LỜI MỞ ĐẦU 1
I.Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc 2
1.Về phía Trung Quốc 2
2.Về phía Việt Nam 2
II.Tình hình thực tế mối quan hệ kinh tế Việt Nam-Trung Quốc 3
1.Những thành tựu đã đạt được 3
2.Những hạn chế còn tồn tại 5
III.Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc trong tương lai 6
KẾT LUẬN 9
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
MỤC LỤC 11
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2607 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích, đánh giá mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng, quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa và thương mại giữa hai nước đã hình thành từ xa xưa trong lịch sử. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn hóa và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững. Sau khi bình thường hóa quan hệ vào cuối năm 1991, quan hệ giữa hai nước nói chung và thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh
Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cả Trung Quốc và Việt Nam đều đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, quan hệ kinh tế thương mại hai nước Việt Nam – Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện nhưng vẫn cần được cũng cố và phát triển lên một bước mới. Xuất phát từ thực tế đó, em xin chọn đề tài “Phân tích, đánh giá mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc” để nghiên cứu.
I.Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc.
Theo học thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricardo thì một nước chỉ nên tập trung vào những gì mà mình có lợi thế, dùng nó để trao đổi những gì mà nếu mình tự làm thì hiệu quả sẽ không cao. Áp dụng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, ta có thể rút ra lợi thế so sánh như sau:
1.Về phía Trung Quốc:
Trung Quốc là nước lớn, đông dân, có tiềm lực kinh tế mạnh và có kinh nghiệm hơn trong hoạt động ngoại thương với nhiều nước trên thế giới. Hơn nữa, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh mạnh do có ưu thế về số lượng, chủng loại và có giá thành thấp hơn của Việt Nam vì các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư khoa học kỹ thuật hỗ trợ sản xuất. Hiện nay, Trung Quốc đã vươn lên là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về tổng kim ngạch buôn bán.
Về công nghiệp nhẹ, Trung Quốc là một nước có truyền thống và có lực lượng lao động lớn, nhân công rẻ, có kinh nghiệm sản xuất ra các mặt hàng có giá thành thấp, chất lượng tốt, Trung Quốc có tiềm năng phát triển công nghiệp do tiếp thu được công nghệ tiên tiến thể hiện ở hàng điện tử và hàng tiêu dùng. Trung Quốc có lợi thế về nhiều mặt so sánh đối với hàng hóa nước ta.
2.Về phía Việt Nam:
Hội nhập mở cửa với nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ còn gặp nhiều khó khăn, từ điểm xuất phát thấp, thực hiện đường lối chính sách đổi mới, mở cửa thị trường, nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. Các hàng may mặc, giầy da quy có điều kiện cạnh tranh với hàng hóa thế giới cũng như hàng hóa Trung Quốc, nhưng chi phí còn cao nên hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Thêm vào đó, Việt Nam còn phải xuất khẩu những mặt hàng thô và nhập khẩu những mặt hàng đã qua chế biến như xăng, phân bón, thiết bị máy móc…
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có những mặt hàng có lợi thế so sánh do thiên nhiên ưu đãi như gạo, cao su, cà phê, hạt điều…nên hàng năm Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu từ Việt Nam những mặt hàng này.
Nước ta sẽ dựa vào nguồn nhân công rẻ, tay nghề cao, cần cù nên có điều kiện cạnh tranh thuận lợi và là ưu thế. Ngoài ra, Việt Nam còn có ưu thế là nguồn nguyên liệu phong phú và đa dạng, chính trị, an ninh ổn định và gần đây Việt Nam đã có những chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
II.Tình hình thực tế mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc.
1.Những thành thự đã đạt được.
Sau khi bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc là nông sản và một vài loại khoáng sản. Các sản phẩm xuất khẩu nói chung là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, hàng công nghiệp và chế biến chiếm 1 tỷ lệ nhỏ. Trung Quốc nhập khẩu các loại nguyên liệu thô của Việt Nam phục vụ cho ngành sản xuất, chế biến trong nước. Sử dụng được giá lao động rẻ, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động và sản xuất thành phẩm xuất khẩu với hiệu quả khá cao. Cơ cấu mặt hàng trao đổ buôn bán giữa hai nước rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là buôn bán qua đường nhập khẩu chính thức và buôn bán tiểu ngạch qua biên giới theo đường chính thức hoặc không chính thức.
Đối với Việt Nam, trong khi các cán cân buôn bán chính ngạch luôn nhập siêu thì cán cân buôn bán tiểu ngạch lại xuất siêu. Phía Trung Quốc có một chính sách nhất quán và mềm dẻo khuyến khích buôn bán qua biên giới với biện pháp chủ yếu là đánh thuế hàng nhập khẩu thấp hơn so với đường chính ngạch. Ngược lại, Chính phủ Việt Nam lại thực hiện chính sách buôn bán chính ngạch và hạn chế buôn bán tiểu ngạch. Hoạt động buôn bán tiểu ngạch bị kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều ngành khác nhau.
Cho đến nay, cơ cấu hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã có những biến chuyển nhất định. Tỷ lệ hàng nguyên liệu đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng đã tăng lên. Một số mặt hàng như cao su, dầu thô, hải sản, hàng rau quả, hạt điều, may mặc, giầy dép, than đá vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong xuất khẩu của hai nước. Trung Quốc là khách hàng số một về xuất khẩu cao su của Việt Nam, đứng thứ hai về than đá và là nhà tiêu thụ thủy sản thứ tư sau Nhật Bản, Hồng Kông và Mỹ. Còn hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam là sắt thép, nông nghiệp cơ khím thiết bị vật dụng y tế, phương tiện vận tải, dược liệu, hàng tiêu dùng công nghệ.
Một vấn đề cũng đáng lưu ý là hàng qua đường tiểu ngạch chủ yếu là hàng công nghiệp tiêu dùng như xe đạp, phụ tùng, đồ điện, điện tử, quần áo may mặc… do giá thành thấp lại được hưởng những ưu đãi xuất khẩu của Trung Quốc nên các loại hàng này có sức cạnh tranh rất mạnh trên thị trường Việt Nam gây ra nhiều tác động đến hàng sản xuất trong nước.
Nói chung các mặt hàng mà phía Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam trong những năm qua kể cả tiểu ngạch và chính ngạch rất phong phú và đa dạng, có đến trên 200 nhóm hàng và mặt hàng cụ thể, gấp đôi số mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Mặc dù có những ảnh hưởng tiêu cực, nhưng sức ép mà hàng Trung Quốc cũng có ảnh hưởng tích cự đến thị trường Việt Nam. Đó là sự vươn lên lớn mạnh và trưởng thành của một số ngành trong thị trường Việt Nam như dệt may, da giầy, xe đạp, bóng đèn, phích nước…
2.Những hạn chế còn tồn tại.
a.Quan hệ ngoại thương giữa hai nước còn chưa tương xứng với tiềm năng mỗi nước.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc chỉ chiếm 5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và chỉ bằng 0,4% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc.
Là hai nước láng giềng, có truyền thống trao đổi buôn bán từ lâu đời, nhưng Việt Nam mới chỉ là nước xuất khẩu thứ 29 trong tổng số 220 nước xuất khẩu sang Trung Quốc. Còn Trung Quốc cũng chỉ là nước xuất khẩu lớn thứ 6 vào Việt Nam.
b.Nạn hàng giả, hàng kém chất lượng và buôn lậu qua biên giới hai nước trở nên rất phổ biến.
Trốn lậu thuế là hiện tượng phổ biến trong xuất nhập khẩu tiểu ngạch, dẫn đến thất thu cho nhà nước mỗi năm hàng tỷ đồng. Trốn lậu thuế được thực hiện thông qua các thủ đoạn như nhập nhiều khai ít, nhập những hàng có mức thuế cao như xe đạp (75%) thành những hàng có mức thuế thấp như đồ chơi trẻ em (10%), vật liệu xây dựng (18%)…
Gian lận thương mại chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ đã khiến cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam tìm cách xuất khẩu những mặt hàng bị cấm, mặt hàng quý hiếm gây xáo trộn thị trường, mất lòng tin, ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích quốc gia. Bên cạnh đó, không thể không kể đến, nạn hàng kém chất lượng, độc hại của Trung Quốc tràn lan trong thị trường Việt Nam hiện nay, gây bức xúc trong dư luận như hoa quả sử dụng hóa chất bảo quản độc hại, trứng gà giả…
c.Quản lý xuất nhập khẩu của cả hai nước, đặc biệt là Việt Nam còn nhiều yếu kém.
-Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa đầy đủ và hợp lý.
-Quản lý cửa khẩu, hoạt động hải quan còn nhiều khó khăn và tiêu cực.
-Gian lận thương mại diễn ra ở nhiều nơi trên dọc tuyến biên giới.
d.Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hóa và của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế.
Lượng hàng hóa Việt Nam xuất sang Trung Quốc còn nhỏ bé, thậm chí có mặt hàng cung không đủ cầu.
Một số mặt hàng từng được độc chiếm thị trường Trung Quốc nay đang phải cạnh tranh với một số đối thủ đáng gờm mới xuất hiện như hạt điều của Ấn Độ.
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu cụ thể theo mặt hàng, theo thị trường Trung Quốc.
Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, từ đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp thiếu hiểu biết cụ thể về thị hiếu người tiêu dùng, về thị trương và về các doanh nghiệp của Trung Quốc.
III.Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc trong tương lai.
Mặc dù còn nhiều tồn tại nhưng mối quan hệ kinh tế giữa hai nước đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đặc biệt trong cuộc cạnh tranh với hàng Trung Quốc, nhiều sản phẩm của Việt Nam đã được nâng cao về chất lượng, cải tiến về mẫu mã và đã có những thị phần nhất định ở Trung Quốc. Nhiều hàng hóa trước đây chưa có thị trường xuất khẩu thì nay đã xuất được sang Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam đã trưởng thành qua buôn bán với các doanh nghiệp Trung Quốc. Tình hình này cho thấy triển vọng quan hệ kinh tế giữa hai nước trong thời gian tới sẽ rất khả quan, nhiều hứa hẹn và sẽ phát triển ngày càng mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực hơn.
Việt Nam có tiềm năng khí hậu, tài nguyên đất đai và kỹ năng lao động của con người ngày càng được nâng cao, sẽ thay đổ tình trạng xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu bằng các nguyên liệu thô như hiện nay như: cao su, chè, cà phê, hải sản, than đá, dầu thô và sẽ tăng cường xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến vớ trình độ công nghệ ngày càng hiện đại hơn và chất lượng cao hơn. Khả năng đó thể hiện ợ ở một số mặt hàng truyền thống như nông lâm hải sản, than đá, dầu thô…và các mặt hàng mới trỗi dậy như may mặc, giầy da, xà phòng, bánh kẹo…Theo dự đoán của các chuyên gia thương mại, đến năm 2010, hàng năm Việt Nam sẽ xuất khẩu chừng 4 triệu tấn gạo, trong đó khoảng 7% xuất sang thị trường Trung Quốc. Mỗi năm Trung Quốc cần đến 500 ngàn tấn cao su thiên nhiên mà Việt Nam có thể xuất khẩu 200 ngàn tấn, trong đó 50% là xuất sang Trung Quốc.
Các mặt hàng đặc sản nhiệt đới khác như hạt điều, cà phê… là thế mạnh của Việt Nam cũng là những mặt hàng mà Trung Quốc có nhu cầu lớn. Với sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hạt điều lớn thứ 3 thế giới sau Ấn Độ và Braxin, trong năm 2005 Việt Nam đã xuất khẩu 80 ngàn tấn với kim ngạch 400 triệu USD và mục tiêu năm 2010 đạt 120 ngàn tấn với kim ngạch 600 triệu USD, trong đó sẽ xuất sang Trung Quốc 70 ngàn tấn tương đương với giá trị 400 triệu USD. Theo một nghiên cứu gần đây dự báo nhu cầu chất uống của người dân Trung Quốc có xu hướng chuyển sang dùng nhiều cà phê, do đó cà phê có thể sẽ là một mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh mẽ hơn với 80 ngàn tấn vào năm 2010 chiếm 10% tổng xuất khẩu cả nước về mặt hàng này. Việt Nam cũng sẽ xuất sang Trung Quốc một sản lượng dầu và than đá trị giá 10% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 400USD vào năm 2010.
Về nhập khẩu, các cơ quan ngành thương mại Việt Nam đã hướng dẫn ưu tiên nhập khẩu có chọn lọc trang thiết bị máy móc các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, sản xuất chưa đủ cho nhu cầu hoặc nhập khẩu thì có hiệu quả hơn như vật liệu xây dựng, hóa chất, phôi thép, chất dẻo, linh kiện điện tử, dược liệu, vải vóc…
Bên cạnh đó Việt Nam - Trung Quốc cần xây dựng chiến lược giao lưu và hợp tác kinh tế lâu dài, ổn định, tích cực có biện pháp mở rộng thị trường buôn bán trao đổi hàng hóa sâu vào nội địa đẩy mạnh hợp tác du lịch và vận tải hàng hóa, hành khách quá cảnh củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng. Mặt khác, hai bên thiết lập trật tự thưc hiện một cách có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tệ nạn xã hội, nhất là buôn lậu, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội để cùng phát triển.
KẾT LUẬN
Quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Quốc có cơ sở vững chắc phù hợp với lợi ích trước mắt và lâu dài của nhân dân hai nước. Đó là nguyên nhân căn bản dẫn tới thành tựu và cũng là nhân tố chính đảm bảo cho sự phát triển của quan hệ kinh tế giữa hai nước trong thời gian tới. Chúng ta không những có them những kinh nghiệm trong việc phát triển giao lưu và hợp tác kinh tế mà còn đã xac định được nguyên tắc và cụ thể hóa những nguyên tắc đó để phát triển quan hệ giữa hai nước trong tương lai. Bối cảnh thế giới trong thời kỳ hội nhập có rất nhiều biến động, nó đòi hỏi Việt Nam – Trung Quốc thắt chặt hơn nữa tình cảm hữu nghị và quan hệ hợp tác giữa hai nước. Đó là nhân tố thuận lợi căn bản để quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển lên những bước tiến mới.
Mặt khác, chúng ta cũng cần thấy rõ những vấn đề tồn tại hiện nay để tìm cho ra cách giải quyết thỏa đáng khắc phục những chướng ngại, bảo đảm cho quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc tiếp tục phát triển tốt đẹp. Trong thời gian tới, hai nước sẽ cố gắng làm hết sức mình với những biện pháp cụ thể để phát triển hơn nữa quan hệ thương mại giữa hai nước.
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế; Nxb CAND; 2008
2.Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội; Giáo trình kinh tế quốc tế; Nxb Đại học kinh tế quốc dân; 2008
3.Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc: Nhìn lại 10 năm và triển vọng; Nxb Khoa học xã hội; 2002
4.Website của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc:
5.
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
I.Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc
2
1.Về phía Trung Quốc
2
2.Về phía Việt Nam
2
II.Tình hình thực tế mối quan hệ kinh tế Việt Nam-Trung Quốc
3
1.Những thành tựu đã đạt được
3
2.Những hạn chế còn tồn tại
5
III.Triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc trong tương lai
6
KẾT LUẬN
9
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
MỤC LỤC
11
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích, đánh giá mối quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc.doc