Đề tài Phân tích nội dung và kết quả chủ yếu của cải cách và mở cửa của nền kinh tế Trung Quốc trong thời kỳ 1978 - 2000 và liên hệ công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam 1986 đến nay - Giống nhau và khác nhau

Về nhập khẩu, hướng theo chiến lược điều chỉnh nền kinh tế, Trung Quốc đã thay đổi chính sách nhập khẩu thiết bị kĩ thuật. Quan điểm của Trung Quốc chỉ nhập khẩu có chọn lọc thiết bị toàn bộ cho những công trình lớn, nhưng rất cá biệt, Trung Quốc ưu tiên nhập khẩu kĩ thuật và công nghệ để cải tạo các xí nghiệp cũ đã lạc hậu. Với quân điểm như vậy, Trung Quốc đã nhập công nghệ và kĩ thuật của trên 40 nước, chủ yếu là của Mĩ, Nhật, Anh, Pháp, Tây Đức v.v.

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nội dung và kết quả chủ yếu của cải cách và mở cửa của nền kinh tế Trung Quốc trong thời kỳ 1978 - 2000 và liên hệ công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam 1986 đến nay - Giống nhau và khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã hội chủ nghĩa. Về vấn đề này, quan điểm của Trung Quốc cho rằng, trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không phải do kế hoạch điều tiết đơn nhất, mà có thể thực hiện sự kết hợp giữa kế hoạch với thị trường. Trung Quốc coi đây là một kết luận cơ bản rút ra từ thực tiễn xây dựng kinh tế trong những năm qua. Đường lối kinh tế của Đảng cộng sản Trung Quốc đã khẳng định: kinh tế xã hội chủ nghĩa là "kinh tế hàng hoá có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu" và "thực hiện kinh tế kế hoạch cùng với việc vận dụng qui luật giá trị và phát triển kinh tế hàng hoá không phải là bài xích nhau, mà là thống nhất với nhau. Đối lập chúng với nhau là sai lầm". Như vậy theo Trung Quốc, việc xác định tính chất của nền kinh tế hiện đại sẽ có ba ý nghĩa. Nó phân biệt kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế tự nhiên mang tính phân tán, tự cấp tự túc. Nó cũng phân biệt kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế có sản phẩm dồi dào của xã hội tương lai. Với Trung Quốc trong giai đoạn hiện tại, sức sản xuất chưa phát triển, kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, thì Trung Quốc chưa thể vượt qua giai đoạn kinh tế hàng hoá để làm kinh tế sản phẩm. Cuối cùng nó cũng phân biệt kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế hàng hoá không có kế hoạch của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trung Quốc còn chủ trương khôi phục và duy trì một nền kinh tế có nhiều thành phần. Về vấn đề này, quan điểm của Trung Quốc cho rằng trong điều kiện cụ thể, với các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, không phải càng qui mô lớn càng tốt. Đồng thời với nền kinh tế hiện tại không hoàn toàn càng công hữu, càng thuần khiết xã hội chủ nghĩa càng tốt, mà cần đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong điều kiện lấy chế độ công hữu làm chủ thể. Như vậy, sự đổi mới về nhận thức đã phá bỏ đi những quan niệm truyền thống và xác lập quan niệm mới là kết cấu của chế độ sở hữu phải do tính chất của sức sản xuất quyết định. Qua thực tế cho thấy việc lựa chọn và xác lập các hình thức sở hữu không thể xuất phát từ sự lý tưởng hoá chủ quan, mà phải do tính chất khách quan của lực lượng sản xuất quyết định. Chính trên cơ sở ấy mới nâng cao hiệu quả của sản xuất, khai thác tốt mọi tiềm năng cho sự phát triển kinh tế. ở Trung Quốc thời gian qua đã hình thành nhiều loại hình sở hữu cùng tồn tại và giao tiếp với nhau, trong đó sở hữu xã hội chủ nghĩa với tư cách là chủ thể. Đồng thời, chính sự đổi mới nhận thức về chế độ sở hữu dưới chủ nghĩa xã hội càng phá bỏ quan niệm truyền thống là "càng thống nhất càng tốt" để xác lập quan niệm mới là trong điều kiện nhất định, quyền sở hữu và quyền kinh doanh có thể tách rời nhau. Từ chủ trương khôi phục và duy trì nền kinh tế có nhiều thành phần, nền kinh tế chính sách thể được khuyến khích phát triển, các hình thức tư bản Nhà nước cũng được chú trọng. Trung Quốc đã áp dụng chính sách khoán không chỉ trong nông nghiệp, mà cả trong lĩnh vực công thương nghiệp. Với nông nghiệp, những hình thức khoán như "tập thể công hữu, tập đoàn nhỏ kinh doanh", "tập thể công hữu, cá thể nhỏ kinh doanh" đã trở thành khá phổ biến ở nông thôn Trung Quốc. Với công thương nghiệp, chính sách khoán được áp dụng ở một số xí nghiệp quốc doanh loại nhỏ và những xí nghiệp hợp tác xã. Trong hoạt động kinh tế, Trung Quốc cho thực hiện chế độ hợp đồng lao động, cho phép cạnh tranh và giải thể những xí nghiệp thua lỗ. Trung Quốc coi đây là một tác động quan trọng cho sản xuất phát triển. Cùng với việc khởi xướng đường lối cải cách kinh tế, Trung Quốc còn tiến hành cải cách thể chế chính trị. Trung Quốc cho rằng trong thời gian qua, ở Trung Quốc đã hình thành bộ máy Nhà nước mang tính chất tập trung quan liệu, tổ chức thì cồng kềnh, nhưng hiệu quả trong hoạt động lại rất thấp. Bên cạnh đó có tình trạng công tác của Đảng và chính quyền chống chéo lên nhau. Do vậy, từ đầu những năm 80 đặc biệt từ năm 1983, Trung Quốc đã có nhiều hoạt động để chấn chỉnh tổ chức. Với báo cáo tại Đại hội 13 của Đảng cộng sản Trung Quốc được coi là tuyên ngôn về cải cách thể chế chính tri. Nội dung chủ yếu của nó là sự tách biệt chức năng lãnh đạo của của Đảng và chức năng thực hiện của Nhà nước. Đảng sẽ không can thiệp và làm thay công việc của Nhà nước. Bên cạnh đó báo cáo còn đề cập tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, mà tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực của họ được đánh giá bằng lòng nhiệt thành, quyết tâm và những hành động có hiệu quả trong cải cách kinh tế, trong sản xuất và kinh doanh hàng hoá. Tiến hành đồng thời với cải cách kinh tế, Trung Quốc chủ trương thực hiện chính sách mở cửa quan hệ với thế giới bên ngoài. Tại hội nghị 12 của Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 9-1982) đã khẳng định "chính sách mở cửa là đường lối chiến lược không thay đổi, là một điều kiện cơ bản để hiện đại hoá". Thực chất hoạt động mở cửa của Trung Quốc nhằm thu hút vốn và tranh thủ khoa học kỹ thuật, khi sản xuất và tiêu dùng ngày càng mang tính chất quốc tế hoá, thì hoạt động mở cửa là phản ánh xu thế khách quan của thời đại với tất cả các quốc gia có nhu cầu phát triển kinh tế. Như vậy chính sách mở cửa của Trung Quốc là phù hợp với qui luật chung của thế giới đương đại. Để tiến hành hoạt động mở cửa, Trung Quốc đã cho xây dựng các đặc khu kinh tế là Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu (Quảng Đông) và Hạ Môn (Phúc Kiến). Bước sang những năm 1983, 1984, 1985, công cuộc mở cửa vẫn được tiếp diễn ở các địa phương. Nhà nước đã cho phép một số địa phương nhiều quyền tự chủ trong việc hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi cho nước ngoài đầu tư, từ năm 1979, Trung Quốc đã ban hành 160 đạo luật và sắc lệnh liên quan tới các đặc khu cùng các thành phố mở cửa. Một trong các đạo luật nói trên tỏ ra ưu đãi đặc biệt với các nhà tư bản bỏ vốn đầu tư kinh doanh. Họ được phép sử dụng đất đai với thuế suất ưu đãi. Bên cạnh đó có đạo luật chỉ ra các đặc khu kinh tế và thành phố mở cửa phải có trật tự xã hội cao, phải coi trọng văn minh lịch sự, những sản phẩm của các đặc khu phải đáp ứng với yêu cầu lưu thông hàng hoá trên thị trường thế giới. Nhìn vào việc mở cửa quan hệ với nước ngoài, Trung Quốc đã đưa ra nhiều hình thức khác nhau để tư bản nước ngoài đầu tư vào các đặc khu kinh tế và thành phố mở cửa. Ví dụ như xí nghiệp hợp danh là hình thức Trung Quốc và nước ngoài cùng góp vốn và cùng chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Việc chia lãi cho các bên căn cứ vào cổ phần đóng góp. Thời gian ký kết lập ra các xí nghiệp hợp doanh là 11 năm tới 30 năm. Một loại xí nghiệp khác có thể vốn hoàn toàn do nước ngoài đầu tư, nhưng những xí nghiệp này phải có lợi cho việc phát triển kinh tế quốc dân ở Trung Quốc. Về kỹ thuật và thiết bị của xí nghiệp phải tiên tiến, những sản phẩm của nó phải được xuất khẩu toàn bộ. Với các xí nghiệp loại này, hàng năm phải nộp cho Trung Quốc thuế thu nhập từ 20% đến 40%. Ngoài các loại hình xí nghiệp nói trên, còn một loại xí nghiệp nữa là do nước ngoài cho vay vốn. Việc thanh toán hoàn trả cho nước ngoài sẽ bằng sản phẩm mà xí nghiệp sản xuất ra. Nhìn chung cới chính sách mở cửa, Trung Quốc không chỉ bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư, đồng thời vẫn cố gắng duy trì và giữ vững chủ quyền của mình. Trên đây là toàn bộ nội dung về cải cách kinh tế và mở cửa ở Trung Quốc. Qua thực tế, nó đã tạo ra những chuyền biến mạnh mẽ, làm sống động nền kinh tế Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Với nông nghiệp, từ hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá 11 (1987) đã coi "nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế quốc dân" và "Nhiệm vụ hàng đầu đặt ra trước mắt là tập trung tinh lực làm cho nền nông nghiệp lạc hậu mau chóng phát triển. Với tinh thần ấy, hội nghị trung ương lần thứ 3 của Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh phải quan tâm đầy đủ tới lợi ích vật chất của người lao động, phải trả thù lao cho xã viên theo số lượng và chất lượng lao động, kiên quyết chống chủ nghĩa bình quân trong phân phối. Ngay trong hội nghị trung ương lần 3, nông thôn Trung Quốc đã thực hiện chế độ khoán trong sản xuất nông nghiệp. Chế độ khoán thực chất là hình thức lao động hợp đồng, được ký kết giữa ba bên: Nhà nước, tập thể, hộ hay nhóm hộ nông dân. Sau khi ký kết, các đội sản xuất căn cứ vào kế hoạch cả Nhà nước và điều kiện cụ thể của mình để giao ruộng đất và các hạng mục sản xuất cho các hộ hoặc nhóm hộ nhận khoán kinh doanh. Trong quá trình thực hiện, hộ nông dân phải nộp thuế nông nghiệp, phải bán một số lượng sản phẩm theo yêu cầu của Nhà nước. Bên cạnh đó, nông dân còn phải nộp một phần sản phẩm thu nhập cho tập thể để gây công quỹ, phần còn lại hoàn toàn thuộc quyền và sử dụng của nông dân. Tất nhiên, phần hoa lợi mà nông dân được hưởng phải thoả đáng, có tác dụng khuyến khích vật chất với người lao động. Như vậy, chế độ khoán ở nông thôn Trung Quốc là hình thái cụ thể của việc tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng kinh doanh ruộng đất. Với việc tách rời như vậy, người nông dân đã phát huy được quyền tự chủ trong kinh doanh sản xuất. Qua thực tế, chế độ khoán đã làm cho kinh tế tập thể và hoạt động kinh doanh của gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, thể hiện qua các hợp đồng kinh tế. Chế độ khoán trong nông nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979, tới nay đã qua hai giai đoạn: từ 1979 đến 1983 là giai đoạn hình thành các hình thức khoán, từ năm 1984 tới nay là giai đoạn tiến tới hoàn thiện chế độ khoán tới hộ. Nhìn chung tới năm 1984, 100% các đội sản xuất đã thực hiện chế độ khoán. Với chế độ khoán, hình thức của nó khá đa dạng như khoán theo chuyên môn, tính thù lao theo sản lượng; khoán sản lượng tới tổ, tới người lao động và tới hộ. Sự đa dạng về hình thức khoán có ưu điểm là nó phù hợp với tình hình phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, những hình thức khoán nói trên song song cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nhìn chung, tâm lý của người nông dân thích khoán tới hộ hơn. Hình thức này dần dần trở thành phổ biến. Qua thực tế diễn biến về nông nghiệp ở Trung Quốc trong những năm gần đây cho thấy chế độ khoán mang tính phổ biến, vì nó phù hợp với điều kiện khách quan của Trung Quốc, phù hợp với yêu cầu của qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này được xem xét trên ba mặt: mức độ công hữu, hình thức tổ chức quản lý và phân phối. Do vậy, về quan điểm, Trung Quốc coi chế độ khoán không phải là kế sách tạm thời, mà mang tính chất lâu dài, căn bản, đã đề cập tới vấn đề trọng yếu là cải cách thể chế quản lý trong nông nghiệp trên khắp các vùng nông thôn Trung Quốc bao la, với hàng triệu nông dân. Vì vậy, báo cáo chính trị tại đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lầ thứ 13 đã khẳng định "phải củng cố và hoàn thiện chế độ khoán tới hộ với nhiều hình thức, lấy kinh doanh gia đình làm chủ yếu". Chế độ khoán đã đem lại những thắng lợi cơ bản cho nông nghiệp Trung Quốc. Sản lượng lương thực tăng nhanh, nếu năm 1978 là 304,7 triệu tấn, thì năm 1987 là 402 triệu tấn. Những sản phẩm khác trong nông nghiệp như bông, dầu, mía, thịt v.v.. đều tăng. Điều đáng chú ý là ở nông thôn Trung Quốc cả nông, lâm, ngư nghiệp và chăn nuôi đều phát triển nhanh chóng. Theo đà phát triển của nông nghiệp, thì các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn cũng chuyền biến mạnh. Tỷ trọng giá trị sản lượng của công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và thương nghiệp ở nông thôn trong tổng giá trị sản phẩm của kinh tế nông thôn tăng từ 31,4% năm 1978 lên 46,9% năm 1986. Với sự phát triển của kinh tế nông thôn Trung Quốc, hàng trăm triệu nông dân đã chuyển mình từ trạng thái kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá. Nhìn chung nông nghiệp Trung Quốc phát triển tương đối ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Nguồn nguyên liệu nông nghiệp cung cấp cho công nghiệp tăng 1,4 lần, góp phần tăng thêm nguồn hàng xuất khẩu. Năm 1986, nguồn ngoại tệ do sản phẩm nông nghiệp và nghề phụ xuất khẩu đạt 13,7 tỷ đô la, tăng 7,5 tỷ đô la so với năm 1978. Chính trên cơ sở ấy, đời sống người lao động ở nông thôn có sự thay đổi, đáng chú ý: năm 1986, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăn 3 lần so với năm 1978. Trong lĩnh vực công nghiệp, sự phát triển gắn với việc điều chỉnh phương hướng đầu tư giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Tính từ năm 1979, Trung Quốc đã giảm bớt qui mô và tốc độ phát triển của công nghiệp nặng. Đồng thời Trung Quốc chú trọng tăng qui mô và tốc độ phát triển của công nghiệp nhẹ. Do vậy trong những năm qua, cơ cấu của nền kinh tế đã bước đầu giảm được tỷ lệ mất cân đối giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Năm 1979, quan hệ tỷ lệ giữa ba lĩnh vực là 1,12: 1 : 1; nhưng tới năm 1982 đã thay đổi theo tỷ lệ 0,99 : 1 : 0,98. Nhìn vào quan hệ tỷ lệ trên, thì công nghiệp nặng đã giảm tỷ trọng, công nghiệp nhẹ có tỷ trọng lớn nhất và tỷ trọng nông nghiệp xấp xỉ bằng công nghiệp nặng. Trong thời gian này, khả năng sản xuất của công nghiệp tăng nhanh. Vào năm 1980 sản lượng dầu mỏ đạt 106 triệu tấn, than 620 triệu tấn; nhưng tới năm 1987 sản lượng dầu mỏ là 134 triệu tấn, than là 899 triệu tấn. Nhìn chung từ năm 1979 - 1985, về giá trị sản lượng công nghiệp, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 10,1%. Hoà nhịp với hoạt động kinh tế trong nước, những hoạt động kinh tế đối ngoại với chính sách mở cửa đã tạo ra những chuyển biến quan trọng, góp phần to lớn làm sống động nền kinh tế. Trong những năm qua, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc tăng nhanh. Năm 1978 là 20,6 tỷ đô la, năm 1987 là 83,7 tỷ đô la, nghĩa là tăng lên gấp 4 lần. Điều đáng chú ý là sự tăng nhanh trong lĩnh vực ngoại thương của Trung Quốc không phải chi so với những giai đoạn trước đây, mà còn nhanh hơn tốc độ của nhiều nước trên thế giới. Trong những khoảng thời gian 10 năm (1978 - 1987), tốc độ bình quân với hoạt động ngoại thương của các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa (SEV) là 7-8%, các nước thuộc khối thị trường chung châu Âu (EEC) là 3,1%, nhưng tỷ lệ này ở Trung Quốc là 18,9%. Theo thống kê của chính phủ Trung Quốc, trong thời gian 10 năm (1978-1987) thì hoạt động ngoại thương của Trung Quốc tăng 4 lần, sản xuất công nghiệp tăng 2,5 lần, sản xuất nông nghiệp tăng 2,25 lần. Như vậy, rõ ràng tốc độ phát triển của ngoại thương tăng nhanh hơn tốc độ phát triển của sản xuất. Điều đó chỉ ra rằng vai trò của ngoại thương tác động trở lại với sự phát triển kinh tế trong nước rất quan trọng. Nhìn vào hoạt động ngoại thương, thì cơ cấu hàng xuất nhập khẩu và cơ cấu thị trường có nhiều thay đổi rõ rật. Số lượng hàng thành phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh, nhất là những mặt hàng truyền thống như quần, áo, giầy, dép, dụng cụ thể thao và các loại hàng thủ công mỹ nghệ... Những mặt hàng này tỷ lệ xuất mỗi năm tăng 18,5%. Năm 1980, những mặt hàng nêu trên chiếm 25% trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu. Chỉ riêng mặt hàng giầy, dép của Trung Quốc xuất sang thị trường tư bản chủ nghĩa (Mỹ, Nhật, ý, Pháp) giá trị 160 triệu đô la. Việc xuất khẩu than và dầu mỏ tăng nhanh, chiếm 21,5% trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu. Hoạt động này thu được kết quả trên cơ sở tăng sản lượng khai thác và mở rộng thị trường buôn bán. Năm 1987, Trung Quốc đã xuất nhập 27,2 triệu tấn dầu, 13,5 triệu tấn than, trong đó 80% xuất sang Nhật, 20% suất sang Mĩ. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn xuất một số loại nông phẩm sang thị trương Mĩ, úc, Pháp v.v... Về nhập khẩu, hướng theo chiến lược điều chỉnh nền kinh tế, Trung Quốc đã thay đổi chính sách nhập khẩu thiết bị kĩ thuật. Quan điểm của Trung Quốc chỉ nhập khẩu có chọn lọc thiết bị toàn bộ cho những công trình lớn, nhưng rất cá biệt, Trung Quốc ưu tiên nhập khẩu kĩ thuật và công nghệ để cải tạo các xí nghiệp cũ đã lạc hậu. Với quân điểm như vậy, Trung Quốc đã nhập công nghệ và kĩ thuật của trên 40 nước, chủ yếu là của Mĩ, Nhật, Anh, Pháp, Tây Đức v.v. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Trung Quốc còn tranh thủ vay vốn của quỹ tiền tệ quốc tế với điều kiện rất thuận lợi và chú trọng sử dụng có hiệu quả. Năm 1982, Trung Quốc đã vay của ngân hàng thương mại quốc tế 10,8 tỉ đô la để thanh toán tiền nhập khẩu thiết bị đồng bộ. Bên cạnh đó các nước Tây Đức, Nhật, Anh v.v... cũng cung cấp tín dụng dài hạn với lãi suất ưu đãi cho Trung Quốc. Tháng 10 - 1984, Tây Đức cho Trung Quốc vay 50 triệu mác, với lãi suất 2% trả trong 30 năm. Với chính sách mở cửa của Trung Quốc, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư trực tiếp. Từ 1978 - 1985, vốn đầu tư của tư bản nước ngoài vào các xí nghiệp hợp doanh là 16,2 tỉ đô la, trong đó 5 tỉ đô la đầu tư vào thăm dò và khai thác dầu mỏ, số còn lại là đầu tư vào công nghiệp nhẹ, điện tử, hoá chất, luyện kim... Nhìn vào hoạt động đầu tư của nước ngoài vào Trung Quốc chủ yếu tập trung vào sản xuất, chiếm tới 70% trong tổng số xí nghiệp tư bản nước ngoài đầu tư, do vậy, số xí nghiệp phi sản xuất chỉ chiếm 25%. Hoạt động đầu tư của nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các đặc khu kinh tế và thành phố mở cưả. Tỉnh Quảng Đông năm 1979, giá trị sản phẩm sản xuất ra là 60 triệu nhân dân tệ, nhưng tới năm 1987 là 8 tỷ nhân dân tệ. Như vậy, mức tăng trưởng thật là thần kỳ, gấp 120 lần. Nhìn chung trong những năm qua, chính sách mở cửa đã đem lại những kết quả đáng chú ý. ở Trung Quốc, việc đầu tư của nước ngoài làm xuất hiện 5.000 xí nghiệp hợp doanh, 120 xí nghiệp nước ngoài độc doanh. Tính tới năm 1987, có 40 nước trên thế giới tư bản đã đầu tư kinh doanh vào Trung Quốc với 8,796 hợp đồng ký kết. Trung Quốc đã sử dụng 31,9 tỷ đô la vốn đầu tư của nước ngoài. Trong quá trình hợp tác kinh doanh, Trung Quốc đã sử dụng 7.000 kỹ sư kỹ thuật viên của các nước Anh, Pháp, Mỹ, Nhật. Riêng trong quan hệ với các nước trong khối SEV, tính tới năm 1983 sau hơn 20 năm gián đoạn, Trung Quốc và Liên Xô lại nối quan hệ kinh tế. Năm 1985, Liên Xô đã giúp Trung Quốc cải tạo lại 14 công trình công nghiệp cũ và xây dựng 7 công trình công nghiệp mới. Với các nước Đông Âu trong khối SEV, từ năm 1984 bắt đầu quay lại hợp tác với Trung Quốc. Các nước này nhận giúp Trung Quốc cải tạo 79 công trình công nghiệp giá trị 80 tỷ đô la thuộc các ngành chế tạo máy, luyện kim, hoá chất, điện tử... Trên đây là những vấn đề kinh tế diễn ra trong thời kỳ cải cách và mở cửa ở Trung Quốc đã thu được những thành tựu to lớn. Khối lượng tổng sản phẩm xã hội năm 1988 đạt 1,092 tỷ nhân dân tệ. Trung Quốc đã cơ bản giải quyết được vấn đề ăn no mặc ấm cho một tỷ người. Trung Quốc đã tạo việc làm cho 70 triệu người ở thành phố và 80 triệu nông dân đã chuyển sang khu vực kinh tế phi nông nghiệp. Tất cả những điều nêu trên phản ánh xu hướng tiến bộ trong phát triển kinh tế và tổ chức phân công lao động xã hội ở Trung Quốc. Tuy vậy trong nền kinh tế vẫn tồn tại không ít khó khăn và những khó khăn ấy không phải dễ dàng giải quyết. Cụ thể tình trạng mất cân đối giữa các ngành đã giảm nhưng việc khắc phục nó vẫn là dai dẳng, vì tốc độ tăng trưởng của công nghiệp trong những năm qua vẫn cao. ứng phó với những vấn đề này, trong việc điều chỉnh nền kinh tế, Nhà nước đã giảm đầu tư cơ bản, nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Năm 1987, đầu tư cơ bản vấn chiếm 1/3 tổng thu nhập quốc dân. Nhìn diện mạo nền công nghiệp Trung Quốc, việc hiện đại hoá có những giới hạn của nó. Do vậy, còn nhiều xí nghiệp trang bị kỹ thuật kém, sản xuất hiệu quả thấp. Trên thực tế có khoảng 1/6 số xí nghiệp bị thua lỗ trong kinh doanh và có nguy cơ phải giải thể hoặc sáp nhập. Trong nông nghiệp, Trung Quốc thực hiện chế độ khoán, tuy đã khắc phục được tình trạng bế tắc lâu dài ở nông thôn, nhưng lại phát sinh những vấn đề mới phải giải quyết. Vì khoán trong nông nghiệp đã hạn chế vai trò của khoa học kỹ thuật, mà nguyên nhân sâu xa là do điều kiện của sản xuất nông nghiệp qui định. Qua thực tế chỉ rõ khuynh hướng phân tán trong sử dụng ruộng đất đã gây khó khăn cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó chế độ khoán tới hộ nông dân làm cho tính kế hoạch phát triển kinh tế và sản xuất bị ảnh hưởng, vì hoạt động của người nông dân đơn thuần chạy theo cơ chế thị trường. Nhìn vào nông thôn Trung Quốc trong mấy năm qua, sự phân hoá xã hội diễn ra khá nhanh chóng. Hiện nay có khoảng 10% lao động ở nông thôn là những người làm thuê. Đồng thời, cũng trong hoàn cảnh ấy thì nhiều hộ nông dân giàu lên rất nhanh. Nhìn vào kinh tế Trung Quốc qua hơn 10 năm, người ra dễ nhận thấy rằng chính sách cải cách và mở cửa với nội dung chưa hoàn chỉnh của nó đã làm sâu sắc thêm những tiêu cực trong xã hội. Những hiện tượng như đầu cơ, tích trữ, tham nhũng hay hiện tượng kinh doanh sản xuất chạy theo cơ chế thị trường gây ra những căng thẳng trong tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh. Xét trên phạm vi chung của nền kinh tế, Trung Quốc chưa tìm ra những giải pháp tốt nhất để giải quyết mối quan hệ giữa quản lý vĩ mô và quản lý vi mô. Qua thực tế có biểu hiện Nhà nước chưa quản lý thống nhất các hoạt động xuất nhập khẩu trên phạm vi cả nước. Trong thời gian gần đây, khi nền kinh tế đang đứng trước những biến động, nhưng có hiện tượng Nhà nước chưa xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý hành chính và quản lý kinh doanh. Do vậy, khi giải quyết các công việc cụ thể nhiều khi còn lúng túng, bị động. Bên cạnh đó, việc Trung Quốc mở cửa ra thế giới trong những năm qua nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật, nhưng chưa đạt được ý đồ mong muốn, nhìn chung, với hoạt động đầu tư của nước ngoài chưa có qui mô lớn, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, vì nó chưa tập trung vào những ngành then chốt gắn liền với khoa học kỹ thuật hiện đại. III- Kinh tế Trung Quốc từ năm 1988 đến nay. Từ năm 1988 tới nay, công cuộc cải cách và mở cửa của Trung Quốc tiếp tục đi vào chiều sâu. Từ tháng 10 năm 1988, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh nền kinh tế, nhằm khắc phục tình trạng "quá nóng" trong phát triển và thực hiện sửa chữa, uốn nắm những sai lầm, khuyết điểm của giai đoạn trước đó. Để hạn chế tình trạng quá nóng của nền kinh tế, Trung Quốc đã kết hợp và sử dụng nhiều biện pháp nhằm "thắt chặt tiền tệ để thực hiện chính sách 4 giảm: giảm qui mô đầu tư, giảm sức mua của xã hội, giảm quỹ tiêu dùng và giảm tốc độ tăng của công nghiệp". Những biện pháp Trung Quốc áp dụng trên, có người cho rằng đất nước này lại quay về với thể chế cũ. Tuy nhiên, những biện pháp ấy là cần thiết và đem lại tác dụng hữu hiệu cho nền kinh tế Trung Quốc, nhằm hạn chế sự mất ổn định về kinh tế - xã hội trong phát triển. Thực tế cho thấy, đến cuối năm 1989 xu hướng phát triển "quá nóng" của nền kinh tế đã được trở lại. Tốc độ tăng GDP năm 1989 là 4%, năm 1990 5,3%. Riêng công nghiệp riêng 2 năm 1989 và 1990 là 8,5% và 7,8%. Do vậy mâu thuẫn cung cầu sản xuất và tiêu dùng về cơ bản đã được giải quyết, lạm phát đã được kiểm soát. Mức giá bán lẻ năm 1989 là 17,8% giảm xuống 2,1% năm 1990. Hoạt động điều tiết vĩ mô của Nhà nước đã thu được kết quả rất quan trọng. Tháng 12/1990 Hội nghị Trung ương lần thứ VII (khoá XIII) của Đảng cộng sản Trung Quốc quyết định khôi phục lại sự phát triển bình thường của nền kinh tế. Tiếp đó Đại hội lần thứ XIV của Đảng cộng sản Trung Quốc họp tháng 10/1992 đã quyết định dứt khoát chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu của cải cách kinh tế. Với quyết định này, cơ chế thị trường ở Trung Quốc dần được hình thành đồng bộ với các loại thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường công nghệ và thông tin, thị trường bất động sản. Trung Quốc cũng chủ trương thực hiện chiến lược "tăng tốc" do Đặng Tiểu Bình vạch ra. Mục tiêu chiến lược này là đưa Trung Quốc phát triển lên một giai đoạn mới với việc tăng nhanh tiềm lực quốc gia, phát huy uy tín quốc tế, chính trị của Trung Quốc trên trường quốc tế. Hướng tới mục tiêu trên, Trung Quốc thực hiện giảm dần sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp và chủ trương mở cửa ra mọi hướng, đa biên hoá. Trong lĩnh vực thu hút vốn từ nước ngoài, thì vốn vay tín dụng của Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 1993 là 60 tỷ đô la; cũng trong thời gian ấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã ký kết là 122,7 tỷ đô la. Nhìn chung, từ năm 1986 đến năm 1992 lượng vốn nước ngoài thu hút vào Trung Quốc tăng nhanh, bình quân hàng năm là 22,5%. Cải cách và mở cửa, lấy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu tiếp tục đem lại cho Trung Quốc những thành tựu kinh tế mới. Giá trị sản lượng công nông nghiệp tiếp tục tăng. Năm 1992, giá trị sản lượng nông nghiệp đạt 574,4 tỷ nhân dân tệ. Sản xuất trong nước có nhiều tiến bộ, do vậy kim ngạch thương mại của Trung Quốc tiếp tục tăng lên. Năm 1993 đạt 195,7 tỷ đô la. Năm 1978 ngoại thương Trung Quốc đứng thứ 32 thì năm 1992 vươn lên đứng thứ 11 trong nền kinh tế thế giới. Từ những chuyển biến trên, giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 1993 đạt 3,138 tỷ nhân dân tệ. Bên cạnh những thành tựu kinh tế đạt được, Trung Quốc cũng đang đứng trước không ít những khó khăn về kinh tế xã hội. Nợ nước ngoài năm 1993 lên tới 69 tỷ đô la. Hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng, khi môi trường ngoại thương quốc tế đã và đang phát triển theo hướng tập đoàn hoá làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa chủ nghĩa bảo hộ với ngoại thương, gây nhiều khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Về tình hình kinh tế xã hội trong nước, giữa các vùng có sự chênh lệch lớn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35240.doc
Tài liệu liên quan