MỤC LỤC
Trang
Danh sách nhóm 1
Lời mở đầu 4
I. Những ưu điểm của sản phẩm Việt Nam 5
1. Khái niệm chung 5
2. Giải thưởng và hệ thống đánh giá chất lượng 7
3. Lợi thế và ưu điểm về chất lượng của sản phẩm Việt 10
4. Tiềm năng phát triển 22
II. Những hạn chế của chất lượng sản phẩm Việt Nam 23
1. Vệ sinh an toàn 23
2. Mẫu mã sản phẩm 29
3. Nguyên liệu đầu vào 34
4. Chế độ hậu mãi 36
III. Nguyên nhân và giải pháp 39
1. Từ phía Nhà nước 39
2. Từ phía người tiêu dùng 40
3. Từ phía doanh nghiệp 42
Kết luận 46
Danh mục tài liệu tham khảo 48
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chất lượng sản phẩm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t đều thấy sau giai đoạn chạy đua khẳng định “chất Việt Nam”, gần đây, G7 và Nescafe đang giáp chiến xung quanh tính từ “mạnh”. Trung Nguyên: “Giúp suy nghĩ mạnh hơn”, Nescafe:”Ngon hơn, vị cà phê mạnh hơn”. Trung Nguyên: “Vị cà phê cực mạnh”, Nescafe: “Bạn đã đủ mạnh để thử chưa?”…
Rõ ràng café Trung Nguyên – một sản phẩm thuần Việt tuy mới xuất hiện cũng đang có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các thương hiệu ngoại
Mới đây, toàn bộ sản phẩm mang nhãn hiệu Trung Nguyên và G7 sẽ xuất hiện trên thị trường với hệ thống bao bì mang dáng vẻ mới. Chiến dịch cải tiến mẫu mã bao bì sản phẩm cho thị trường nội địa và xây dựng hệ thống bao bì dành riêng cho thị trường quốc tế càng khẳng định hơn nữa đẳng cấp chuyên gia cà phê của Trung Nguyên. Bao bì mới mang 1 phong cách mới lạ và đọc đáo nhưng vẫn giữ vững những đặc trưng của café Trung Nguyên. Hình ảnh bao bì mới có biểu tượng hình mặt trời mọc trong buổi bình minh trên nền màu nâu truyền thống của cà phê, hoà lẫn với màu đất đỏ bazan của vùng núi đồi Tây Nguyên tạo nên sự liên tưởng rất gần gũi nhưng không kém phần sáng tạo của Trung Nguyên - đây cũng chính là thông điệp của cà phê Trung Nguyên muốn gửi đến khách hàng - bắt đầu một ngày mới, một sự khởi đầu mới đầy năng động và thành công bằng một ly cà phê truyền thống Trung Nguyên trong một không gian đầy chiều sâu nhiều cảm xúc. Trong thời gian này, café Trung Nguyên cũng tung ra 2 loại café mới là Legendee và Passiona. Cà phê Legendee và Passiona có hình ảnh trái ngược với hình ảnh biểu trưng mặt trời mọc là hình ảnh vầng trăng khuyết trong một góc phố đêm đầy tĩnh mịch và lãng mạn.
Lý giải cho sự trái ngược về 2 hình ảnh biểu trưng mặt trăng và mặt trời, Ông Đoàn Đình Hoàng Giám đốc tiếp thị kinh doanh nội địa của công ty cho biết Trung Nguyên muốn đi sâu vào những ước mơ, những mong đợi trong tâm hồn sâu kín của khách hàng, muốn cùng khách hàng chia sẻ những trăn trở, những thao thức và thăng hoa cùng những cảm xúc đầy sáng tạo của khách hàng. Biểu tượng mặt trăng cũng là một sự kết nối liên tục với hình ảnh mặt trời, một nhịp điệu cuộc sống không ngừng giữa ngày và đêm thể hiện mong muốn của Trung Nguyên luôn luôn đi cùng và chia sẻ cùng khách hàng. Mặt khác, đây là 2 loại sản phẩm dành cho nhóm đối tượng khách hàng rất khác biệt là những người sành uống cà phê với cà phê Legendee và khách hàng nữ là Passiona nên Trung Nguyên cũng muốn tạo sự khác biệt rõ ràng cho sản phẩm này.
Ta có thể thấy, café Trung Nguyên là một doanh nghiệp điển hình về sự tự ý thức được tầm quan trọng của thương hiệu, slogan và bao bì. Biết chia ra các phân khúc thị trường và cung cấp những sản phẩm với mẫu mã phù hợp với từng phân khúc đó. Và đây cũng là một nguyên nhân giải thích cho sự thành công của café Trung Nguyên hiện nay
Một ví dụ thứ hai cho việc doanh nghiệp Việt Nam ý thức được việc thay đổi mẫu mã bao bì là cần thiết trong chiến lược phát triển chất lượng sản phẩm và công ty Nutifood. Hội đồng quản trị của công ty đã có quyết định can đảm khi thay đổi cả bộ máy tổ chức của công ty và chấp thuận cho ban lãnh đạo thiết kế lại toàn bộ chiến lược và cấu trúc thương hiệu cho các dòng sản phẩm
“Việc thay đổi trên nằm trong chiến lược phát triển mới của Nutifood, vì trong điều kiện thị trường cạnh tranh bình đẳng, sự thành bại phụ thuộc rất nhiều vào thực lực và tầm nhìn của mỗi doanh nghiệp để có thể khẳng định tên tuổi và duy trì lợi thế dài hạn trên thương trường”, ông Nguyễn Công Hải, Giám đốc Marketing của Nutifood nói.
Vì sao Nutifood bắt đầu chiến lược kinh doanh mới bằng việc xây dựng lại cấu trúc thương hiệu và hệ thống bao bì sản phẩm? Ông Hải cho biết, khi xem xét nền tảng chiến lược và triết lý kinh doanh, ban lãnh đạo công ty đã đặt ra câu hỏi cần làm gì để nhãn hiệu sản phẩm phát triển hơn.
Nutifood có sản phẩm rất đa dạng, nhưng mức độ nhận biết của nhãn hiệu và tính đồng nhất trong thiết kế bao bì của các sản phẩm lại không tốt. Khi các sản phẩm của công ty được trưng bày trên quầy, kệ của điểm bán lẻ thì có vẻ các sản phẩm này không có “bà con” gì với nhau, nghĩa là người tiêu dùng không thấy có sợi dây liên hệ giữa chúng.
“Vì thế, công ty quyết định phải có bước đột phá trong việc xây dựng lại tín hiệu về nhận biết nhãn hiệu cho sản phẩm một cách đồng nhất. Để làm được việc này, chúng tôi hiểu rằng mình nên có một công ty tầm cỡ quốc tế giúp tư vấn và thiết kế bao bì và đó là lý do Nutifood chấp nhận chi ra số tiền lớn để mời Cowan, nhà thiết kế thương hiệu hàng đầu của Úc”, ông Hải cho biết.
Ông Blair Triplett, Giám đốc kinh doanh của Cowan ở khu vực châu Á, cho rằng vấn đề của thương hiệu là ở chỗ làm sao để bán được sản phẩm. Nếu việc thiết kế bao bì thực hiện tốt, nó sẽ truyền tải được thông điệp của doanh nghiệp về sản phẩm đến người tiêu dùng.
Một thiết kế kiểu dáng và bao bì sản phẩm đạt yêu cầu phải bắt nguồn từ chiến lược thương hiệu, chiến lược sản phẩm cũng như chiến lược phát triển của công ty. Việc tìm hiểu thị trường, nhu cầu, mong đợi của khách hàng, cũng như các phương tiện mà thương hiệu hay sản phẩm có thể tiếp cận đến người sử dụng sẽ giúp nhà thiết kế tìm ra sự khác biệt trong sáng tạo, từ đó giúp chuyển tải những giá trị của doanh nghiệp.
3.3. Tính năng
Độ bền của sản phẩm:
Không thể phủ nhận một thực tế là đã từ lâu, trong nếp nghĩ, nếp sống của nhiều người tiêu dùng nước ta đã hình thành một quan niệm: Hàng nội không bằng hàng ngoại. Đây là hậu quả khi mà một thời gian dài trước đây, hàng hóa sản xuất trong nước đã từng có chất lượng kém, mẫu mã nghèo nàn, giá cả không hợp lý...
Thế nhưng, hiện nay nhiều sản phẩm Việt Nam chất lượng cao như: sữa Vinamilk, dầu Tường An, bánh Kinh Đô, ắc quy Đồng Nai, áo Việt Tiến, vỏ ruột xe Casumina... đã dần được người tiêu dùng ưa chuộng và tín nhiệm. Hàng Việt Nam bây giờ đã cải thiện rất nhiều về chất lượng, độ bền. Cùng một sản phẩm, nhưng hàng Việt Nam có độ bền cao hơn so với hàng Trung Quốc, Thái Lan…như: phích nước, vỏ ruột xe, sản phẩm dệt may…
Theo TGÐ Trần Quang Nghị, khách hàng trong nước sử dụng các sản phẩm dệt may của Phong Phú là do có sự tin tưởng vào chất lượng sản phẩm. Với sự tin tưởng này, công ty tiếp tục đưa ra thị trường các sản phẩm ngày càng đa dạng, chất lượng ổn định và giá cả cạnh tranh, kết hợp với các chính sách về phát triển sản xuất, giá cả hợp lý, đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Không chỉ chiếm được sự tin tưởng của người tiêu dùng trong nước, hàng hóa Việt Nam ngày càng chiếm được lòng của người nước ngoài vì có chất lượng cao.
Karla khoe bộ bát đĩa sứ mua tại siêu thị từ năm 2005 mà lúc mua chị cứ tưởng là hàng nhập. Dùng một thời gian, mới biết đây là sản phẩm của Minh Long. “Mình không ngờ hàng Việt chất lượng tốt vậy. Giá cao, nhưng dùng hơn năm năm thì cũng đáng tiền”, chị nói.
Dù chưa hài lòng về mẫu mã, cả Jon và Luis Antonio Torres II (Mỹ) đều đánh giá cao chất lượng hàng may sẵn của các thương hiệu An Phước, Việt Tiến, Nhà Bè, May 10.
Nhìn chung, trong tất cả hàng hoá từng dùng, những người nước ngoài này đều tự so sánh chất lượng và độ an toàn của hàng Việt cao hơn hàng Trung Quốc. Những người sống tại Việt Nam thời gian dài đều có nhận xét nhiều món hàng của Việt Nam đã cải thiện đáng kể so với trước đây.
Jon cho hay: “Hồi đầu dùng bút Thiên Long và Bến Nghé, tôi thấy bút thường tắc đầu bấm, mực lúc ra lúc không. Bây giờ, bút của các hãng này cải thiện đáng kể, có thể nói là chất lượng cao”. Về chất lượng, tuổi thọ trung bình của bóng đèn Ðiện Quang gấp ba lần bóng đèn cùng loại của Trung Quốc. Những hàng hoá có sự cải thiện có thể kể đến là sữa, các loại bánh kẹo, sách vở, quần áo, giày dép…
Sự phù hợp của sản phẩm:
Khi mà thị trường có rất nhiều sản phẩm ngoại tràn lan và cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước đã đưa ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu cũng như yêu cầu của người tiêu dùng. Nhiều sản phẩm “Made in Viet Nam” vẫn đang được người tiêu dùng yêu mến và tín nhiệm. Nó cho thấy một điều, hàng Việt không thua kém hàng ngoại và chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về điều đó.
Trước tiên phải kể đến ngành dệt may, để nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu thị trường trong nước, mở rộng thị phần, thời gian qua,các doanh nghiệp dệt may tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ và nghiên cứu sản phẩm trong các lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm và may mặc. Tất cả các dự án đã đưa vào khai thác và sử dụng đều cho thấy hiệu quả. Năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, số lượng các sản phẩm mới luôn tăng hằng năm. Ða dạng sản phẩm và có những sản phẩm khác biệt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường để thu hút khách hàng là giải pháp mà các doanh nghiệp dệt may đang thực hiện để mở rộng thị trường trong nước. Với hơn 85 triệu dân, thị trường trong nước đầy tiềm năng nhưng cũng rất khắt khe, doanh nghiệp phải phân khúc thị trường để đưa ra các mặt hàng phù hợp nhu cầu ngườì tiêu dùng, luôn lắng nghe, tiếp nhận ý kiến, không ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm và dịch vụ, nhằm thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng trong nước.
Một cuộc khảo sát mới đây về mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng với các sản phẩm nước giải khát trong nước, kết quả cho thấy, đa số bình chọn cho Trà Xanh Không Độ, trà thảo mộc Dr Thanh của Tập đoàn Tân Hiệp Phát – những thức uống vốn rất thông dụng trong đời sống hàng ngày của người Việt. Trà thảo mộc Dr Thanh với nguồn gốc từ thiên nhiên hiện đang được nhiều người tín nhiệm không chỉ bởi đây là một loại nước giải khát phù hợp cho mùa hè, mà theo họ, sản phẩm này còn như một “người lính” bảo vệ sức khỏe. Trà thảo mộc đã “đánh” đúng tâm lý của người tiêu dùng khi chiết xuất từ 9 loại thảo mộc quý, đa số có thể trồng được ở Việt Nam và vốn gần gũi, thân thuộc như “người nhà”. Trên thực tế, có 4 yếu tố để Dr. Thanh được biết và nhớ đến, đó là chất lượng, sự khác biệt, hiệu quả marketing và hệ thống tổ chức phân phối.
Bên cạnh đó, các sản phẩm Việt Nam đang được tiêu thụ mạnh vì chất lượng và giá cả phù hợp với khả năng tiêu dùng của đa số người dân địa phương. Ông Võ Duy Hồng, trưởng bộ phận xây dựng thương hiệu của Casumina cho biết: “Sản phẩm lốp ô tô và lốp xe máy, hàng Việt Nam đang bán mạnh hơn cả hàng Thái Lan, Nhật và Trung Quốc. Bởi nếu cùng mức chất lượng, hàng của họ giá cao hơn, còn nếu cùng mức giá, hàng của họ kém hơn”.
Không chỉ chú ý phát triển trong nước, các doanh ngiệp Việt Nam còn từng bước xâm nhập thị trường nước ngoài với những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong đó phải kể đến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã thực sự là một niềm tự hào văn hoá của người Việt Nam. Hiện có hàng ngàn loại thủ công mỹ nghệ truyền thống như gốm sứ, sản phẩm tre, nứa, đồ sơn mài, khảm ... , some of which have been remarkably recognized and popularized in international areMột số đáng kể đã được công nhận và phổ biến ở trường quốc tế.
Có mặt tại Campuchia để mở mạng lưới phân phối, ông Trần Hữu Đức, giám đốc đối ngoại công ty Nutifood cho biết: “Trong bối cảnh các chợ và siêu thị Campuchia vẫn còn nhiều loại sữa Trung Quốc, Thái Lan, không rõ nguồn gốc, thì sữa Nutifood sẽ có cơ hội bán được hàng bởi chất lượng theo chuẩn quốc tế, mức giá hợp với túi tiền người dân đô thị”.
4. Tiềm năng phát triển :
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh đã khẳng định rằng với sự phát triển kinh tế khá nhanh, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước có chất lượng không thua kém hàng ngoại, thậm chí hơn hẳn hàng ngoại. Hàng hóa Việt Nam có những tiềm năng và ưu thế riêng để phát triển thị trường của mình. Việt Nam có một nguồn nhân lực trẻ và dồi dào, giá thành rẻ, hiện nguồn nhân lực này đang từng bước bược đào tạo để đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hóa sản phẩm. Việt Nam cũng có lợi thế về tài nguyên khoáng sản, đó là những nguồn nguyên liệu chính cho hoạt động sản xuất sản phẩm, mặc dù phần lớn nguyên liệu còn thô sơ chưa sử dụng trực tiếp được mà phải qua quá trình chế biến tại nước ngoài mới đưa vào sản xuất được nhưng trong thời gian hiện nay, chúng ta đang cố gắng hoàn thiện quá trình chế biến nguyên liệu thô để không tốn chi phí và công sức thực hiện công đoạn đó tại nước ngoài. Dây chuyền sản xuất và các cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất cũng được nhà nước quan tâm. Đối với thị trường trong nước, hàng Việt có ưu thế là không qua quá trình bị đánh thuế nhập khẩu nên giá thành thường không quá cao, hơn nữa trong thời gian gần đây, nhà nước đã đặc biệt chú ý phát động chiến dịch “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam “ và được đông đảo người dân ủng hộ, sự ủng hộ của người dân tiêu dùng nội địa đã tạo ra tiềm năng cho hàng Việt Nam. Hơn nữa, hàng hóa Việt sản xuất tại Việt Nam, những người sản xuất ra hàng hóa là người Việt Nam nên nắm rõ được nhu cầu người Việt, nắm rõ được văn hóa tiêu dùng nên thuận lợi hơn trong việc sản xuất ra những sản phẩm phù hợp thị hiếu. Đối với thị trường nước ngoài, giá thành thấp và độ bền của những sản phẩm Việt đã tương đối thuyết phục được người tiêu dùng khó tính và như vậy, hàng Việt có nhiều cơ hội và tiềm năng hơn trong việc đưa sản phẩm ra nước ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp hiện nay đã chú trọng hơn đến mẫu mã sản phẩm và khâu truyền thông quảng bá sản phẩm, các doanh nghiệp đã thành lập riêng những bộ phận phụ trách hai vấn đề này, cho nên ta có thể tin tưởng rằng những tiềm năng này của hàng hóa Việt sẽ làm nên những sản phẩm Việt chất lượng ngày càng cao trong tương lai.
II. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM VIỆT NAM:
Không thể phủ nhận rằng, chất lượng các sản phẩm Việt Nam đang ngày càng được cải thiện rất tích cực. Bên cạnh đó, giống như bất kì một lĩnh vực nào, sản phẩm Việt Nam khó tránh khỏi những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Trong khuôn khổ bài tìm hiểu này, chúng tôi xin đưa ra một số hạn chế nổi cộm của sản phẩm Việt.
Vệ sinh an toàn
Đây là vấn đề thực sự gây nhức nhối đối với các cấp lãnh đạo và thực sự gây bức xúc trong lòng người tiêu lâu nay: vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP). Thật khó khiến cho người dân Việt đặt trọn niềm tự hào dân tộc khi sức khoẻ bị đe doạ.
Vậy trước hết chúng ta cần hiểu VSATTP là gì?
Chất lượng VSATTP: VSATTP là các điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo cho thực phẩm không gây hại cho sức khỏe và tính mạng con người. Nhóm sản phẩm, hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn thì được quản lý trên cơ sở chất lượng sản phẩm do người sản xuất công bố và tự áp dụng
Nhóm sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn thì được quản lý trên cơ sở quy chuẩn chất lượng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn chất lượng do người sản xuất công bố áp dụng.
Có rất nhiều các mặt hàng của Việt Nam được bầy bán công khai trên thị trường nội địa mà chưa hề qua một cơ quan kiểm định nào. Và ảnh hưởng trực tiếp tức thì tới người tiêu dùng mà có thể nhận thấy rõ ràng là các sản phẩm tiêu dùng thuộc ngành thực phẩm.
Sau đây là danh sách những sản phẩm Việt Nam có nguy cơ gây bệnh do chưa đảm bảo được vệ sinh cũng như chất lượng sản phẩm.
1. Thịt và các sản phẩm từ thịt;
2. Sữa và các sản phẩm từ sữa;
3. Trứng và các sản phẩm chế biến từ trứng;
4. Thuỷ sản tươi sống và đã qua chế biến;
5. Các loại kem, nước đá; nước khoáng thiên nhiên;
6. Thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung, phụ gia thực phẩm.
7. Thức ăn, đồ uống chế biến để ăn ngay;
8. Thực phẩm đông lạnh;
9. Sữa đậu nành và sản phẩm chế biến từ đậu nành;
10. Các loại rau, củ, quả tươi sống ăn ngay.
Báo cáo về các hoạt động thanh - kiểm tra VSATTP trong năm 2009, Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (ATVSTP) đã đưa ra hàng loạt những con số như: Tết Nguyên đán - 2009 phát hiện 9.609 cơ sở vi phạm, xử lý cảnh cáo 1.812 cơ sở, phạt tiền 1.581 cơ sở với số tiền 2,5 tỉ đồng, đóng cửa tạm thời 48 cơ sở, 976 cơ sở có sản phẩm không đạt bị tiêu huỷ...
Kết quả, Tháng hành động vì chất lượng VSATTP phát hiện hơn 30% số cơ sở không đạt, số mẫu vi phạm chất lượng chiếm 18%, xử phạt hơn 15 nghìn cơ sở, đình chỉ hoạt động 156 cơ sở. Đáng chú ý, trong số gần 1.500 mẫu thịt và sản phẩm từ thịt được lấy trên cả nước, đã phát hiện tới gần 41% số mẫu nhiễm khuẩn Salmonella (vi khuẩn gây ra các bệnh về đường tiêu hoá).
TPHCM và Đồng Nai là những địa phương có tỉ lệ mẫu thực phẩm nhiễm Salmonella cao nhất - chiếm 84-95% mẫu được giám sát... Mỗi ngày các loại thực phẩm kém chất lượng vẫn tràn ngập thị trường mà không ai kiểm tra, giám sát.
TS Trịnh Quân Huấn - Thứ trưởng Bộ Y tế - cho biết, mới chỉ có 20- 30% số cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP trong số 9,4 triệu hộ sản xuất nhỏ lẻ trên cả nước.
Có ý kiến cho rằng, nếu áp dụng theo đúng các quy định về VSATTP thì có lẽ 80% số hộ sản xuất nhỏ lẻ này phải đóng cửa. Chính quyền, cơ quan y tế biết rõ những cơ sở đó không đủ các điều kiện để sản xuất thực phẩm, là nguy cơ phát tán ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng..., song cứ cho tồn tại.
Còn đại diện Sở Y tế tỉnh Yên Bái thì phàn nàn, thanh - kiểm tra cơ sở không đạt điều kiện ra lệnh phạt, nhưng chẳng ai nộp phạt vì lý do nghèo, thế là chỉ nhắc nhở. Lại có hàng trăm lý do đưa ra không nên đóng cửa các cơ sở vi phạm vì sợ rằng, đóng cửa đồng nghĩa với việc sẽ có hàng triệu người lao động mất việc. Sự “lùng nhùng” này đã kéo dài nhiều năm nay. Những cơ sở sản xuất bánh kẹo, bánh phở tư nhân ngày ngày cho ra lò những đồ ăn, thức uống bên cạnh cống rãnh đen ngòm, cạnh nhà vệ sinh bốc mùi...vẫn cứ ngang nhiên hoạt động.
Bộ Y tế đã đặt lên bàn hội thảo vấn đề cần sớm có giải pháp để thiết lập sự ATVSTP cho 9,4 triệu hộ sản xuất thực phẩm nhỏ lẻ. Các địa phương đều giãi bày những cái khó mà một mình ngành y tế không đủ sức với tới. Thứ trưởng Y tế Trịnh Quân Huấn đề nghị chính quyền các địa phương cần hỗ trợ vốn cho các hộ sản xuất thực phẩm để cải tạo cơ sở vật chất, nếu cơ sở nào không làm sẽ đóng cửa.
Cho đến lúc này, vấn đề ATVSTP tại nhiều nơi vẫn chỉ coi là chuyện nhỏ. Bằng chứng là một cuộc họp cấp quốc gia về ATVSTP vắng bóng gần một nửa lãnh đạo các sở y tế. Chẳng biết ngành y tế có quá lạc quan khi đưa ra mục tiêu trong năm 2010 có 80% - tức là thêm 50% số cơ sở sản xuất thực phẩm tư nhân - được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện VSATTP so với năm 2009 khi mà cái gốc của việc kiểm soát thực phẩm an toàn từ khâu sản xuất vẫn chưa thể giải quyết.
Xin đơn cử một số mặt hàng tiêu biểu trong thời gian vừa qua đã có những ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe người tiêu dùng là : các sản phẩm sữa, nước tương, bánh kẹo....
Đối với các sản phẩm sữa, trên thị trường hiện nay có hàng ngàn cơ sở sản xuất sữa đậu nành. Thủ công có, công nghiệp có. Tuy nhiên số những nhà sản xuất tên tuổi, có nguồn lực nhà xưởng, máy móc hiện đại, có qui trình sản xuất đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm để cho ra đời sản phẩm chất lượng dinh dưỡng cao thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Theo các cuộc kiểm tra, khảo sát gần đây về thành phần của các sản phẩm sữa đậu nành được bán trên đường phố hiện nay, kết quả cho thấy có rất nhiều loại vi sinh gây bệnh tiêu chảy như: Bacillus cereus, Clostrisdium perfringens, Coliforms, E.coli, nấm men, mốc, TPC - sinh vật hiếm khí… Thống kê cho thấy tại Tp. Hồ Chí Minh, tỷ lệ số mẫu sữa đậu nành nhiễm khuẩn là 90% - còn tại Hà Nôi là 70%.
Cuộc sống càng phát triển, người tiêu dùng càng quan tâm đến chất lượng sống, đến sức khỏe không chỉ của riêng mình, mà còn của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Do đó, nhu cầu sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng chất lượng và an toàn vệ sinh tuyệt đối ngày càng cao.
Mặt hàng thứ 2 đã từng là tâm điểm của dư luận cũng như người tiêu dùng cũng như chất lượng sản phẩm và vệ sinh của sản phẩm. Đó là sản phẩm nước tương.
Nước tương có chứa chất 3-MCPD (3-MCPD được xem là hoá chất hoạt năng theo cơ chế không gây độc cho gen trong nghiên cứu trên cơ thể sống, nhưng lại có tác động lên chức năng sinh sản, cũng như làm tổn thương tăng sinh và tạo khối u ở thận ở mô hình thực nghiệm động vật)..
Năm 2004, Viện Vệ sinh y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giám sát hàm lượng 3-MCPD 41 mẫu nước tương thì phát hiện 33 mẫu có 3-MCPD vượt tiêu chuẩn cho phép, chiếm tỉ lệ 80,5%. Trong 33 mẫu này có sáu mẫu có hàm lượng 3-MCPD cao khủng khiếp, từ 11.100-18.244 mg/kg, tức cao gấp 11.000-18.000 lần mức cho phép; sáu mẫu có hàm lượng 3-MCPD rất cao, từ 6.260-8.659 mg/kg; và 21 mẫu có hàm lượng 3-MCPD cao vượt giới hạn từ 2,1-4.936 mg/kg.
Năm 2005, viện này khảo sát tiếp 137 mẫu từ nhiều nơi gửi tới xét nghiệm. Qua đó phát hiện hơn 100 mẫu có hàm lượng 3-MCPD từ 2,0 -9.743 mg/kg, cao hơn mức cho phép từ hai đến gần chục ngàn lần. Kết quả phân tích 245 mẫu nước tương của Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm 2005-2006 cũng cho thấy có bảy mẫu vượt trên 1mg/kg, trong đó có một mẫu cao đến 1.700mg/kg. Ngoài ra, giám sát của Trung tâm Y tế dự phòng thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2006 trên 20 mẫu cũng phát hiện tám mẫu có 3-MCPD vượt mức cho phép.
Trừ hai bản danh sách các cơ sở sản xuất nước tương có chất 3-MCPD cao quá mức cho phép trong hai năm 2005 và 2007 vừa được công bố, các kết quả kiểm nghiệm mẫu của những cơ sở sản xuất nước tương khác trong nhiều năm qua đều không được công bố. Các cơ sở này là ai? Vi phạm bao nhiêu lần, có bị xử lý không, xử lý thế nào? Không ai biết, trừ ngành y tế!
Thế nhưng, nước tương có chất 3-MCPD vượt mức qui định gây nguy hại sức khỏe người tiêu dùng vẫn xuất hiện nhan nhản trên thị trường. Nhiều năm qua những cơ quan có trách nhiệm bảo vệ sức khỏe người dân vẫn dửng dưng, giấu nhẹm thông tin để mặc người tiêu dùng phải đối diện với nguy cơ mắc bệnh ung thư từ những loại nước tương không an toàn? Đây là câu hỏi đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thuyết phục.
Thời gian qua, mỗi khi phát hiện cơ sở nào vi phạm, sở đều có xử phạt. Tuy nhiên, luật có những bất cập mà nhiều khi ngành y tế không thể làm khác được. Có những cơ sở vi phạm nhiều lần, ngành y tế rất bức xúc, rất muốn đóng cửa nhưng không thể vì luật qui định rất rõ họ sai phạm thế nào thì mới đóng cửa được.
Nhưng hàng Việt có nhiều loại chưa bảo đảm chất lượng và an toàn cho người tiêu dùng, vậy phải làm sao? Bài toán này không chỉ của riêng ai, mà cần các nhà quản lý và đồng bào mình, mỗi người cần cố gắng tham gia. Ai làm hàng giả, hàng kém chất lượng, không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng cần có chế tài phạt thật nặng, nếu tái phạm nhiều lần và để lại hậu quả nặng cho xã hội thì phạt tù, tịch biên tài sản v v v...
Mẫu mã sản phẩm
Thông thường, khi người tiêu dùng định mua một sản phẩm nào đó trong hàng trăm loại hàng hóa cùng nhãn hiệu được bán ở siêu thị, hay trung tâm thương mại... thì có lẽ hình thức bên ngoài của sản phẩm là yếu tố đầu tiên nối kết giữa thương hiệu và người tiêu dùng. Vì thế, để sự kết nối này được bền vững, thì mẫu mã, bao bì, thiết kế phải đáp ứng được "tính cách riêng" của sản phẩm, phải truyền tải những "điều muốn nói" của doanh nghiệp gửi đến người tiêu dùng, từ đó mới tạo được sức mạnh của thương hiệu.
Thiết kế tốt, mẫu mã đẹp là tạo cho sản phẩm một giá trị đơn thuần của nguyên vật liệu hay cơ năng vật lý. Thiết kế tốt sẽ tạo ra sự thoải mái khi dùng, vẻ đẹp, niềm vui, sức hấp dẫn và làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm rất nhiều. Vì thế, mọi người đều thích những sản phẩm có mẫu mã hấp dẫn, dù nghĩ rằng hơi đắt một chút đi nữa họ vẫn có thể bỏ tiền ra mua.
Nếu biết được tên của các xí nghiệp chế tạo hay bán những sản phẩm có thiết kế tốt, mọi người chú ý vào các tên đó. Người dùng sẽ đặt hy vọng vào các xí nghiệp này và mong đợi những sản phẩm mới của họ với niềm vui. Thiết kế tốt sẽ biểu hiện được suy nghĩ và nhìn thấy được quan điểm chế tạo sản phẩm của xí nghiệp.
Khi sản phẩm có thiết kế tốt tăng lên, người dùng cũng dần dần nhận ra được vẽ xấu tốt trong thiết kế và cạnh tranh của thị trường về mặt thiết kế sẽ kích thích người chế tạo làm ra những sản phẩm có thiết kế tốt hơn. Như vậy, với hiệu quả hỗ tương này giữa người sản xuất và người tiêu dùng, những sản phẩm tốt dần sẽ được ra đời.
Thiết kế tốt sẽ làm người dùng tăng độ thoả mãn, nâng cao niềm tự hào của người chế tạo và cũng sẽ gây được tiếng tăm của quốc gia, khu vực đó. Như vậy, thiết kế tốt cũng sẽ liên quan đến sự phát triển về phương diện kinh tế, văn hoá của toàn xã hội.
Ông Antonia Berenguer, tham tán thương mại phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam nhận định: nhiều doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) đang bị động về vấn đề này, nên phần lớn chưa chủ động được mẫu mã hàng hóa để chào hàng, mà chủ yếu làm theo đơn đặt hàng của đối tác. Phần lớn hàng hóa của Việt Nam vẫn là hàng gia công, khiến khiến doanh nghiệp Việt Nam bị động và phụ thuộc vào đối tác. Hàng hóa Việt Nam xuất hiện tại EU chưa tạo được thương hiệu, tên tuổi có thể xem như một ví dụ. Đó là một hạn chế khiến hàng Việt Nam ít được người tiêu dùng chú ý. Ông Matthias Duehn, giám đốc điều hành EuroCham, dẫn chứng: ít người dân châu Âu biết đến thương hiệu cà phê của Việt Nam, trong khi ai cũng biết thương hiệu cà phê Brazil. Một tên tuổi, thương hiệu gắn liền với sản phẩm sẽ khiến chỗ đứng của sản phẩm trên thị trường được khẳng định.
Chúng t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích chất lượng sản phẩm Việt Nam.doc