và trung bình khá. Quá trình sản xuất mới đang được cơ giới hoá, mà chưa được tự động hoá, tỷ lệ công việc làm thủ công hiện còn ở mức cao. Đây cũng là khâu yếu nhất của ngành da giày và là một trong những nguyên nhân trực tiếp khiến năng suất lao động của ngành luôn ở mức thấp, kéo theo người lao động thường xuyên phải làm thêm giờ. Trong khi đó, những công nghệ cao như sản xuất các loại giày đặc chủng, giày thể thao chuyên dụng đẳng cấp cao, giày y tế và giày thời trang cao cấp hiện còn ở ngoài tầm với của các doanh nghiệp Việt Nam. Ông Nguyễn Đức Thuấn, Chủ tịch Lefaso cho hay, do còn những khó khăn, nên đầu tư cho khoa học - công nghệ của ngành trong những năm qua hầu như không đáng kể. Cơ sở hạ tầng khoa học - công nghệ ngành da giày còn quá nghèo nàn, lạc hậu so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan . . . Đặc biệt, mức độ tụt hậu về khoa học - công nghệ lên tới 20 - 30 năm. Bên cạnh đó, các hoạt động nghiên cứu triển khai ở các DN còn rất yếu. Phần lớn các DN, cơ sở sản xuất chưa có bộ phận nghiên cứu và triển khai công nghệ, hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ do đối tác nước ngoài thực hiện. Chưa chủ động được nguyên phụ liệu, công nghệ sản xuất lạc hậu, thiếu các dây chuyền sản xuất tự động hoá và áp lực về chi phí nhân công, được cho là nguyên nhân khiến sản phẩm da giày Việt Nam không thể cạnh tranh nổi về giá với sản phẩm của Trung Quốc, đặc biệt là tại thị trường Mỹ. Do đó, tăng cường sự hiện diện tại thị trường nội địa và làm ăn với các nước Liên minh châu Âu (EU) là đề xuất mà Peter T. Mangione đưa ra cho Việt Nam trước sự cạnh tranh quá lớn từ Trung Quốc tại thị trường Mỹ. Hiện các thương hiệu giày có tiếng như Nike, Adidas đang chuyển một phần sản xuất ra khỏi Trung Quốc và dời đến Indonesia, trong khi vẫn duy trì sản xuất tại Việt Nam, do giá nhân công và chi phí sản xuất tại Trung Quốc có xu hướng tăng. “Đây được xem là yếu tố lợi thế của Việt Nam. Dù thế, Trung Quốc vẫn là nguồn nhập khẩu giày lớn nhất của Mỹ và DN Việt Nam cần chọn những dòng sản phẩm ít phải cạnh tranh với quốc gia này ”, ông Mangione khuyến cáo. Đây chỉ là một trong phần nhiều các ví dụ về những rủi ro về trang thiết bị của nền công nghiệp của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, những sự cố máy móc dẫn đến tai nạn lao động hay việc nâng cấp trang thiết bị công nghệ là hoàn toàn có thể phòng ngừa và thực hiện nếu thiết bị sản xuất được giám sát bằng một hệ thống giám sát tình trạng họat động tin cậy với đội ngũ quản trị có năng lực, nhằm phát hiện sớm những bất thường trong vận hành. Tiến hành huấn luyện, đào tạo để nâng cao nhận thức cho người sử dụng lao động và người lao động về những rủi ro và biện pháp khắc phục trong lao động, xây dựng kế hoạch và triển khai các biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất có thể đối với các nguy cơ rủi ro gây mất an toàn. Đặc biệt là cần tập trung vào các loại máy móc, thiết bị hóa chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn như: thiết bị nâng chuyển, thiết bị áp lực, vật liệu nổ, hóa chất độc hại . . . , thực hiện giám sát an toàn một cách thường xuyên với phạm vi trên khắp mặt bằng sản xuất. Cần áp dụng phương pháp đánh giá an toàn trong sản xuất một cách hiệu quả và linh hoạt, phù hợp với thực tế sản xuất và trình độ giám sát viên . . . để từ đó lựa chọn phương án tối ưu, khắc phục những nguy cơ rủi ro một cách khoa học, có thứ tự ưu tiên chủ động và phù hợp với thực tế của từng cơ sở. Thứ hai, vấn đề con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể nói rủi ro của mọi rủi ro là ở yếu tố con người. Lực lượng lao động trẻ, những nhà quản trị trẻ hiện nay được biết đến là những người rất có tài nhưng mang tâm lý nôn nóng, muốn khẳng định sự thành công sớm, “ đi tắt đón đầu ” nên dễ trở thành nguyên nhân làm mất đi tính ổn định của hệ thống. Tại hội thảo “ Chia sẻ kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp, bài toán cho sự phát triển ” chiều 10/12, Chủ tịch Tập đoàn Sacombank Đặng Văn Thành đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố quản trị nguồn nhân lực. Theo ông Thành, tài sản quý giá nhất của một tổ chức chính là con người, nhưng rủi ro lớn nhất cũng là ở con người. “ Đôi khi, rủi ro trong kinh doanh vẫn mang lại lợi nhuận nếu khẩu vị rủi ro tốt. Nhưng, nếu chúng ta có được mô hình tốt, chiến lược phát triển tốt mà công tác quản trị nhân sự yếu kém thì khó thành công. Bởi khi đó, rủi ro nằm trong lòng tổ chức, rủi ro của mọi rủi ro là con người”, ông Thành nhấn mạnh. Như vậy, mối quan hệ bên trong doanh nghiệp bao gồm: quan hệ giữa ông chủ với ông chủ, quan hệ giữa ông chủ với người quản lý, quan hệ giữa người quản lý với người quản lý, quan hệ giữa người quản lý với người lao động và quan hệ giữa người lao động với nhau. Tất cả các sự kiện nảy sinh từ các mối quan hệ kể trên đều có thể trở thành những rủi ro của doanh nghiệp. Khi quan hệ giữa ông chủ với ông chủ có những dấu hiệu bất ổn thì gây rủi ro rất lớn về mặt chiến lược kinh doanh và tài chính. Các quyết định ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp như Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên nếu không được thông qua thì chiến lược kinh doanh và tài chính của công ty sẽ rơi vào khủng hoảng. Ngay cả trong trường hợp quyết định được thông qua chỉ bởi đa số các ông chủ thì những người phản đối quyết định đó sẽ tìm mọi cách để cản trở việc thi hành quyết định vừa mới ban hành, thậm chí gây rối, khiếu kiện gây thêm những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những rủi ro phát sinh từ sự bất ổn của mối quan hệ giữa người quản lý và người điều hành cũng rất đa dạng: Người quản lý, điều hành không tuân thủ quyết định của chủ sở hữu. Người quản lý, điều hành quyết định vượt quá quyền hạn của mình. Người quản lý điều hành có những hành vi tư lợi, ăn cắp bí mật kinh doanh của công ty. Những hành vi này tạo ra rủi ro về mặt điều hành sản xuất kinh doanh, làm cho doanh nghiệp mất lợi thế cạnh tranh, gây ra bất lợi trên thị trường. Các tranh chấp như: Tranh chấp về quyền quản lý, điều hành. Tranh chấp về thẩm quyền ký kết hợp đồng. Tranh chấp giữa Chủ tịch hội đồng quản trị với Tổng giám đốc; Tranh chấp giữa Tổng giám đốc với những chức danh dưới quyền nhưng lại do Hội đồng quản trị bổ nhiệm là các tranh chấp trong nội bộ những người quản lý, điều hành với nhau. Khi đó, điều quan tâm hàng đầu của những người quản lý, điều hành là quyền lực của họ tại doanh nghiệp, chứ không phải là hoạt động sản xuất kinh doanh. Rủi ro xuất phát từ mối quan hệ với người lao động cũng rất phổ biến như: Lương thực tế không đảm bảo tái sản xuất sức lao động. Môi trường làm việc không phù hợp, Chế độ quyền lợi của người lao động thấp so với các doanh nghiệp cùng ngành. Sự di chuyển của người lao động có chất lượng cao sang doanh nghiệp khác . . . được xem là những rủi ro chủ yếu về con người. Hiện nay, trình độ của lực lượng lao động của nước ta còn ở mức trung bình yếu, số lượng lao động cao cấp rất là khiêm tốn vì thế việc cải cách tổ chức và áp dụng trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh chứa đựng vô vàn rủi ro. Rủi Ro Thương Mại Rủi ro thương mại và quản trị rủi ro trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp: Rủi Ro Từ Việc Gia Nhập WTO: Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại ( TBT ) và Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật ( SPS ) của WTO cho phép các quốc gia áp đặt một hệ thống quy định về các tiêu chuẩn kỹ thuật và những quy tắc vệ sinh, kiểm dịch mà hàng hóa nhập khẩu bắt buộc phải tuân thủ. Về nguyên tắc, các quốc gia phải áp dụng các quy định này vì mục đích chính đáng (an ninh quốc gia, chống gian lận, bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng con người, động thực vật . . . ), trên cơ sở các căn cứ khoa học và không phân biệt đối xử đối với hàng hóa từ các nước xuất khẩu khác nhau ( trừ trường hợp nông phẩm từ các nước hay vùng nhiễm dịch ), giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu . . . nhằm đảm bảo rằng các quy định này không trở thành những rào cản không cần thiết đối với thương mại. Trên thực tế, do mỗi quốc gia đều có quyền tự thiết lập một hệ thống tiêu chuẩn của riêng mình ( các tiêu chuẩn quốc tế chỉ mang tính khuyến nghị, không bắt buộc áp dụng ), không ít những trường hợp các tiêu chuẩn và quy tắc vệ sinh này trở thành rào cản khiến hàng hóa từ các nước xuất khẩu, đặc biệt là các nước đang phát triển, không thể tiếp cận được thị trường. Việc này ảnh hưởng khá lớn đến việc sản xuất của doanh nghiệp để sản xuất được những sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn đó. Các tiêu chuẩn kỹ thuật thường bao gồm 4 nhóm: Tiêu chuẩn liên quan đến đặc tính của sản phẩm. Tiêu chuẩn liên quan đến quy trình và phương pháp sản xuất có ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm. Tiêu chuẩn, quy tắc về thuật ngữ và ký hiệu đối với sản phẩm. Các yêu cầu về đóng gói và ghi nhãn mác. Trong khi các tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng đối với hàng hóa nói chung, các quy tắc vệ sinh dịch tễ ( kiểm dịch động thực vật ) chỉ áp dụng đối với nông phẩm ( sản phẩm thô hoặc đã chế biến ) nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm, tránh các bệnh lây nhiễm từ vật nuôi, cây trồng, tránh các loại sâu và dịch bệnh. WTO cho phép các quốc gia được áp dụng các quy tắc kiểm dịch động thực vật tạm thời để đề phòng lan truyền dịch ngay cả khi chưa có đủ bằng chứng khoa học và họ có quyền phân biệt đối xử giữa nông phẩm có xuất xứ khác nhau. Rủi Ro Từ Các Vụ Kiện Bán Phá Giá: Chống bán phá giá đang được các quốc gia sử dụng cực kỳ phổ biến như là một công cụ để áp đặt các hạn chế mới đối với hàng hoá nhập khẩu. Nếu như vào những năm 80, chỉ có một nhóm nhỏ các quốc gia công nghiệp phát triển sử dụng công cụ này thì gần đây số lượng các nước đang phát triển tiến hành chống bán phá giá đang tăng dần. Tính từ thời điểm 1/1/1995 ( thời điểm các thoả thuận WTO bắt đầu có hiệu lực ) đến tháng 6-2000, các nước đang phát triển đã khởi xướng 559 vụ kiện chống bán phá giá, so với 463 vụ do các nước phát triển tiến hành. Nếu tính toán theo trị giá xuất khẩu thì có khoảng 10 quốc gia đang phát triển tiến hành số vụ kiện chống bán phá giá nhiều gấp 5 lần số vụ mà Hoa Kỳ khởi xướng. Và cộng đồng WTO dường như vẫn tiếp tục lạm dụng “ công cụ đặc biệt này”. Trên thực tế, các nguyên tắc về chống bán phá giá trong WTO hiện hành dường như mở cho các nước cơ hội sử dụng biện pháp này bất kỳ khi nào họ thấy tình hình nhập khẩu “ có vấn đề ”. Nạn nhân đáng kể nhất của hiện tượng lạm dụng công cụ này là các nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi ( là đối tượng của nhiều vụ kiện chống bán phá giá nhất ). Các nước đang phát triển nói chung cũng là nạn nhân khá phổ biến (với số vụ bị kiện lớn gấp 3 lần số các vụ kiện mà các nước phát triển phải đối mặt). Với tính chất là một van áp lực an toàn để duy trì một chính sách thương mại mở cửa, có khá nhiều bất cập. Về mặt kỹ thuật, chính sách chống bán phá giá không cho phép phân biệt các trường hợp bán phá giá có lợi cho kinh tế quốc gia và các trường hợp có hại. Về mặt chính trị, công cụ này không phân tách được hành vi của các nhà sản xuất nước ngoài như một áp lực thầm lặng để các nước nhập khẩu tiếp tục tự do hoá thương mại hơn nữa với các hành vi bán phá giá để cạnh tranh không lành mạnh thông thường. Theo Bộ Công Thương, trong 3 tháng đầu năm 2009, Việt Nam đã phải đối mặt với hai vụ kiện chống bán phá giá. Thứ nhất là vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm giày không thấm nước của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Canada. Thứ hai là vụ kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng túi nhựa đựng hàng hóa bán lẻ bằng sợi Polyetylen của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Minh chứng cho vụ kiện phá giá gần đây nhất: Canada áp thuế chống bán phá giá giày Việt Nam: Một số doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Cơ quan Biên mậu Canada ( CBSA ) đưa ra mức thuế chống bán phá giá tạm thời đối với giày và đế giày cao su không thấm nước có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam, Hiệp hội Da giày Việt Nam ( Lefaso ) cho biết, việc bị áp thuế luôn là một trở ngại lớn với các doanh nghiệp xuất khẩu, khó khăn chắc chắn rơi vào một số doanh nghiệp có cơ cấu, thị phần XK lớn vào thị trường Canada. Với mức áp thuế tạm thời đưa ra, Công ty Giày Vĩnh Long phải chịu mức thuế áp 15,8%, Công ty Pou Yuen Việt Nam 7,3%, Công ty Giày Fulgent Sun 3,4%. Những công ty thuộc nhóm sản phẩm giày cao su xuất khẩu không mẫu là 12,8%, nhóm xuất khẩu đơn lẻ là 32,4%. Cuối cùng, Toà án Thương mại quốc tế Canada ( CITT ) đã công bố kết luận cuối cùng về vụ Hiệp hội các nhà sản xuất giày Canada ( SMAC ) kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá giày và đế giày không thấm nước vào thị trường nước này. Theo phán quyết "giày và đế giày không thấm nước có nguồn gốc hoặc được xuất khẩu từ Việt Nam không gây tổn hại và cũng không đe dọa ngành sản xuất giày Canada" của CITT, các doanh nghiệp da giày Việt Nam đã thắng kiện. Kết quả phán quyết cũng sẽ có hiệu lực với tất cả các doanh nghiệp xuất cùng mặt hàng sang Canada và thuế nhập khẩu sẽ trở về mức bình thường như trước đây, khoảng 20% tạo thế cạnh tranh vững chắc cho ngành da giày Việt Nam trên thị trường Canada. Cũng từ vụ kiện bán phá giá giày mũ da của liên minh châu âu ( EU ) ta có thể nói vụ kiện chống bán phá giá này là một trong những vụ kiện có tác động một cách tiêu cực đối với ngành sản xuất da giày cũng như về mặt xã hội với hơn nửa triệu lao động, đặc biệt là đối với 80% nữ lao động làm việc trong ngành. Qua các ví dụ trên ta thấy được việc các nước nhập khẩu dùng biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá có ảnh hưởng lớn đến doanh nghiêp cũng như gián tiếp tác động đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp vì áp lực từ các mức thuế sẽ làm cho doanh nghiệp khó sản xuất được hàng hóa xuất khẩu với lợi nhuận cao được. Rủi Ro Từ Toàn Cầu Hóa: Toàn cầu hóa là một quá trình chuyển động toàn cầu mang tính khách quan. Nó như một dòng chảy mạnh mẽ. Để thích ứng, ta chỉ có thể chọn một trong hai cách, hoặc để nó cuốn đi, nhấn chìm hoặc chủ động bơi theo dòng chảy, tìm cách nổi trên mặt nước và khi có cơ hội thì tác động đến dòng chảy sao cho có lợi nhất. Đối với Việt Nam, nếu quan sát đời sống và xu hướng tiêu dùng của người dân trong những năm gần đây, có thể thấy rõ toàn cầu hóa đang hiện diện, tác động đến đời sống và công việc kinh doanh của chúng ta. Trong các lý thuyết thương mại quốc tế, các nhà kinh tế cho rằng các quốc gia có lợi thế riêng của mình, nếu tập trung phát huy lợi thế đó và trao đổi lấy những mặt hàng bất lợi thế của mình với các quốc gia khác sẽ mang lại lợi ích cao hơn cho các bên tham gia. Vì vậy, cần mở cửa rộng rãi, để đón nhận luồng hàng hóa từ các quốc gia khác. Thực sự, nếu hai bên tham gia với một vị thế bình đẳng thì có thể lý thuyết này thật hoàn hảo. Nhưng trên thực tế, các nước giàu, phát triển luôn luôn rêu rao thương mại bình đẳng, tự do hóa thương mại, nhưng chính các quốc gia này đang duy trì sự bất bình đẳng đó. Trong hội nghị chính sách đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tổ chức tại Hà Nội năm 2004, Alan Deardorff, Giáo sư kinh tế quốc tế, Đại học Michigan – Mỹ, phát biểu: “ Hiệp định thương mại song phương thường đưa đến những thỏa thuận rất không tương xứng giữa các nước nhỏ với Mỹ hoặc châu Âu. Trong loại hiệp định này, các nước lớn hay các khối thương mại như EU có xu hướng giành lợi thế về mình chứ không phải lúc nào cũng vì lợi ích của các nước đối tác. Các hiệp định song phương không phải là thương mại tự do xét trên khía cạnh như là thành quả truyền thống của thương mại. Chúng là những thỏa thuận phân biệt đối xử hoặc ưu đãi giữa một số nước với các nước khác trên thế giới.” Việt Nam hiện nay vẫn hơn 70% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn mà lĩnh vực sản xuất chính là nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu, những mặt hàng chủ yếu của chúng ta chiếm tỷ trọng không nhỏ vẫn là những mặt hàng nông phẩm ( Thủy sản, gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả . . . ). Các sản phẩm này khi xuất khẩu hầu hết dưới dạng thô và sơ chế, giá trị thu được rất thấp. Bên cạnh đó, những mặt hàng này vấp phải những hàng rào hàng bảo hộ gay gắt từ nước ngoài. Khi chúng ta gia nhập WTO, một sân chơi được cho là bình đẳng, tự do, các hàng hóa là lợi thế các quốc gia sẽ được trao đổi, mua bán thuận lợi. Lật lại lịch sử khi ra đời 1995, WTO đã phớt lờ những vấn đề các nước đang phát triển bức xúc nhất là nông nghiệp. Mỹ và Liên minh châu Âu vẫn duy trì một chế độ bảo hộ dưới dạng trợ cấp nông nghiệp ở mức cao ( khoảng 300 tỷ USD/năm ) khiến cho giá trị nông sản xuất khẩu của họ thấp hơn mức giá sản xuất ở các quốc gia đang phát triển. Hội nghị Seattle năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên, các nước đang phát triển đã đương đầu với các nước phát triển và bác bỏ đề xuất của họ mở ra một vòng đàm phán mới về tự do hoá thương mại ( mang tên vòng Thiên niên kỷ ). Trong khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân sự thế giới xuống đường biểu tình ồ ạt, phản kháng WTO. Thông qua tại hội nghị Doha năm 2001, tuyên bố khai mạc của vòng đàm phán “ về phát triển ” xác định “ đặt nhu cầu và lợi ích của các nước đang phát triển vào trung tâm chương trình làm việc ”, và “ thương mại quốc tế có thể giữ vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và giảm bớt đói nghèo ”. Dù đặt chữ ký dưới bản tuyên bố này, nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi lời hứa của phía Bắc, và họ đã có lý. Một lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam kết của họ, trước tiên trong hồ sơ nông nghiệp. Năm 2002, Mỹ ra đạo luật tăng trợ cấp cho nông nghiệp lên gấp đôi. Đưa ra ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu hoá ra chỉ là thay đổi hình thái, màu mè của những trợ cấp trước đây ( chuyển trợ cấp nông sản thành trợ cấp nông dân ). Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ ngay mọi trợ cấp trong xuất khẩu nông sản ( các nước thành viên khác đến năm 2013 mới cắt giảm ),từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp ( các nước thành viên khác vẫn giữ quyền đó ). Các quốc gia phát triển luôn đưa ra “ củ cà rốt ” mở cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng đập “ cây gậy ” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi phạm ( Điển hình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của VN ). Điều trớ trêu là những đối tượng trực tiếp chịu những “ cú đánh ” này lại là những người nông dân nghèo, những người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn. Bên cạnh tác động tiêu cực về cạnh tranh bất bình đẳng, thương mại quốc tế còn đem lại cho các quốc gia đang phát triển “ nguồn tài nguyên dồi dào ” rác thải. Những thứ mà các quốc gia phát triển thải ra: rác thải công nghiệp, y tế, sinh hoạt . . . việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, có xu thế xuất khẩu những thứ này sang các quốc gia đang phát triển trong đó có VN, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ. Chúng ta cảm tưởng những chiếc ô tô, ti vi, hay các máy móc được bán sang VN với giá rẻ đó là một sự “ cảm thông ” của các quốc gia phát triển với những nước nghèo. Sự thực là các quốc gia đang phát triển khó có thể nào chống lại các luồng hàng hóa như vậy. Trong các hiệp định về tự do hóa thương mại, việc sử dụng hàng rào bảo hộ kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn, còn áp dụng hàng rào kỹ thuật các quốc gia đang phát triển lại không có lợi thế do trình độ công nghệ thấp ở các quốc gia này. Đầu Tư Quốc Tế : Ngày nay, các luồng tiền đầu tư không còn giới hạn số lượng, biên giới, thời gian, vấn đề chỉ là suất sinh lời trên vốn cao. Và hàng ngày, các nước phát triển vẫn luôn rao giảng mở cửa, mở cửa hơn nữa, chúng tôi đem tiền cho các anh tại sao lại đóng. Cái chúng tôi đem lại là vốn, công ăn việc làm, giải quyết những vấn đề xã hội, và bao nhiêu điều tốt đẹp, vì thế đừng giới hạn đầu tư. Ở đây, không thể phủ nhận những mặt tích cực mà đầu tư nước ngoài mang lại cho một quốc gia. Điều này đã được nhiều công trình nghiên cứu nêu ra. Nhưng xét một khía cạnh khác, đặc biệt nhìn dưới góc độ tính bền vững trong phát triển kinh tế, đầu tư quốc tế có những điểm cần quan tâm. Thứ nhất, luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những tập đoàn tư bản lớn mà vốn, công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với những điều kiện đó, khi các tập đoàn này vào, họ có thể sử dụng nhiều biện pháp thậm chí mang tính “ thanh toán ”. Gần như các doanh nghiệp trong nước rất khó khăn trong việc cạnh tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công ty con cho những tập đoàn này. Một dẫn chứng kinh điển là trường hợp một tập đoàn nước ngọt hàng đầu thế giới đã chịu lỗ nhiều năm liền để có thể thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị phần ở VN. Đây là một bài học mà cho tới này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thử suy nghĩ, nếu thị trường trong nước chịu sự kiểm soát phần lớn từ các tập đoàn đầu tư nước ngoài, khi có một trục trặc xảy ra ( ví dụ như: khủng hoảng, suy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích rủi ro trong sản xuất của doanh nghiệp và biện pháp quản trị.doc
Tài liệu liên quan