Tự do hoá trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước thành viên ASEAN trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Lý do thứ nhất là vì chế độ thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá của Việt Nam chưa cao. Theo kết quả nghiên cứu về tự do hoá đầu tư của các nước APEC của Chiang Rai (Nhật Bản), Việt Nam có được mức độ các rào cản đối với thu hút đầu tư nướcngòai (FDI) đứng thứ 7 trong tổng số 19 nước được nghiên cứu.
49 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển vốn và công nghệ vào nước ta, do đó thu hút vốn đầu tư tăng lên, tạo ra khả năng phát triển nhanh các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ĐTNN. Một ví dụ là trong ngành giao thông vận tải, sau khi gia nhập WTO các hãng tàu liên doanh được chuyển quyền thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, trong các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, mức độ cam kết mở cửa thị trường rộng lớn. Như trong dịch vụ xếp dỡ container cho phép thành lập công ty 50% vốn nước ngoài, dịch vụ thông quan cho phép liên doanh với 51% vốn nước ngoài sau khi gia nhập WTO và sau 5 năm không hạn chế tỷ lệ vốn trong liên doanh. Tương tự, trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông cũng đang mở cửa rộng lớn để dòng vốn và công nghệ chảy vào nước ta... Do vốn trong khu vực ĐTNN tăng lên, sản xuất kinh doanh khu vực này sẽ mở rộng, trở thành khu vực thu hút nhiều lao động chuyên môn, kỹ thuật trên thị trường lao động. Vì vậy, tham gia WTO có tác động thúc đẩy phát triển thị trường đào tạo, dạy nghề và dịch vụ cung ứng lao động chuyên môn, đáp ứng cầu lao động kỹ năng ngày càng tăng của khu vực ĐTNN.
Trở thành thành viên của WTO tạo ra khả năng di chuyển dễ dàng hơn của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, do đó có tác động thúc đẩy phát triển xuất khẩu lao động. Đặc biệt là nước ta có cơ hội hơn trong mở rộng thị trường xuất khẩu lao động kỹ thuật sang các nước thành viên WTO như: Mỹ, Canada, các nước châu Âu... Xuất khẩu lao động chuyên môn, kỹ thuật sẽ có tác động tích cực đối với kích thích đào tạo nhân lực trên thị trường lao động, các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn lao động của thị trường lao động của các nước phát triển, là động lực mạnh mẽ của phát triển nguồn nhân lực nước ta.
1.3. Mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp ĐTNN – có thêm thị trường tiêu thụ, mở rộng thị trường xuất khẩu
Tự do hoá thương mại và đầu tư trong WTO tập trung vào việc tăng cường tiếp cận và mở rộng thị trường, cắt giảm và dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hàng rào thuế quan và phi thuế đối với thương mại và đầu tư. Các thành viên hợp tác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các cam kết cải cách kinh tế và tiến tới thương mại, đầu tư an toàn, tự do và thông thoáng hơn. Các thành viên của WTO sẽ thực hiện lộ trình giảm thuế và xử lý các rào cản thương mại sau biên giới, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của doanh nghiệp trong khu vực và tạo điều kiện cho việc kinh doanh dễ dàng và chi phí rẻ hơn. WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Tham gia vào một không gian kinh tế lớn hơn rất nhiều, hệ thống chính sách luật pháp minh bạch, phân công lao động toàn cầu.. Trở thành thành viên thứ 150 của WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Ngoài việc sẽ được đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ còn nhận được những ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển. Các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tăng cường tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO.
Thông qua việc mở cửa các thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, giảm những hàng rào thuế quan và phi thuế quan, những biện pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật, giảm sự phân biệt đối xử trong WTO, các doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường do được tiếp cận nhiều hơn với thị trường trong cũng như ngoài nước và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trở thành thành viên đầy đủ của WTO, chúng ta có điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như may mặc, giày da, thuỷ sản, gạo, đồ thủ công mỹ nghệ, những mặt hàng mới như xuất khẩu phần mềm: xuất khẩu lao động, phát triển du lịch...
Hội nhập quốc tế không chỉ mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn làm tăng số lượng hàng xuất khẩu ra các nước. Các doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ được hưởng một số ưu đãi, tạo điều kiện cho hàng hoá có mức giá cạnh tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì vậy, có thể khẳng định, đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp ĐTNN có cơ hội thúc đẩy sự thâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước trên thế giới. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể tận dụng cơ hội từ những quy định của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp hoặc không có thuế hoặc hưởng chế độ của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP).
Hội nhập tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ĐTNN tham gia vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh. Doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng truyền thống, sử dụng lao động rẻ, nguyên liệu sẵn có trong nước; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên; khí hậu nhiệt đới cho phép trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su... Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu nhập khẩu như dệt may, da giày... song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động rẻ, tiền lương thấp. Đồng thời đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước phát triển không tập trung sản xuất nữa.
Gia nhập WTO cũng sẽ cho phép các nhà đầu tư tiếp cận được tự do hơn thị trường tiêu thụ trong nước có tiềm năng lớn với quy mô hơn 80 triệu người; tuy mức thu nhập đầu người còn ở mức khiêm tốn như hiện nay nhưng được kỳ vọng sẽ tăng nhanh chóng. Điều không kém quan trọng là với môi trường đầu tư minh bạch, bình đẳng và tự do hơn, các doanh nghiệp ĐTNN hướng xuất khẩu sẽ tìm thấy một miền đất hứa tại Việt Nam với một lực lượng lao động tương đối trẻ, dồi dào và có giáo dục. Đây chính là yếu tố quan trọng để giúp các doanh nghiệp ĐTNN trong các ngành sử dụng nhiều lao động tăng tính cạnh tranh toàn cầu. Ngoài ra, Việt Nam đã trở thành bãi đáp chiến lược thay thế cho Trung Quốc vì những rủi ro chính trị ở nước này. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt từ Nhật, chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam khi mà thực tiễn cho họ thấy rằng tập trung đầu tư quá nhiều vào Trung Quốc tỏ ra rất rủi ro trong bối cảnh nhạy cảm chính trị trong quan hệ hai nước, điển hình là phong trào bài Nhật nổ ra ở nước này gần đây.
1.4. Hình ảnh Việt Nam được quảng bá rộng rãi và ngày càng hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài
Kể từ khi gia nhập WTO, số đoàn doanh nghiệp của các nước vào Việt Nam khảo sát cơ hội đầu tư đã tăng lên, trong đó đáng chú ý là các đoàn lớn của Nhật Bản, các đoàn lớn của Hoa Kỳ, của Cộng hoà liên bang Đức, Tây Ban Nha... Hàng trăm tập đoàn, công ty nước ngoài đã tham dự các Diễn đàn, Hội thảo đầu tư lớn tổ chức tại Việt Nam như Diễn đàn Đầu tư Việt Nam, Diễn đàn đối thoại Việt Đức, Hội nghị về thu hút đầu tư của các TNCs, các hội thảo về xúc tiến đầu tư tại nước ngoài cũng đã thu hút mối quan tâm của đông đảo cộng đồng doanh nghiệp các nước. Hình ảnh của Việt Nam với tư cách là một thành viên của các tổ chức, diễn đàn hợp tác đầu tư sẽ được quảng bá rộng rãi thông qua các chương trình xúc tiến đầu tư chung của toàn khối. Chương trình xúc tiến đầu tư, tăng cường hiểu biết là một trong ba chương trình hành động được đề ra trong hiệp định khung AIA. Các hoạt động xúc tiến chung bao gồm tổ chức hội thảo, mở các lớp đào tạo, tổ chức các chuyến khảo sát làm quen cho các nhà đầu tư từ các nước xuất khẩu vốn, đồng thời triển khai các dự án cụ thể với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân. Các hoạt động như vậy vừa có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người hơn, vừa giúp các nước thành viên trong đó có Việt Nam tiết kiệm được chi phí xúc tiến đầu tư. Các nước thành viên cũng có thêm cơ hội để trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong hoạt động xúc tiến đầu tư.
Trở thành thành viên của WTO, không những mang lại cơ hội hình ảnh Việt Nam được quảng bá rộng rãi mà chính WTO sẽ khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư. Trước tiên, theo đánh giá mới nhất của Tổ chức Thương mại và Phát triển thuộc Liên Hợp Quốc (UNCTAD), Việt Nam được xếp vào nhóm nước có tiềm năng ĐTNN thấp nhưng hiệu quả hoạt động của khu vực ĐTNN cao. Rõ ràng, trong bối cảnh mới đây chắc chắn sẽ là “liều thuốc kích thích” các nhà đầu tư nước ngoài đến nước ta kinh doanh. Hơn nữa, Việt Nam là một nước còn kém phát triển nhưng trình độ phát triển thấp đồng nghĩa với cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh còn lớn. Cuối cùng là sau bốn năm đẩy nhanh tốc độ biến Trung Quốc thành “công xưởng của thế giới”, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công thức Trung Quốc + 1 đang được nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ được xem như nơi tiếp nhận đầu tư thay thế hoặc tiếp ngay sau Trung Quốc.
1.5. Cơ hội mang lại từ việc thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư
Việc thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam cùng với những cải thiện tích cực trong hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài trong thời gian qua là những nhân tố quan trọng góp phần củng cố lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam, mở ra cơ hội mới để thu hút đầu tư nước ngoài với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt và môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn một số hạn chế. Các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ trong khuôn khổ các hiệp định song phương, khu vực và thế giới cũng là những nhân tố tích cực góp phần mở rộng thị trường thu hút đầu tư của Việt Nam.
Các cam kết với WTO sẽ mở rộng hơn cánh cửa cho doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế và nhiều vùng địa lý của đất nước. Ví dụ những hạn chế về bán lẻ và phân phối sẽ được nới lỏng, các doanh nghiệp nước ngoài được phép thiết lập các cơ sở riêng bán lẻ và phân phối riêng của mình. Trong viễn thông các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua tới 50% giá trị của các hãng cung cấp dịch vụ viễn thông. Một số quy chế khác cũng được nới lỏng, mở rộng cánh cửa cho đầu tư nước ngoài vào những ngành bảo hộ trước đây, từ ngân hàng đến nông nghiệp.
Chiến lược phát triển của Nhà nước ta cũng là một lực hút lớn đối với các doanh nghiệp ĐTNN. Chiến lược phát triển nhằm sớm đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp hoá và đi lên cao hơn trên bậc thang giá trị gia tăng trong sản xuất và xuất khẩu đã tạo ra nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao. Năm nay, Intel, nhà sản xuất chip máy tính hàng đầu của Mỹ, đã rót hơn 600 triệu USD để xây dụng một nhà máy bán dẫn tại Việt Nam. Trước đó, hàng loạt các tên tuổi thế giới trong ngành công nghiệp điện tử như Sony, Samsung, Canon đã đặt chân đến Việt Nam. Khi nền kinh tế dẫn dần thay đổi cơ cấu, chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, ĐTNN trong lĩnh vực công nghệ sẽ ngày càng là lực đẩy mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế. Sự cam kết của Chính phủ về một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch với những ưu đãi rõ ràng thể hiện trong các cam kết với WTO là một minh hoạ thuyết phục hơn bất kỳ mọi bằng chứng nào khác về một môi trường kinh doanh ổn định và đầy triển vọng của Việt Nam để tạo một cú hích cho những đại gia có tầm cỡ khác trên thế giới an tâm và quyết đặt chân lên Việt Nam, thay vì các nước khác trong khu vực.
Việc quyết tâm gia nhập WTO để tăng cường thu hút ĐTNN vào Việt Nam (cùng với đó là quá trình nâng cấp cơ sở hạ tầng để đón chào làn sóng đầu tư kỳ vọng) tự thân nó lại là một cú hích cho ĐTNN. Phát triển năng lực cung cấp điện lực để đáp ứng nhu cầu đang và sẽ ngày càng tăng qua các công trình thuỷ điện mới (Sơn La) và điện hạt nhân (đang trong quá trình thiết kế và chuẩn bị), cùng với quá trình tư nhân hoá Tổng công ty điện lực Việt Nam trong giai đoạn 2006-2007, bên cạnh các dự án khai thác và lọc dầu sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh béo bở cho các doanh nghiệp nước ngoài trong ngành năng lượng, khi mà cánh cửa dẫn đến những cơ hội này đã được mở rộng cho các nhà đầu tư nước ngoài từ thời điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO.
2/ Những thách thức thu hút đầu tư nước ngoài khi Việt Nam trở thành thành viên WTO
2.1/ Những tồn tại căn bản của hệ thống luật pháp
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, điều đó có nghĩa là Việt Nam phải cam kết thực hiện những tiêu chuẩn quốc tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và tính hợp lý. Các luật, quy định và các quyết định của toà án liên quan đến thương mại cần phải được công bố công khai để cho công chúng và thế giới biết trước khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu cầu về thông tin, thắc mắc và bình luận đều có thể được giải đáp. Tính đồng bộ có nghĩa là các chính quyền địa phương không được đưa ra những đạo luật riêng không thống nhất với những quy định của WTO, tức là chính quyền địa phương phải tuân thủ các nguyên tắc của WTO. Tính công bằng yêu cầu không chấp nhận bất cứ sự thiên vị nào trong việc thực hiện luật pháp. Để tuân thủ tính đồng bộ và tính công bằng, các đạo luật cũng phải mang tính chất hợp lý, phù hợp. So với những tiêu chuẩn quốc tế đó, thì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Mặc dù Việt Nam đã có Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài nhưng chúng ta còn thiếu nhiều luật trong những lĩnh vực thương mại cụ thể.
Pháp luật về sở hữu trí tuệ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện kinh tế thế giới phát triển theo hướng kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ; nâng cấp, bổ sung và thống nhất quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đã có và đang được thực hiện thành một luật chung là công việc hết sức quan trọng. Ngày 29/11/2005, Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Việc ban hành Luật này sẽ giải quyết được những đòi hỏi thực tế hiện nay, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng; tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới là tại thời điểm gia nhập tổ chức này, mọi nghĩa vụ về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ quy định trong Hiệp định TRIPS sẽ được Việt Nam thực hiện ngay mà không cần thời gian chuyển tiếp. Đồng thời, theo TRIPS, Việt Nam có nghĩa vụ phải tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về sở hữu trí tuệ như Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép (1971), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình (1961), Công ước Brussels về phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa (1974) và Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng mới (văn kiện 1991).
Nguyên nhân của tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là do: (i) Các quy phạm pháp luật chưa có hiệu lực cao. Hệ thống các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nước ta nằm rải rác, tản mạn trong rất nhiều văn bản, phần lớn là văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành thấp, gây khó khăn, phức tạp cho người vận dụng, gây ấn tượng không ổn định, dễ thay đổi. Một số quy phạm pháp luật còn thiếu cụ thể, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa có tính khả thi. (ii) Hoạt động của các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ thiếu thống nhất và hiệu quả. Trong số các cơ quan cùng bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay không có cơ quan nào làm đầu mối phối hợp như ở các lĩnh vực khác. Thông tin giữa các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhiều khi không thông suốt. Thậm chí, không hiếm trường hợp mỗi cơ quan thực thi giữ một quan điểm khác nhau về cùng một vụ việc, dẫn đến kết quả xử lý khác nhau. Bên cạnh đó, các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiện nay có rất ít cán bộ được đào tạo về sở hữu trí tuệ. (iii) Nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ còn rất hạn chế Đối với đa số người dân, sở hữu trí tuệ vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, thậm chí hơi “xa xỉ” so với những lo toan cuộc sống hàng ngày. Trong khi đó, thông tin về sở hữu trí tuệ là một khâu còn rất yếu, mạng lưới dịch vụ về sở hữu trí tuệ rất mỏng, không tạo điều kiện để nâng cao nhận thức chung và thúc đẩy các hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Kinh nghiệm của các nước đã trải qua cho thấy nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. Đó là cơ hội vô cùng to lớn mà các nước đang phát triển phải nắm lấy khi mà quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành điều kiện bắt buộc cho các quốc gia khi hội nhập sân chơi quốc tế.
2.2. Thách thức trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài với các nước khác
Tự do hoá trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước thành viên ASEAN trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Lý do thứ nhất là vì chế độ thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá của Việt Nam chưa cao. Theo kết quả nghiên cứu về tự do hoá đầu tư của các nước APEC của Chiang Rai (Nhật Bản), Việt Nam có được mức độ các rào cản đối với thu hút đầu tư nướcngòai (FDI) đứng thứ 7 trong tổng số 19 nước được nghiên cứu.
Lý do thứ hai là vì ngay cả khi môi trường luật pháp, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác thì nhiều yếu tố khác của môi trường đầu tư nước ngòai của Việt Nam như cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp phụ trợ... vẫn còn kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Gia nhập WTO sẽ tạo ra một mặt bằng pháp lý chung trong khu vực để điều chỉnh đầu tư nước ngoài. Việc tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi sẽ khiến cho các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào một nước để chiếm lĩnh thị trường nước này, có thể đầu tư mới hoặc mở rộng cơ sở đầu tư đã có ở một quốc gia khác trong khu vực thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hoá sang nước kia mà vẫn được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Điều này sẽ làm cho luồng vốn đầu tư nước vào khu vực tăng song lại mất tính chất đồng đều giữa các quốc gia khi.
Trên thực tế, Việt Nam nằm trong khu vực hầu hết các nước đều cạnh tranh gay gắt để thu hút đầu tư nước ngoài . Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar,....đang nỗ lực cải thiện môi trường FDI. Đặc biệt, do rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á về vai trò tích cực của đầu tư nước ngòai so với đầu tư chứng khoán và vay thương mại, các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc nhanh chóng điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng ngày càng tự do hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với dòng vốn này. Trong khi đó, mặc dù năm 2006 thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, mức cao nhất trong 10 năm gần đây, nhưng xét về sức hấp dẫn đối với FDI Việt Nam chỉ đứng thứ tư trong ASEAN và đứng thứ 48 trong số 79 nền kinh tế thế giới.
Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài nhưng các lợi thế này lại thuộc cấp thấp (lợi thế tĩnh: tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn hạn chế). Trong khi đó, nhiều nước đã chú trọng và chuẩn bị cho mình các lợi thế cạnh tranh cấp cao (lợi thế động: vốn lớn, công nghệ hiện đại, người lao động có chuyên môn cao, dịch vụ tốt...). Ngoài các lợi thế trên, môi trường đầu tư ở Việt Nam bị đánh giá là kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do có nhiều rủi ro, chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính - ngân hàng chưa hoàn thiện, chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ còn nhiều vướng mắc, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, thủ tục sau giấy phép còn nhiều phiền hà, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chững lại, lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ đang mất dần, dân số đông nhưng sức mua thấp, quy mô thị trường nhỏ bé, có những ràng buộc về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, tự cân đối ngoại tệ.
Có thể minh chứng cho nhận định trên qua việc so sánh giữa môi trưòng đầu tư của các nước ASEAN và của Việt Nam. Bảng 2.6 cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn kém so với các nước ASEAN, đây là một bất lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài.
BẢNG 2.6: So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN
Nước
Sân bay
Cảng biển
Giao thông
Điện lực
Viễn thông
Bình quân
Singapore
4,9
4,9
4,6
4,4
4,7
4,7
Brunei
3,3
3,0
3,3
3,6
3,5
3,3
Malaysia
3,1
3,1
2,7
2,6
3,2
2,9
Thái Lan
3,1
2,5
1,6
2,7
3,0
2,6
Philippin
2,3
2,4
1,9
2,2
2,7
2,3
Indonesia
3,0
2,4
2,3
2,6
2,7
2,6
Việt Nam
1,9
2,0
1,9
1,9
2,2
2,0
Myanmar
1,6
1,5
1,6
1,4
1,4
1,5
Lào
1,5
1,5
1,7
1,5
1,5
Campuchia
1,6
1,5
1,8
1,4
1,4
1,5
Xếp hạng: Điểm 5 là cao nhất
Nguồn: năm 2006
* Số liệu trong bảng trên được tính toán trên cơ sở phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư về cơ sở hạ tầng, các điều kiện luật pháp, chính sách với thang điểm từ 1-5.Như vậy, khi thực hiện các cam kết trong khuôn khổ, Việt Nam sẽ phải mở cửa hầu hết các lĩnh vực, dành NT cho các nhà đầu tư nước ngoài, không còn duy trì chính sách bảo hộ sản xuất trong nước nữa. Khi đó nếu kinh tế, công nghệ và các yếu tố khác của môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn yếu kém hoặc chậm được cải thiện như đã phân tích thì Việt Nam sẽ không thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. 5. Biến Việt Nam thành nơi tiếp nhận các công nghệ thấp từ các nước đang phát triển
Ngày nay, các nước đang phát triển rất tích cực đầu tư ra nước ngoài. Hội nhập đầu tư quốc tế theo xu thế tự do hoá FDI sẽ tạo thuận lợi cho các nước trong đó có các nước đang phát triển đầu tư vào Việt Nam. Dòng vốn FDI từ nhiều nước đang phát triển thường đi kèm với các công nghệ lạc hậu mà các nước này trước đây đã tiếp nhận từ các nước phát triển hơn và nay để đổi mới công nghệ nhưng vẫn khai thác được các công nghệ cũ, các nước này thường tìm cách chuyển giao sang các nước có trình độ phát triển kém hơn. Vì vậy nếu quản lý không tốt, Việt Nam có thể trở thành nơi tiếp thu những công nghệ lạc hậu của các nước đang phát triển khác. Điều này sẽ kìm hãm sự phát triển của Việt Nam, khiến khoảng cách giữa Việt Nam và các nước sẽ ngày càng xa hơn. Thực tiễn thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy thách thức này không dễ vượt qua. Do trình độ của cán bộ quản lý, trình độ của các kỹ sư, kỹ thuật viên còn kém, chưa được tiếp xúc nhiều với các công nghệ tiên tiến, chưa được cập nhật thường xuyên nên trong thời gian vừa qua Việt Nam đã tiếp nhận nhiều công nghệ lạc hậu trên thế giới thông qua FDI. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến môi trường và làm chậm lại quá trình CNH – HĐH đất nước.
2.3/ Những yếu kém, bất cập đang tồn tại ở Việt Nam
+ Thiếu cán bộ quản lý và lao động tay nghề cao
Để có thể hội nhập WTO một cách hiệu quả, một trong những công việc trong tương lai đòi hỏi Việt Nam phải có một đội ngũ cán bộ quản lý đông đảo về số lượng và giỏi về chuyên môn. Có như vậy `Việt Nam mới chủ động đề ra được các kế hoạch, lộ trình hội nhập trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và không bị quá chậm so với các nước khác, mới chuẩn bị tốt được các yếu tố trong nước để hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường các tác động tích cực trong việc thu hút đầu tư nước ngoái. Trong khi đó, hiện tại đội ngũ cán bộ quản lý của Việt Nam còn ít, thiếu kinh nghiệm hội nhập. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí. Đây là một việc không dễ đối với Việt Nam trong điều kiện ngân sách còn hạn chế và hệ thống giáo dục chưa theo kịp trình độ tiên tiến trên thế giới.
Một vấn đề nữa đặt ra cho nguồn nhân lực của Việt Nam đó là nguồn lao động phổ thông. Tăng cường hội nhập trong lĩnh vực đồng nghĩa với việc có cơ hội tăng dòng vốn này lên, nhưng muốn tăng vốn đầu tư thì trước tiên cần có nguồn lao động có chất lượng phù hợp yêu cầu của nhà tuyển dụng. Trên thực tế, nguồn lao động phổ thông của Việt Nam có ưu điểm là cần cù, chịu khó và có giá rẻ nhưng chuyên môn kỹ thuật yếu, thiếu tác phong công nghiệp và không tôn trọng cam kết. Lực lượng lao động có trình độ, kiến thức ở Việt Nam còn thiếu. Việt Nam là nước khá thành công trong việc phổ cập giáo dục với tỷ lệ người biết chữ cao (chiếm 97%), tỷ lệ người có bằng cấp trên đại học cũng tương đối cao. Nhưng trên thực tế số người tiếp cận được với khoa học kỹ thuật và phong cách quản lý mới còn quá ít ỏi, số lượng sinh viên tốt nghiệp khối kỹ thuật của Việt Nam chỉ là 30,6% tổng số sinh viên tốt nghiệp; trong khi đó con số này của Trung Quốc là 64,2% và Singapore là 42%. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài thì hiện giá nhân công ở V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24756.doc