- Hiện nay, đối tượng chính được Ngân hàng cho vay vốn là các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân hàng cần tiếp tục đầu tư cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả đồng thời giúp các doanh nghiệp tạm thời khó khăn có điều kiện vươn lên sản xuất kinh doanh có lãi.
- Bám sát tình hình tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư theo đúng ngành nghề kinh doanh đã đăng ký.
- Nắm vững tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo này phải chính xác và được ngân hàng kiểm tra kỹ lưỡng, kể cả yêu cầu doanh nghiệp thực hiện kiểm toán theo quy định.
- Đối với các doanh nghiệp có tình hình tài chính khả quan, có hướng phát triển đúng đắn, có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, Ngân hàng cần đầu tư vốn và có thể mở rộng quy mô đầu tư vốn.
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Khu vực Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chính và khả năng trả nợ của khách hàng. Khách hàng phải có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu tư khả thi, thực hiện đầy đủ các quy định về bảo đảm tiền vay. Đây là những điều kiện cơ bản nhất để ngân hàng xem xét có nên cho khách hàng vay vốn hay không. Tuy nhiên, trên thực tế có một tỷ trọng khá lớn người đi vay không có đủ điều kiện để thực hiện các nguyên tắc tín dụng, đặc biệt là tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật. Thực trạng hiện nay nhiều khách hàng đi vay nhưng năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, sử dụng vốn không đúng mục đích, lấy vốn ngắn hạn để đầu tư trung dài hạn. Đối với doanh nghiệp nhà nước, khi vay không cần thế chấp tài sản chỉ cần có phương án sản xuất kinh doanh khả thi, chứng từ thương mại hợp lý. Chính vì lẽ đó nên đã phát sinh nhiều tiêu cực như lập hoá đơn chứng từ giả mạo, không đúng thực tế… để vay vốn ngân hàng nhằm phục vụ các mục đích bất chính khác.
1.3.3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tín dụng ngân hàng.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản của tín dụng là: cho vay có mục đích, hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn, khoản vay phải có bảo đảm thì định hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng còn phải dựa trên những nguyên tắc và biện pháp sau:
Nguyên tắc sàng lọc và giám sát.
Theo nguyên tắc sàng lọc, các ngân hàng sẽ lựa chọn ra các khách hàng có triển vọng nhất trong số các khách hàng, trên cơ sở nắm vững các thông tin về tình hình tài chính, tình hình chi trả, thanh toán qua các tài khoản của khách hàng, các thông tin về lĩnh vực hoạt động của khách hàng… Với nguyên tắc giám sát, ngân hàng phải theo dõi xem khoản vay có được sử dụng đúng mục đích xin vay không. Nếu sai thì phải đề ra các biện pháp uốn nắn việc sử dụng vốn của khách hàng. Trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng ngân hàng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng, thu hồi khoản cho vay trước thời hạn.
Chuyên môn hoá việc cho vay
Chuyên môn hoá việc cho vay là hình thức tổ chức phòng tín dụng thành các tổ, bộ phận chuyên môn phụ trách một ngành hay một lĩnh vực nào đó. Như thế các cán bộ tín dụng có điều kiện đi sâu, nắm bắt tình hình thực tế lĩnh vực chuyên môn của mình. Từ đó, khi phát sinh các quan hệ tín dụng, ngân hàng có cơ sở vững chắc để quyết định có thực hiện khoản cho vay hay không.
Quan hệ khách hàng lâu dài:
Đây là nguyên tắc vừa có lợi cho ngân hàng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Đối với Ngân hàng, qua việc theo dõi thu chi trên tài khoản khách hàng giúp cho Ngân hàng thu thập được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất về khách hàng mà lại không tốn quá nhiều chi phí tìm hiểu khách hàng. Đây là những khách hàng truyền thống thường xuyên có giao dịch với Ngân hàng nên Ngân hàng có điều kiện nắm được những thông tin chi tiết cần thiết, Vì vậy, Ngân hàng cần có những chính sách đặc biệt hơn các khách hàng khác như được hưởng những ưu đãi về lãi suất, về thời hạn về lượng vốn được vay,…Việc thiết lập quan hệ khách hàng lâu dài gắn bó với Ngân hàng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh tạo được sự chủ động trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Hạn chế tín dụng:
Khách hàng phải có vốn tự có tham gia vào dự án. Ngân hàng chỉ cho vay phần vốn lưu động thiếu của doanh nghiệp. Ngân hàng tránh tập trung quá lớn vốn vào hoạt động của một khách hàng. Đồng thời với khoản cho vay nhỏ khách hàng sẽ dễ dàng hoàn trả hơn. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc cho vay theo tiến độ dự án.
Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng công tác của cán bộ hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng.
Con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của tất cả các hoạt động, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Trình độ nghiệp vụ, kiến thức về pháp luật, về xã hội, về kinh tế ngành, về phân tích tài chính doanh nghiệp, khả năng thẩm định dự án, phân tích đánh giá hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh ,… kỹ năng tác nghiệp, tính nhạy bén, năng động của cán bộ tín dụng ngân hàng quyết định sự thành công của các NHTM trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng.
f. Tăng cường công tác kiểm tra trong hoạt động kinh doanh tín dụng.
Trong hoạt động tín dụng Ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc kiểm tra theo 3 bước: Kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay. Đặc biệt là hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ quan chuyên trách về kiểm tra của Ngân hàng có tác dụng quan trọng chấn chỉnh hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng đảm bảo hạn chế rủi ro, an toàn và hiệu quả.
Kinh doanh tín dụng Ngân hàng là hoạt động kinh doanh đặc biệt bởi thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng đáp ứng được nhu cầu tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, đảm bảo vốn để các doanh nghiệp và doanh nhân hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả. Mọi rủi ro của khách hàng vay vốn có tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nên kinh doanh tín dụng Ngân hàng có khả năng rủi ro cao nhất. Bởi vậy kinh doanh tín dụng Ngân hàng hoạt động có hiệu quả, tín dụng lành mạnh, góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương II
thực trạng hoạt động kinh doanh
tín dụng tạI chi nhánh nhct kv hai bà trưng
2.1. Khái quát chung về chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng
2.1.1. Quá trình hình thành và sự phát triển của Chi Nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng
CN NHCT KV Hai Bà Trưng là một chi nhánh của NHCT Việt Nam. Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBTngày 26/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy Ngân hàng nhà nước Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp, từ một chi nhánh Ngân hàng nhà nước cấp quận và một chi nhánh Ngân hàng kinh tế quận thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng, trực thuộc Ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội chuyển thành các chi nhánh NHCT khu vực I và II quận Hai Bà Trưng trực thuộc chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thuộc NHCT Việt Nam. Tại quyết định số 93/ NHCT- TCCB ngày 1/4/1993 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh NHCT KV I và II Hai Bà Trưng là những chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức, hạch toán kinh tế và hoạt động như các chi nhánh NHCT cấp tỉnh, thành phố. Kể từ ngày 1/9/1993, theo quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT KV I vào chi nhánh NHCT KV II Hai Bà Trưng. Như vậy, kể từ ngày 1/9/1993 trên địa bàn quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) chỉ còn duy nhất một chi nhánh NHCT.
Hiện nay, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã vượt qua những khó khăn ban đầu và đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh tiền tệ. Mặt khác, Ngân hàng còn thường xuyên tăng cường việc huy động vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện chiến lược đa dạng hoá các phương thức, hình thức giải pháp huy động vốn, đa dạng các hình thức kinh doanh và đầu tư, từ năm 1993 trở lại đây, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã thu được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, từng bước khẳng định mình trong môi trường kinh doanh mới đầy tính cạnh tranh.
CN NHCT KV Hai Bà Trưng là một trong những chi nhánh lớn được xếp doanh nghiệp nhà nước hạng I, kinh doanh liên tục có hiệu quả của NHCT Việt Nam. Có được vị thế và kết quả trên, bên cạnh những kinh nghiệm quý báu của lớp lớp cán bộ ngân hàng kế tiếp nhau với những khách hàng truyền thống qua hơn 45 năm hoạt động trên địa bàn khu vực quận Hai Bà Trưng- một quận lớn với những khu công nghiệp quan trọng phía đông nam thủ đô Hà Nội – là lợi thế và thị trường tốt để CN NHCT KV Hai Bà Trưng hoạt động kinh doanh có hiệu quả và phát triển.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của CN NHCT KV Hai Bà Trưng:
Là một chi nhánh chịu sự quản lý trực tiếp của NHCT Việt Nam, hiện nay CN NHCT KV Hai Bà Trưng có biên chế gồm hơn 300 cán bộ công nhân viên trong đó hơn 65% có trình độ cao đẳng , đại học. Bộ máy tổ chức NHCT Hai Bà Trưng bao gồm ban giám đốc, 8 phòng chức năng, 2 phòng giao dịch và 12 quỹ tiết kiệm được thể hiện qua sơ đồ sau:
BAN GIáM đốc
PhòngNguồn
Vốn
Phòng Kinh Doanh
Phòng Kinh DoanhĐối
Ngoại
Phòng
Kế Toán Tài Chính
PhòngNgân Quỹ
Phòng Kiểm
Tra
Phòng Thông Tin Điện Toán
Phòng Tổ Chức
Hành Chính
Phòng Giao Dịch Chợ Hôm
Phòng Giao Dịch Trương Định
12 quỹ tiết kiệm
Tổ Cân Đối Tổng Hợp
- Phòng nguồn vốn : là phòng có chức năng huy động vốn tiền gửi trong dân cư để làm nhiệm vụ cho vay phát triển kinh tế theo chủ trương của Nhà nước. Phòng nguồn vốn là nơi tập hợp quản lý phần lớn vốn của chi nhánh.
- Phòng kinh doanh: là một phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho giám đốc thực hiện công tác huy động vốn và sử dụng vốn trên cơ sở thể lệ, chế độ hiện hành đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và an toàn vốn, hạn chế rủi ro.
- Phòng kế toán tài chính : là phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho giám đốc trong việc thực hiện các nghiệp vụ kế toán, thanh toán; tổ chức công tác hạch toán kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Ngoài trụ sở chính tại 285 Trần Khát Chân, CN NHCT KV Hai Bà Trưng còn bố trí 12 quỹ tiết kiệm và một số địa điểm cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại các phường trên địa bàn quận nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn và sử dụng vốn trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.
2.1.3 Một số kết quả hoạt động kinh doanh của CN NHCT KV Hai Bà Trưng trong những năm vừa qua:
Cùng với sự phát triển nền kinh tế đất nước trong những năm vừa qua, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ- tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
* Quy mô hoạt động của CN NHCT KV Hai Bà Trưng có sự tăng trưởng đáng kể:
Về nguồn vốn huy động từ năm 1999 đến năm 2001 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 16% mỗi năm (số liệu 31/12): 1363 tỷ đồng (1999); 1579 tỷ đồng (2000); 1837 tỷ đồng (2001)
Về dư nợ cho vay hàng năm của CN NHCT KV Hai Bà Trưng không ngừng phát triển qua các năm: 413 tỷ đồng (1999), 602 tỷ đồng (2000) và 824 tỷ đồng (2001), tốc độ tăng trưởng bình quân 41,3%
* Phương thức huy động và sử dụng vốn của CN NHCT KV Hai Bà Trưng cũng có sự chuyển biến rõ rệt: từ chỗ huy động và cho vay chủ yếu bằng VND đã phát triển sang hoạt động cho vay bằng các ngoại tệ khác, chủ yếu là USD. Các nghiệp vụ được mở rộng như thanh toán quốc tế, kiều hối, kinh doanh ngoại tệ… phục vụ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
* CN NHCT KV Hai Bà Trưng cũng hết sức coi trọng việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin vào hoạt động của ngân hàng đảm bảo độ an toàn cao, tốc độ nhanh và giữ được tín nhiệm đối với các khách hàng truyền thống cũng như tạo ấn tượng tốt đối với các khách hàng mới.
* Trong điều kiện phát triển không ngừng của toàn bộ xã hội nói chung, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đặc biệt chú ý tới việc phát triển nguồn nhân lực . Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ luôn được chú trọng nhằm nâng cao năng lực về chuyên môn cũng như trình độ nhận thức lý luận của cán bộ ngân hàng để đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ và yêu cầu của kinh doanh tiền tệ, tín dụng trong thời kỳ mới.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là tất yếu khách quan. Để tồn tại và phát triển, Ban lãnh đạo CN NHCT KV Hai Bà Trưng rất chú trọng tới công tác hạch toán kinh doanh, đa dạng hoá các sản phẩm ngân hàng, phát huy những lợi thế của mình, có chính sách khách hàng hợp lý, thích ứng và linh hoạt… Đặc biệt là hai nghiệp vụ quan trọng có tính quyết định đến quy mô hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn.
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng tại NHCT KV Hai Bà Trưng
2.2.1. Tình hình huy động vốn tại NHCT KV Hai Bà Trưng
Đối với hoạt động kinh doanh của một ngân hàng thương mại, nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bởi vậy CN NHCT KV Hai Bà Trưng rất quan tâm tới tăng trưởng nguồn vốn. Với phương châm “đi vay để cho vay”, CN NHCT KV Hai Bà Trưng trong những năm qua đã phát triển nhiều hình thức huy động vốn, đạt mức tăng trưởng nguồn vốn khá cao tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Biểu thống kê sau đây phản ánh rõ quy mô và tốc độ huy động vốn của CN NHCT KV Hai Bà Trưng:
Bảng 1: nguồn vốn huy động tạI chi nhánh nhct
kv hai bà trưng
(1999- 2001)
Đơn vị: tỷ vnd
Chỉ tiêu
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
2000
so với
1999
2001
so với
2000
Số tiền
Tỉ trọng(%)
Số tiền
Tỉ trọng(%)
Số tiền
Tỉ trọng(%)
1.Tiền gửi các tổ chức kinh tế
397
29,1
527
33,4
643
35
+130
+116
2.Tiền gửi tiết kiệm
960
70,4
1052
66,6
1152
63
+92
+100
3.Tiền gửi kỳ phiếu
6
0,5
_
_
42
2
_
_
Tổng nguồn vốn huy động
1363
100
1579
100
1837
100
216
258
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 1999-2001
Quan sát số liệu bảng 1, ta thấy từ năm 1999 đến năm 2001 tổng nguồn vốn qua các năm tăng: 1363 tỷ đồng (1999); 1579 tỷ đồng (2000) và 1837 tỷ đồng (2001) . Trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng liên tục: 397 tỷ đồng (1999); 527 tỷ đồng (2000) tăng 130 tỷ đồng . Năm 2001 tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 643 tỷ đồng, tăng 116 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2000. đây là nguồn vốn có lãi bình quân thấp mang lại hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn khả năng rủi ro trong thanh toán nếu Ngân hàng không chủ động bố trí nguồn vốn thanh khoản kịp thời. Chiếm tỷ trọng cao nhất trong nguồn vốn huy động là nguồn tiền gửi tiết kiệm: 960 tỷ đồng (1999) chiếm 70,4% tỷ trọng nguồn vốn huy động; năm 2000: 1052 tỷ đồng, tăng 92 tỷ so với cùng kỳ năm 1999 và chiếm tỷ trọng 66,6% trên tổng nguồn vốn huy động; Năm 2001 đạt 1152 tỷ đồng, tăng 100 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 63%. Ngoài hai hình thức huy động vốn nói trên, CN NHCT KV Hai Bà Trưng còn huy động vốn thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu theo quyết định của NHCT Việt Nam. Năm 2000 CN NHCT KV Hai Bà Trưng không được giao nhiệm vụ huy động vốn theo kênh phát hành kỳ phiếu. Kết quả trên cho thấy khả năng huy động vốn của ngân hàng tăng lên một cách đáng kể qua từng năm, điều đó đã phản ánh được việc thực hiện và áp dụng các chính sách tại ngân hàng đã đạt hiệu quả cao và chứng tỏ rằng ngân hàng ngày càng có uy tín hơn và đang mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của mình trên thị trường.
Mỗi hình thức huy động vốn có ý nghĩa và vị trí trong tổng nguồn vốn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại vì vậy các hình thức huy động vốn cần được nghiên cứu để giúp các giám đốc Ngân hàng thương mại ra quyết định chính xác góp phần điều hành kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, giảm chi phí đến mức hợp lý. Việc phân tích sự biến động của các hình thức tiền gửi tại CN NHCT KV Hai Bà Trưng giúp chúng ta thấy rõ hơn tình hình huy động vốn tại ngân hàng.
Bảng 2: Nguồn vốn huy động phân theo kỳ hạn tại
chi nhánh NHCT kv Hai Bà Trưng
(1999 – 2001)
Đơn vị: Tỷ VND
Chỉ tiêu
Năm1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
So với 1999 (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
So với 2000
(%)
Tổng nguồn vốn huy động
1363
100
1579
100
+15,8
1837
100
+16,3
1.Tiền gửi không kỳ hạn
- DN, tổ chức kinh tế
- Dân cư
290
255
35
21,2
18,7
2,5
371
351
20
23,5
22,2
1,3
+27,9
+37,6
-42,8
452
414
38
24,6
22,5
2,1
+42,5
+17,9
+90
2. Tiền gửi có kỳ hạn
-DN, tổ chức kinh tế
-Dân cư
1073
127
946
78,8
9,4
69,4
1208
174
1034
76,5
11,1
65,4
+12,5
+37
+9,3
1385
262
1123
75,3
14,2
61,1
+14,6
+50,5
+8,6
Qua bảng thống kê trên, ta thấy nguồn vốn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn là chủ yếu và ngày càng tăng cụ thể là: 1073 tỷ đồng (1999), 1208 tỷ đồng (2000) và 1385 tỷ đồng (2001) trong đó phần lớn là vốn huy động trong dân cư. Nhờ tăng trưởng hình thức huy động vốn có kỳ hạn (3 tháng, 6 tháng, 12 tháng) với lãi suất hợp lý và hấp dẫn nên lượng tiền gửi có kỳ hạn tăng đáng kể. Nguồn vốn huy động tiền gửi không kỳ hạn tăng không đáng kể và vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn do lãi sất của loại hình tiền gửi này thấp. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu là tiền gửi đảm bảo thanh toán của các tổ chức kinh tế đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của các doanh nghiệp.
Nhìn chung công tác huy động vốn của CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã đạt được chững kết quả nhất định, nguồn vốn liên tục ổn định và tăng trưởng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đang giao dịch tại ngân hàng, góp phần vào nguồn vốn chung của NHCT Việt Nam và tạo tiền đề cho việc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới.
2.2.2 Tình hình sử dụng vốn của CN NHCT KV Hai Bà Trưng:
Song song với công tác huy động vốn, việc đầu tư tín dụng giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh của CN NHCT KV Hai Bà Trưng.Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng tiến hành phân phối và sử dụng nguồn vốn đó. Đối tượng cho vay của ngân hàng là các đơn vị kinh tế nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn… Để nắm bắt tình hình sử dụng vốn của CN NHCT KV Hai Bà Trưng, chúng ta sẽ tiến hành phân tích cụ thể tình hình hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng qua bảng số liệu sau:
Qua số liệu bảng 3 cho thấy CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã tập trung nâng cao chất lượng, đầu tư cho các doanh nghiệp lớn kinh doanh an toàn có hiệu quả đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Tổng dư nợ đến (31/12): 413 tỷ đồng (1999), 602 tỷ đồng (2000) và 824 tỷ đồng (2001).
+ Dư nợ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là chủ yếu: 372 tỷ đồng (năm1999) chiếm 90,1%tổng dư nợ; tính đến 31/12/2000 dư nợ thực hiện đạt 553 tỷ đồng chiếm 91,7% trong tổng dư nợ, tăng 48,7% so với cùng kỳ năm 1999. Năm 2001 đạt 780 tỷ đồng, tăng 415 tỷ đồng và chiếm 94,6% trong tổng dư nợ. Khối lượng tín dụng tăng trưởng như vậy là do ngân hàng đã đầu tư tín dụng chủ yếu cho khối kinh tế quốc doanh ở một số doanh nghiệp lớn như: Công ty giấy Việt Nam, Công ty dệt 8/3, Công ty dệt kim Đông Xuân,… Ngân hàng đã thực hiện cho vay theo hạn mức tín dụng đối với từng doanh nghiệp, đảm bảo chất lượng tín dụng chú trọng đáp ứng nhu cầu lớn của khách hàng trong việc mua sắm nguyên vật liệu, duy trì sản xuất kinh doanh đều đặn tạo ra sản phẩm phục vụ trong nước và ngoài nước.
+ Đối với khối kinh tế ngoài quốc doanh, dư nợ thực hiện đến 31/12/2000 là 49 tỷ đồng, chiếm 9,3%trong tổng dư nợ, tăng 21% so với cùng kỳ năm 1999. Năm 2001 dư nợ đạt 44 tỷ đồng, chiếm 5,4% tổng dư nợ. Dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng dư nợ là do trong thực tế, đầu tư khối kinh tế này gặp rất nhiều khó khăn vì người vay có phương án sản xuất –kinh doanh khả thi thì không có tài sản thế chấp hoặc ngược lại, có tài sản thế chấp thì phương án kinh doanh lại không hiệu quả.
Dư nợ cho vay ngắn hạn đến 31/12/2000 đạt 416 tỷ đồng, chiếm 69% trong tổng dư nợ, tăng 87 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 1999 với tốc độ tăng 26,2%. Đến 31/12/2001, CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã thực hiện cho vay ngắn hạn là 517 tỷ đồng, tăng 101 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2000, tốc độ tăng 24,2% và chiếm 62,7% trong tổng dư nợ. Cho vay trung và dài hạn đến 31/12/2000 là 186 tỷ đồng chiếm 31%trong tổng dư nợ tăng so với cùng kỳ năm 1999 là 102 tỷ đồng. Đến 31/12/2001 dư nợ tín dụng trung và dài hạn là 305 tỷ đồng chiếm 37,3% trong tổng dư nợ, tăng 121 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2000. Như vậy từ năm 1999 đến năm 2001 dư nợ tín dụng trung và dài hạn tại CN NHCT KV Hai Bà Trưng tăng đáng kể từ 84 tỷ đồng(năm1999) lên đến 305 tỷ đồng (năm 2001). Như vậy, từ năm 1999 đến năm 2000 chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng cho vay ngắn hạn và trung dài hạn đều tăng nhưng tốc độ tăng trưởng cho vay trung và dài hạn tăng nhanh hơn. Tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn chiếm 31% (2000) và 37,3% (2001) tuy là tỷ lệ khá cao so với NHTM nhưng đã giúp cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất, tạo khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường. Đối với kinh doanh của Ngân hàng, đầu tư tín dụng trung, dài hạn (nếu bằng VND) sẽ tạo nên thu nhập ổn định và đảm bảo an toàn tín dụng cao hơn.
Cho vay bằng ngoại tệ thực hiện đến ngày 31/13/2000 là 323 tỷ đồng (quy đổi ngoại tệ ra VNĐ), chiếm 53,7% trong tổng dư nợ, tăng 202 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 1999. Tính đến 31/12/2001 CN NHCT KV Hai Bà Trưng đã thực hiện cho vay bằng ngoại tệ (quy đổi ngoại tệ ra VND) là 248 tỷ đồng chiếm 30% trong tổng dư nợ, giảm 23% so với cùng kỳ năm 2000. Tuy dư nợ cho vay bằng ngoại tệ năm 2001 có giảm so với năm 2000 nhưng nhìn chung vẫn đạt một mức đáng kể trong tổng dư nợ. Nhờ vậy, ngân hàng đã giúp cho nhiều doanh nghiệp trong nước nhập nguyên liệu để phục vụ cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu đảm bảo kỹ thuật, chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do lãi suất tín dụng bằng ngoại tệ thấp, lại bị tác động khi trên thị trường thế giới có biến động sẽ ảnh hưởng bất lợi đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
2.2.3. Thực trạng nợ quá hạn tại chi nhánh NHCT KV Hai Bà Trưng
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nợ quá hạn là một chỉ tiêu không thể không nhắc đến vì nó phản ánh tình hình vay mượn và khả năng hoàn trả của khách hàng đối với ngân hàng. Do thực hiện tốt tinh thần chỉ đạo của Ngân hàng cấp trên, bằng những biện pháp cụ thể, tích cực có hiệu quả nên việc thu nợ quá hạn của ngân hàng trong thời gian vừa qua đạt được những kết quả đáng khích lệ. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: PHân tích thực trạng nợ quá hạn tại
chi nhánh NHCT kv Hai Bà Trưng
(1999-2001)
Đơn vị: triệu VND
Chỉ tiêu
31/12/1999
31/12/2000
31/12/2001
Số dư
Tỷ trọng (%)
Số dư
Tỷ trọng (%)
Số dư
Tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ quá hạn
Tỷ lệ % trong tổng dư nợ
18.624
4,5
18.398
3,1
18.765
2,2
I. Phân tích theo thời gian
- Nợ quá hạn dưới 6 tháng
- Nợ quá hạn từ 6 đến 12 t tháng
- Nợ quá hạn trên 12 tháng
- Nợ quá hạn liên quan đến vụ án
867
1.047
13.102
3.608
4,7
5,6
70,3
19,4
843
1.036
13.459
3.060
4,6
5,6
73,2
16,6
454
-
14910
3401
2,4
-
79,5
18,1
II. Phân theo nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân chủ quan
(chủ yếu do khách hàng):
- Doanh nghiệp bị thua lỗ
- Do bị bắt, bỏ trốn
- Do hàng hoá chậm thanh toán
- Do công nợ chưa thu
- Sử dụng vốn sai mục đích
- Nguyên nhân khác
1.907
16.717
8.310
3.686
533
350
900
2.938
10,2
89,8
44,6
19,8
2,9
1,9
4,8
15,8
1.674
16.724
8.250
3.743
432
586
864
2.849
9,1
90,9
44,8
20,3
2,3
3,2
4,7
15,5
585
18.180
9.681
3.629
1.255
862
905
1.848
3,1
96,9
51,6
19,3
6,7
4,6
4,8
9,8
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 1999-2001
Qua số liệu bảng 4 cho thấy: tính đến 31/12/2000 tổng dư nợ quá hạn là 18,398 tỷ đồng chiếm 3,1% trong tổng dư nợ, giảm 1,4% so với năm 1999. Việc tổ chức triển khai xử lý nợ quá hạn, CN NHCT KV Hai Bà Trưng thực hiện tốt, bằng những biện pháp cụ thể nên việc thu nợ quá hạn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính đến 31/12/2001 tổng dư nợ quá hạn là 18,765 tỷ đồngchiếm 2,2% trong tổng dư nợ, giảm 0,9% so với cuối năm 2000. Như vậy, từ 31/12/1999 đến 31/12/2001 tỷ lệ dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ có xu hướng giảm. Nhưng thực tế số tuyệt đối tăng giảm không đáng kể. Sở dĩ tỷ lệ nợ quá hạn giảm đáng kể từ 4,5% (1999) xuống 3,1% (2000) và 2,2% (2001) là do tổng dư nợ tăng đáng kể qua các năm: 413 tỷ đồng (1999), 602 tỷ đồng (2000) và 824 tỷ đồng (2001). Nợ quá hạn dưới 6 tháng và dưới 12 tháng giảm đáng kể nhưng nợ quá hạn trên 12 tháng lại tăng qua các năm, từ 13,1 tỷ(1999) lên 13,4 tỷ (2000) và 14,9 tỷ (2001). Như vậy, nợ quá hạn mới phát sinh không tăng nhưng kết quả thu nợ quá hạn cũ không giảm nên số nợ quá hạn trên 12 tháng tăng. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến dư nợ quá hạn của chi nhánh trong đó nguyên nhân do doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ chiếm tỷ lệ cao nhất: 44,6% (năm 1999); 44,8% (năm 2000) và 51.6% (năm 2001) so với tổng dư nợ quá hạn. Điển hình là các dự án vay vốn Đài Loan với dư nợ 7,2 tỷ trong đó nợ quá hạn chiếm 83% (6 tỷ đồng). Việc các doanh nghiệp vay vốn sử dụng sai mục đích dẫn đến nợ quá hạn cũng là một trong những nguyên nhân chủ quan của cán bộ tín dụng do thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi phát tiền vay chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Ngân hàng. Nguyên nhân chủ quan khác là do một số doanh nghiệp nhập máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, không đồng bộ hoặc chưa đảm bảo chất lượng nên sản phẩm sản xuất ra không có đầu ra ổn định…dẫn đến khó khăn trong sản xuất kinh doanh làm cho nợ quá hạn tăng.
*Tương quan giữa cho vay và thu nợ của CN NHCT KV Hai Bà Trưng.
bảng 5: tình hình cho vay và thu nợ tại chi nhánh NHCT kv Hai Bà Trưng
(1999-20001)
Đơn vị: tỷ vnd
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36743.doc