MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CÔNG TY IMEXTRACO THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG INDONESIA . 2
CHƯƠNG2: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG. 11
I. Sơ lược về nền kinh tế Indonesia: 11
II. Phân tích các lý do dẫn đến việc thâm nhập thị trường Indonesia của công ty IMEXTRACO: 12
1. Đây là sự phát triển tất yếu của công ty. 12
2. Indonesia là một nước trong cùng khu vực với Việt Nam. 13
3. Indonesia là một thị trường tiêu thụ lớn, là một nước luôn dẫn đầu thế giới trong hoạt động nhập khẩu gạo. 13
4. Indonesia là một nước có nền kinh tế khá phát triển. 14
III. Các thay đổi diễn ra trong môi trường kinh tế của Indonesia và ảnh hưởng của nó tới việc xuất khẩu gạo của công ty IMEXTRACO. 14
1. Sự thay đổi phương thức mua bán : 14
2. Sự thay đổi thuế quan và hạn ngạch : 15
IV. Các thuận lợi , khó khăn và các yếu tố chi phối trong hoạt động xuất khẩu gạo sang Indonesia của công ty : 17
1. Thuận lợi: 17
2. Khó khăn: 18
3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất khẩu gạo của công ty sang thị trường Indonesia : 21
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 24
I. Bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nói chung và đối với công ty IMEXTRACO nói riêng: 24
1. Đặc điểm đặc biệt của hàng hoá: 24
2. Tác động của tỷ giá đồng ngoại tệ. 24
3. Tác động của vấn đề tôn giáo, dân tộc. 25
4. Tác động của vấn đề cạnh tranh. 25
5. Tác động của sự thay đổi các chính sách của đối tác. 25
II. Một số giải pháp giải quyết những khó khăn trong xuất khẩu gạo 26
1. Tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường Indonesia. 26
2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường 27
3. Tổ chức tốt mạng lưới thu mua, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. 28
4. Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm 29
5. Nâng cao hiệu quả thu thập thông tin và các nghiệp vụ xuất khẩu khác. 30
6. Kiến nghị với nhà nước 30
KẾT LUẬN 31
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích Công ty imextraco thâm nhập thị trường indonesia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của những công ty nước ngoài vào Indonesia, trong đó có IMEXTRACO. Các biện pháp mà Indonesia thường áp dụng gồm có thuế quan và hạn ngạch.
Chương2:
Phân tích tình huống.
I. Sơ lược về nền kinh tế Indonesia:
Indonesia là một nước ở phía nam biển Đông vùng Đông Nam Châu á, là nước sản xuất dầu lửa và là thành viên của OPEC, với diện tích khoảng 1.912.988 km2 và dân số là 224.784.210 người( năm 2001). Indonesia là một nước có nền kinh tế khá phát triển trong khu vực,và được thế giới biết đến với những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Thủ đô của Indonesia là Jakata, ngoài ra Indonesia còn có một số thành phố chính khác như: Su-ra-bay-da, me-dan, Băng-dung. Cơ cấu dân tộc của Indonesia bao gồm người Gia-va là chủ yếu, chiếm 45%, người Sun-đan chiếm 14%, người Man-đu-rơ chiếm 7,5%, Ma-lai chiếm 7,5%, các dân tộc khác chiếm 26%.
Về vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng trong xã hội Indonesia thì đạo hồi là đạo thịnh hành nhất, số người theo đạo hồi Sun-ni chiếm 87% tổng dân số, các giáo phái khác của thiên chúa chiếm 7%, đạo Thiên chúa giáo La Mã chiếm 3%, đạo hin-đu chiếm 2%. Vì là nước có số lượng dân số theo đạo hồi rất đông nên xã hội của Indonesia có sự ảnh hưởng khá sâu sắc và có quan hệ khá mật thiết với một số nước đạo hồi trên thế giới.
Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 10 tháng 8 năm 1964 và tham gia rất nhiều tổ chức trên thế giới như: APEC, ASEAN,AsDB, ESCAP, FAO, G- 77, IAEA, IBRD, UNESCO, UNIDO, WTO,…
So sánh với các nước trong khu vực thì Indonesia là một nước có nền kinh tế khá phát triển với chỉ số GDP Là 153.255 triệu USD, GDP theo đầu người là 681,79 USD.
Trong một thoả thuận với quỹ tiền tệ quốc tế IMF năm 2001, chính phủ Indonesia dưới sự lãnh đạo của tân tổng thống, bà Megawati Sukarnoputri đã cam kết: Đảm bảo nền kinh tế Indonesia phát triển ổn định với các chỉ tiêu sau: Tốc độ phát triển kinh tế 3%_3,5%. Lạm phát 9%_11%, dự trữ ngoại tệ: 28,2 tỷ USD. Chính phủ để Ngân hàng Trung ương hoạt động mạnh và độc lập, sửa đổi quy chế Ngân hàng Trung ương. Sửa đổi luật phá sản, tư nhân hoá một số công ty quốc doanh để tạo thêm tiền mặt cho ngân sách. Giữ thâm hụt cho nhà nước ở mức 3,7%… Vào thời điểm này, tổng nợ của chính phủ Indonesia là 132 tỷ USD, tương đương với GDP một năm. Trong đó 72 tỷ USD là nợ nước ngoài, 60 tỷ USD là nợ trong nước. Đây là một thành công lớn của chính phủ Indonesia bởi đổi lại cam kết đó, chính phủ Indonesia sẽ nhận được một khoản viện trợ 5 tỷ USD từ phía IMF.
Với địa hình bao gồm nhiều hòn đảo nhỏ nên Indonesia có nền nông nghiệp nghèo nàn, ngoài ra với số dân khá đông, nên Indonesia thường xuyên phải nhập khẩu lương thực. Các nước xuất khẩu gạo sang Indonesia chủ yếu là Thái Lan (30%), Việt Nam(27%), ấn độ(16,5%), Myanmar(10%)…
Indonesia thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày: 10/8/1964. Ngày 23-03-1995 Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phủ nước cộng hoà Indonesia đã tham gia ký kết hiệp định thương mại với lòng mong muốn phát triển, tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Indonesia sang Việt Nam bao gồm: Phân bón, sản phẩm từ dầu, gỗ, nguyên liệu công nghiệp dệt, máy móc và thiết bị…Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Indonesia bao gồm: Gạo, dầu thô, tiêu, rau quả… Trong nội bộ ASEAN thì Indonesia là bạn hàng lớn thứ tư của Việt Nam( sau Singapore, Malaysia và Thái Lan).
II. Phân tích các lý do dẫn đến việc thâm nhập thị trường Indonesia của công ty IMEXTRACO:
1. Đây là sự phát triển tất yếu của công ty.
Trước năm 2000, các hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của công ty chủ yếu là thông qua các hợp đồng trả nợ của chính phủ, điều này dẫn tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của công ty không đạt hiệu quả cao do phải trông chờ vào các hợp đồng của chính phủ Việt Nam. Bước sang năm 2000, khi mà chính phủ các nước bạn quyết định thay đổi phương thức mua bán bằng cách giao cho các doanh nghiệp trực tiếp tham gia kinh doanh nhập khẩu gạo thì việc xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng được chính phủ giao lại cho các công ty xuất khẩu lương thực. Điều này tất yếu dẫn đến việc các công ty phải tự tìm cho mình bạn hàng và duy trì sự phát triển trên các thị trường đó. Điều này đã đặt ra cho các công ty xuất khẩu gạo rất nhiều thử thách và thuận lợi, nếu công ty tìm được nguồn tiêu thụ tốt thì sẽ đạt hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cao và ngược lại. Trước tình hình đó, công ty IMEXTRACO đã rất chú trọng tới khâu tìm đối tác bạn hàng, và do đó việc công ty thâm nhập vào thị trường Indonesia là một vấn đề tất yếu.
2. Indonesia là một nước trong cùng khu vực với Việt Nam.
Điều này là một thuận lợi với công ty trong các hoạt động tìm hiểu và thâm nhập thị trường.Việt Nam và Indonesia đều là thành viên của ASIAN và giữa hai nước có mối quan hệ chặt chẽ. Do đó, trong hoạt động kinh doanh của mình với thị trường Indonesia, công ty luôn luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của chính phủ hai nước.
Đây là một thuận lợi rất lớn của công ty, tận dụng được điều kiện thuận lợi này công ty có thể tăng cường khả năng cạnh tranh trước các công ty xuất khẩu gạo khác trên thế giới của Mỹ, ấn độ,…Mặc dù hiện nay, chính phủ Indonesia đã khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động kinh doanh nhập khẩu gạo nhằm đảm bảo tốt khả năng tiêu thụ gạo trong nước, tuy nhiên khối lượng gạo nhập khẩu vào Indonesia chủ yếu vẫn là các hoạt động ký kết của chính phủ Indonesia với một số nước như: Việt Nam, Thái Lan… thông qua cơ quan lương thực Bulog, nếu công ty nắm bắt được điều kiện này sẽ phát huy được tối đa khả năng kinh doanh xuất khẩu gạo trên thị trường Indonesia.
3. Indonesia là một thị trường tiêu thụ lớn, là một nước luôn dẫn đầu thế giới trong hoạt động nhập khẩu gạo.
Do có dân số đông, địa hình phức tạp bao gồm nhiều hòn đảo nên nền nông nghiệp của Indonesia gặp rất nhiều khó khăn. Sản lượng gạo hàng năm không đủ đảm bảo mức tiêu thụ tối thiểu của người dân. Chính vì thế Indonesia thường xuyên phải nhập khẩu gạo. Khối lượng gạo mà Indonesia nhập hàng năm lên tới trên 2 triệu tấn, đây là một hứa hẹn lớn đối với các công ty xuất khẩu gạo. Năm 2001 Indonesia đã nhập khoảng 1,5 triệu tấn gạo, năm 2002 con số này lên tới hơn 2 triệu tấn và tính đến tháng 10 năm 2003 Indonesia đã nhập 2,5 triệu tấn. Hàng năm, Indonesia sản xuất khoảng 50 triệu tấn lúa, trong khi đó sức tiêu thụ trong nước rơi và khoảng 52 triệu. Hoạt động nhập khẩu gạo của Indonesia là một hoạt động thường xuyên và không thể thiếu được bởi vì gạo là lương thực chủ yếu của trên 200 triệu người dân Indonesia.
Sau khi nhận rõ được tiềm năng to lớn của thị trường Indonesia , công ty IMEXTRACO đã quyết định kinh doanh trên thị trường này. Đây là một đảm bảo rất lớn đối với công ty về đầu ra, và đảm bảo sự tồn tại của công ty trong thị trường gạo Indonesia. Khi thâm nhập vào thị trường Indonesia công ty dễ có cơ hội phát triển do sức tiêu thụ của thị trường lớn, thông qua đó công ty thu được một nguồn lợi nhuận cao, đẩy mạnh sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
4. Indonesia là một nước có nền kinh tế khá phát triển.
So sánh với các nước trong khu vực thì Indonesia là một nước có chỉ số GDP khá cao là 153.255 triệu USD, GDP theo đầu người là 681,79 USD.
Đây là một thuận lợi với công ty, bởi vì khi tham gia hoạt động kinh doanh trong một môi trường có nền kinh tế phát triển công ty dễ có khă năng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các công ty của nước bạn có nguồn tài chính lớn, do đó ít có trường hợp công ty bị chiếm dụng vốn. Đây là một điều rất quan trọng đối với công ty khi mà bước đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thương trường quốc tế.
III. Các thay đổi diễn ra trong môi trường kinh tế của Indonesia và ảnh hưởng của nó tới việc xuất khẩu gạo của công ty IMEXTRACO.
1. Sự thay đổi phương thức mua bán :
Sự thay đổi phương thức mua bán của các bạn hàng: Trước kia, các nước nhập khẩu gạo mua gạo của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng theo phương thức đàm phán thương mại cấp chính phủ giữa hai nước( G_to_G), sau đó phía bạn giao cho tập đoàn kinh tế hay tổ chức an ninh lương thực. Còn phía ta thì giao cho các công ty xuất khẩu lương thực. Nhưng hiện nay thì chính phủ Indonesia đơn phương thay đổi phương thức mua bán và mở cửa cho các doanh nghiệp nhỏ thực hiện giao dịch. Họ thay đổi phương thức mua bán là vì lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế cá nhân…Việc mua bán cấp chính phủ giúp công ty có thể ký những hợp đồng với số lượng lớn, giá tốt. Do biết trước "đầu ra" nên dễ tính toán "đầu vào" ít gặp rủi ro nếu hợp đồng thực hiện nghiêm túc. Nhưng hạn chế là các đơn vị thành viên luôn trông chờ vào chỉ tiêu phân chia của tổng công ty để tham gia xuất ủy thác. Do độc quyền nên có điều kiện phát sinh các hiện tượng tiêu cực, tệ cửa quyền như lo lót, xin cho, ưu ái riêng... Từ đó dẫn đến hạn chế cơ bản là tính năng động trong kinh doanh của các doanh nghiệp đầu mối do sự ỷ lại Với phương thức mua bán thay đổi đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén, chủ động và tích cực hơn trong việc đàm phán với bạn. Hơn nữa, việc buôn bán chuyến dù nhỏ, lẻ nhưng quay được nhanh nhiều vòng, sẵn sàng tư thế cho việc đấu thầu, bán trả chậm... tùy theo tình huống đòi hỏi. Tuy vậy, vai trò của các bộ ngành, địa phương trong việc hướng dẫn, điều hành các doanh nghiệp xuất khẩu có trật tự trong tình hình mới là điều cần thiết trong việc thích ứng với sự thay đổi phương thức mua bán trên thị trường xuất khẩu gạo khu vực
Công ty IMEXTRACO đã phát hiện sự chuyển đổi phương thức mua bán của bạn nên mạnh dạn ký kết các hợp đồng nhỏ, lẻ, tăng vòng quay vốn. . Với phương thức mua bán thay đổi đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén, chủ động và tích cực hơn trong việc đàm phán với bạn. Hơn nữa, việc buôn bán chuyến dù nhỏ, lẻ nhưng quay được nhanh nhiều vòng, sẵn sàng tư thế cho việc đấu thầu, bán trả chậm... tùy theo tình huống đòi hỏi.
2. Sự thay đổi thuế quan và hạn ngạch :
Sự thay đổi trong các chính sách về thuế, hạn ngạch của Indonesia .Hiện tại Indonesia có rất nhiều chính sách nhằm bảo hộ nông dân, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo của những công ty nước ngoài vào Indonesia , trong đó có IMEXTRACO. Các biện pháp mà Indonesia thường áp dụng gồm có thuế quan và hạn ngạch.
Bộ trưởng Nụng nghiệp Bungaran Saragih cho biết, Indonesia sẽ nõng thuế nhập khẩu gạo lờn gần 19% từ năm 2004 nhằm bảo vệ nụng dõn trong nước.
Tháng 6/2003, cơ quan Hậu cần Nhà nước Indonesia (Bulog) vừa đề xuất Chớnh phủ nước này thiết lập hạn ngạch nhập khẩu gạo, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của nước này, từ năm 2004 nhằm bảo hộ nụng dõn trong nước.
Đề xuất này đưa ra hai phương ỏn, một là hạn ngạch hạn chế thụng thường, hai là hạn ngạch thuế quan liờn đới.
Bulog cho biết cú thể phương ỏn thứ 2 sẽ được lựa chọn để quản lý tỡnh hỡnh nhập khẩu hàng húa và giỏ cả, và sẽ cú tỏc dụng bảo vệ nụng dõn nước này tốt hơn phương ỏn thứ nhất, thụng qua biện phỏp hạn ngạch thuế quan, Chớnh phủ cú thể đỏnh mức thuế cao hơn đối với lượng hàng húa nhập khẩu vượt hạn ngạch.
Bộ trưởng Bộ Nụng nghiệp Indonesia Bungaran Saragih cho biết mức thuế nhập khẩu gạo cú thể sẽ tǎng từ 430 rupiah/kg lờn 510 rupiah/kg (0,06 UScent/lb).
Một số nhà lập phỏp nước này từ lõu đó đề nghị Chớnh phủ thực hiện cỏc giải phỏp trờn để bảo hộ nụng dõn trong nước. Tuy nhiờn, cỏc nhà kinh tế cho rằng, việc tǎng giỏ lỳa gạo cú thể khiến tỷ lệ lạm phỏt đó cao sẽ cũn cao hơn, bởi giỏ gạo cú ảnh hưởng rất lớn tới chỉ số giỏ tiờu dựng.
Trong 2 nǎm qua, Indonesia đó khụng một lần tǎng giỏ lỳa gạo. Tuy nhiờn, theo một nghị định của chớnh phủ dự kiến ban hành vào thỏng 10 tới, Cơ quan hậu cần quốc gia Indonesia Bulog sẽ tǎng giỏ thu mua lỳa từ nụng dõn lờn 1650 rupiah (0,186 USD)/kg từ mức 1519 rupiah/kg hiện nay. Mức giỏ mới sẽ cú hiệulực vào nǎm tới.
Indonesia nằm trong số những nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nước cú tỷ lệ lạm phỏt lớn nhất chõu A'. Nǎm ngoỏi, tỷ lệ lạm phỏt của Indonesia là 12,55% và mục tiờu trong nǎm nay sẽ giảm xuống cũn 9%. Theo cỏc quan chức lnđụnờxia, năm 2003, sản lượng thúc của nước này sẽ tăng 2,7% (1,4 triệu tấn) so với năm trước, đạt 53 triệu tấn (khoảng 33,5 triệu tấn gạo). Nguyờn nhõn là do diện tớch trồng lỳa của lnđụnờxia năm 2003 dự đoỏn sẽ tăng 1,4% (16.000 ha) so với năm trước lờn 11,8 triệu ha và năng suất lỳa dự đoỏn sẽ tăng 1,6% (0,07 tấn/ha), đạt 4,5 tấn/ha. Nhu cầu tiờu thụ gạo của lnđụnờxia năm 2003 dự đoỏn vẫn giữ ở mức năm trước là 36,1 triệu tấn, cao hơn sản lượng là 2,6 triệu tấn.
Tuy nhiờn, do tồn kho gạo thấp nờn năm 2003 lnđụnờxia sẽ tiếp tục nhập khẩu gạo ở mức cao của năm trước là 3 triệu tấn. Nhưng để bảo vệ người sản xuất trong nước, Bộ Nụng nghiệp lnđụnờxia đó đề nghị Chớnh phủ tăng thuế nhập khẩu gạo, bắt đầu từ 1/1/2003, thuế nhập khẩu sẽ tăng từ 430 Rupiah/kg mức hiện nay lờn 510 Rupiah/kg.
Đồng thời lnđụnờxia cũng tăng giỏ thúc thu mua của nụng dõn từ 519 Rupiah/kg lờn 725 Rupiah/kg. Mức giỏ mới này bao gồm cả 25 Rupiah/kg hỗ trợ chi phớ vận chuyển cho nụng dõn để giao gạo lờn cơ quan Hậu cần Quốc gia (Bulog). Năm 2003 Bulog sẽ ỏp dụng mức giỏ sàn này để mua 2,2 triệu tấn gạo của nụng dõn và bỏn lại cho cỏc hộ gia đỡnh cú thu nhập thấp với giỏ 1.000 Rupiah/kg.
Trước tình hình đó, các công ty xuất khẩu gạo sang Indonesia gặp rất nhiều khó khăn( trong đó có IMEXTRACO). điều này càng làm cho sự cạnh tranh diễn ra gay gắt. Trước mắt công ty đang đầu tư mạnh vào các khâu bảo quản, chế biến gạo và đặc biệt là khâu thu mua. Hiện tại, trong khâu thu mua công ty phải lựa chọn rất kỹ đầu vào nhằm tăng sự cạnh tranh với các đối thủ trong và ngoài nước.
IV. Các thuận lợi , khó khăn và các yếu tố chi phối trong hoạt động xuất khẩu gạo sang Indonesia của công ty :
1. Thuận lợi:
- Khâu thu mua nguồn hàng của công ty có rất nhiều thuận lợi do thị trường đầu vào phong phú và đa dạng, đội ngũ cán bộ nhiệt tình, năng động trong các công tác tìm nguồn hàng và tìm nguồn tiêu thụ. Điều này đảm bảo tốt cho công tác chuẩn bị nguồn hàng và luôn giao hàng đúng tiến độ, giữ uy tín của công ty với bạn hàng. Có được điều này là do xuất phát đIúm của nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp, trên 70% dân số của cả nước sống bằng nghề nông, do đó về đầu vào công ty hoàn toàn yên tâm.
- Công ty tận dụng được sự quan tâm, giúp đỡ của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Thương mại,… Để tạo thuận lợi cho cỏc doanh nghiệp, khuyến khớch xuất khẩu, Chớnh phủ đó quyết định để cỏc doanh nghiệp mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo hưởng lói suất vay vốn 0% trong 6 thỏng,thưởng 180 đ/USD từ xuất khẩu gạo, khoanh gión nợ cũ, tiếp tục vay mới; đàm phỏn với cỏc nước bạn được nhiều hợp đồng cấp Chớnh phủ với số lượng lớn, giỏ tốt từng thời điểm.
Cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu khác, việc hỗ trợ từ phía chính phủ luôn là những điều kiện đặc biệt quan trọng để công ty tăng cường khả năng kinh doanh trên thương trường quốc tế. Trong thời gian qua ngoài việc đảm bảo ổn định tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, ổn định lạm phát, … Chính phủ cũng đã có rất nhiều biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nói chung và IMEXTRACO nói riêng như: Tiến hành ký kết xuất khẩu gạo với nước bạn thông qua nhiều phương thức, hỗ trợ cho doanh nghiệp trong các khâu thu mua, tạo nguồn vốn…
- Indonesia là một thị trường khá ổn định. Lượng gạo tiêu thụ của công ty tại thị trường này tăng đều hàng năm. Công ty luôn có mối quan hệ tốt các công ty bạn của Indonesia. ĐIều nay được thể hiện ở khối lượng gạo xuất khẩu của công ty sang Indonesia qua những năm vừa qua: Năm 2000 công ty chính thức ký kết hợp đồng xuất khẩu gạo với công ty Amada công ty Green Would và một số công ty khác. Ngay trong năm đầu tiên 2000 công ty đã xuất sang thị trường Indonesia 12.000 tấn, và tăng lên 21.500 tấn vào năm 2001, 52.250 tấn năm 2002, tính đến tháng 10 năm 2003 công ty đã xuất sang thị trường Indonesia được 55.000 tấn.
2. Khó khăn:
- Tại thị trường gạo thế giới nói chung và thị trường gạo Indonesia nói riêng, sản phẩm gạo xuất khẩu của công ty còn gặp nhiều khó khăn do còn kém sức cạnh tranh so với sản phẩm gạo của một số công ty xuất khẩu gạo Thái Lan.
Các nước cạnh tranh chính trong thị trường gạo thế giới bao gồm Thái Lan, ấn độ, Việt Nam, Mỹ, …Hiện nay công ty đang đứng trước rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường gạo ở Indonesia, nổi bật nhất là các công ty của Thái Lan và ấn độ. Hiện tại các công ty của Thái Lan có rất nhiều ưu thế trong việc cạnh tranh mặt hàng gạo, đó là họ có được sự quan tâm rất lớn của các cấp Chính phủ, gao Thái Lan có chất lượng rất cao mà giá thành lại rẻ. Hơn nữa Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lâu đời và 23 năm liền đứng đầu thế giới, do đó họ là một nhà cung cấp uy tín và có rất nhiều kinh nghiệm trong xuất khẩu gạo.
Chớnh phủ Thỏi Lan đó cú Chương trỡnh can thiệp giỏ gạo cựng nhiều chớnh sỏch hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cụ thể: nước này đó hoàn thành việc đàm phỏn xuất sang Indonesia 500.000 tấn gạo 15% tấm giao trong năm 2002-2003 với giỏ 198 USD/tấn. Trong đú, cú 200.000 tấn xuất theo phương thức mậu dịch đối lưu (đổi lấy toa tàu hỏa chở hàng, amoniac...) và 300.000 tấn xuất theo phương thức cấp tớn dụng 2 năm. Ngoài ra, Chớnh phủ nước này cũn cú chương trỡnh hỗ trợ cho vụ mựa thứ hai kộo dài đến cuối thỏng 9/2002 để mua thờm 400.000 tấn thúc từ 28 tỉnh trồng lỳa. Tớnh đến thời điểm này, Thỏi Lan đó xuất khẩu được khoảng 3,3 triệu tấn gạo (giảm nhẹ so với cựng kỳ năm ngoỏi). Theo dự kiến, nóm nay quốc gia đứng đầu về xuất khẩu gạo này sẽ xuất khoảng trờn 7 triệu tấn.
Trước sự hỗ trợ của Chớnh phủ Thỏi Lan, nhiều người đang tỏ ra lo ngại cú thể gõy khú khăn cho cỏc doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, nhất là ở khõu thị trường.
Tuy nhiên trong năm 2003 này Thái Lan phải cạnh tranh quyết liệt hơn, do lượng dự trữ gạo dư thừa lớn ở cỏc nước cạnh tranh chủ chốt đang kỡm hóm giỏ gạo.
Thị phần gạo Thỏi trờn nhiều thị trường ở Đụng Nam ỏ đang cú nguy cơ bị thu hẹp vỡ gạo xuất khẩu giỏ rẻ hơn của Trung Quốc và ấn Độ. Ngoài ra, dự trữ gạo dư thừa lớn cũng như tiền trợ cấp cho nụng dõn cao ở Mỹ cũng sẽ cản trở giỏ gạo tăng lờn.
Sự cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới nói chung và thị trường gạo Indonesia nói riêng đang diễn ra gay gắt, buộc công ty phải có một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình như: Nâng cao chất lượng, giảm giá thành… và dẫn tới phải đầu tư tường đối lớn tới các khâu như: bảo quản, chế biến… trong khi tình hình nguồn vốn của công ty khá hạn hẹp. Với số vốn được công ty cấp ban đầu công ty gặp rất nhiều khó khăn trong các hoạt động kinh tế khi mà các hoạt động đó đều cần tới nguồn vốn lớn. Trong khi đó, các hoat động thu mua của bạn hàng thường có xu hướng theo phương thức trả chậm.
- Hoạt động xuất gạo của công ty tại thị trường Indonesia còn mang tính từng chuyến, từng đợt. Công ty chưa tổ chức được mạng lưới thông tin tốt để có thể thu thập được những thông tin chân thực, đầy đủ do đó đẫn đến việc phán đoán diễn biến của thị trường giá cả chưa chính xác, còn nhiều hạn chế. Các thông tin diễn biến của cung cầu gạo trên thị trường Indonesia chưa được công ty nắm bắt kịp thời để từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao. Điều này được thể hiện rõ trong việc đấu thầu gạo của công ty Amada tháng 10/2002, đây là thời điểm Indonesia gặp rất nhiều khó khăn về lương thực do hạn hán và Elino. Vấn đề gạo trở nên rất cấp bách đối với người dân Indonesia. Khi đó công ty Amada dưới sự quản lý của cơ quan hậu cần Indonesia ( Bulogl) đã cần nhập gấp khoảng 70.000 tấn gạo từ các công ty xuất khẩu gạo của Thái Lan, Việt Nam và ấn độ. Do không nắm được thông tin này kịp thời nên công ty IMEXTRACO không thể có hàng giao ngay cho Amada với số lượng lớn, vì thế nên hợp đồng giữa IMEXTRACO và Amada chỉ dừng lại ở con số 11.000 tấn. Đây cũng là một khó khăn lớn của công ty khi hoạt động kinh doanh trong thị trường Indonesia.
- Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn chênh lệch so với đối tác nước ngoài. Đội ngũ cán bộ Công ty IMEXTRACO mặc dù đã được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản, khoa học nhưng do kinh nghiệm thực tế còn thiếu và phương tiện làm việc không đầy đủ đã cản trở họ trong việc giao dịch, kí kết hợp đồng với các đối tác Indonesia. Do công ty mới đi vào hoạt động, nên đa số các cán bộ của công ty còn trẻ, kinh nghiệm trong các hoạt động kinh doanh nhập khẩu không nhiều, ngoại trừ một số cán bộ chủ chốt. Chính điều này đôi khi làm giảm sự tín nhiệm của đối tác đối với công ty. Tuy nhiên đây cũng là một điều tất yếu mà công ty phải chấp nhận với hy vọng rằng trong tương lai, với sự phát triển không ngừng của công ty,đội ngũ cán bộ của công ty sẽ trưởng thành về mọi mặt.
- Khả năng về vốn của công ty còn nhiều hạn hẹp. Đứng trước một thị trường gạo đầy tiềm năng như Indonesia, công ty hoàn toàn có thể tận dụng được những ưu thế vốn có để từng bước xâm nhập và phát triển. Tuy nhiên qua thực tế ở một số năm vừa qua cho thấy công ty chưa thể phát huy hết được tiềm năng của thị trường Indonesia. Điều này được thể hiện ở các hợp đồng của công ty với bạn hàng còn mang tính nhỏ lẻ, chưa có những hợp đồng làm ăn lớn. Phần lớn các hợp đồng của công ty còn mang tính từng chuyến, tức là khi đã ký kết với bạn hàng công ty mới tiến hành thu mua đầu vào, chứ không có các hoạt động thu mua sẵn, tích trữ nguồn hàng. Chính vì thế nên công ty gặp rất nhiều khó khăn khi đứng trước các hợp đồng yêu cầu giao hàng ngay.
3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất khẩu gạo của công ty sang thị trường Indonesia :
- Yếu tố thời tiết:
Trong thời gian qua, do các nước trên thế giới chưa có những chú trọng thích đáng đến vấn đề môi trường nên thời tiết và khí hậu trên thế giới có rất nhiều chuyển biến tiêu cực. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề kinh doanh xuất khẩu gạo của công ty_ một mặt hàng có sự phụ thuộc rất lớn đến yếu tố thời tiết. Điều này thể hiện rõ ở các khu vực miền Trung, nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng của các đợt hạn hán và lũ lụt và dẫn đến khâu thu mua đầu vào của công ty gặp nhiều khó khăn.Do đó công ty cần phảI nắm vững được các sự biến đổi của khí hậu và thời tiêt để có kế hoạch chuẩn bị kịp thời cho các hợp đồng với đối tác. Ngoài ra công ty cũng phải chú trọng tới yếu tố thời tiết tại các nước nhập khẩu. Khi họ phải chịu ảnh hưởng bất thường của các đợt hạn hán, lũ lụt… cũng sẽ dẫn tới sự tăng nhu cầu nhập khẩu gạo.
- Vấn đề quốc tế trong các đối tác kinh doanh của công ty:
Do bạn hàng của công ty là các công ty thuộc nhiều nước khác nhau trên thế giới nên viêc quan hệ làm ăn của công ty với họ gặp rất nhiều khó khăn. Tại Indonesia, đại đa số người dân theo đạo hồi, họ là những ngưòi rất sùng đạo, vì thế yêu cầu công ty phải nắm vững được tâm lý của đối tác, nếu không sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khâu đàm phán và ký kết hợp đồng.
Qua thực tế khi kinh doanh với một số công ty của Indonesia cho thấy họ là những người có tinh thần dân tộc rất cao, không chỉ trong cuộc sống hàng ngày mà ngay trong cả các công việc làm ăn. Đối với người dân Indonesia thì tinh thần dân tộc, tinh thần tôn giáo luôn được đặt lên vị trí hàng đầu. Nắm bắt được điều này, ban giám đốc công ty ngoài việc luôn khuyến khích các cán bộ của công ty tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh còn luôn đề cao việc tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề về tôn giáo. Đây là một điều khá quan trọng và đôi khi là điểm mạnh mà công ty có được. Trong các kỳ tham gia đấu thầu, đàm phán ký kết hợp đồng, việc am hiểu và phong tục tập quán của người dân Indonesia đã đem lại cho công ty một số hợp đồng mang tính chất quyết định. Theo nhận xét của ban lãnh đạo công ty thì vấn đề này chưa được công ty tận dụng một cách triệt để, đó là do thời gian hoạt động của công ty chưa lâu, đội ngũ cán bộ còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm và đôi khi dẫn tới tình trạng không hiểu được tâm lý đối tác.
- Yếu tố cạnh tranh trong thương trường quốc tế:
Hiện nay công ty đang gặp rất nhiều khó khăn trong khâu cạnh tranh, không chỉ phải cạnh tranh với các công ty trong nước mà công ty còn phải cạnh tranh với rất nhiều công ty nước ngoài trên thị trường Indonesia . Điều này bắt buộc công ty phải có những sự đầu tư thích hợp. Ngoài ra khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam còn yếu. Đặc biệt là trong sự cạnh tranh với gạo của Thái Lan. Họ có rất nhiều loại gạo có phẩm chất hơn hẳn gạo của Việt Nam mà giá thành lại rẻ hơn. Đây là một khó khăn rất lớn của công ty, bởi vì nó không nằm trong khả năng của công ty mà nó là tình hình chung của cả nước. Để giải quyết được vấn đề này không chỉ co sự nỗ lực của công ty trong các khâu chế biến, bảo quản mà còn cần tới sự giúp đỡ to lớn từ phía bà con nông dân, và sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ trong các khâu chọn giống, cải tiến công nghệ…
Hiện tại không chỉ riêng công ty mà ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đều đang gặp khó khăn do lượng gạo tồn kho của Thái Lan đang rất cao lên tới mức kỷ lục 4,08 triệu tấn. Để đẩy mạnh tiờu thụ gạo tồn kho, Chớnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50040.DOC