Đề tài Phân tích nội dung và tiền đề của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

A – Lời mở đầu 1

B – Nội dung 2

I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, Hiện đạI hoa. 2

1. Các giai đoạn, các bước của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2

2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các loại công nghiệp hoá. 3

3. Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. 3

4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 5

II. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá 5

1. Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. 6

2. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý. 7

3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 10

III. Mục đích, phương hướng, những thuận lợi và khó khăn trong CNH-HĐH. 11

1. Mục đích của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 11

2. Kinh tế Việt Nam những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 12

3. Đường lối cụ thể của Nhà nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 13

4. Những điểm thực tế của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 14

5. Những giải pháp. 15

6. Những thuận lợi. 16

C. Kết luận 17

Tài liệu tham khảo 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích nội dung và tiền đề của Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghệ có những bước phát triển lớn . Những đổi mới về điện, hoá hữu cơ, động cơ đốt trong, vô tuyến … được xem là cửa sổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai. Cho đến năm 1914 – 1950 , do xảy ra hai cuộc thế chiến làm cho thế giới trở lên hỗn loạn, chủ nghĩa tự do và thị trường toàn cầu sụp đổ. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc , công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh về cơ bản đã hoàn thành nền kinh tế thế giới bước vào một thời kỳ phát triển về sản xuất và thương mại chưa từng có. Công nghiệp chế tạo tăng trưởng mạnh, công nghệ viễn thông có một bước tiến nhảy vọt … và đặc biệt tin học giúp ích cho con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau và ngày càng được ssử dụng phổ biến. Vì thế, thế giới ngày nay có thể coi là thế giới của điện tử, tin học và truyền hình toàn cầu. 2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các loại công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân , biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển , thành một nước công nghiệp hiện đại . Điều này cũng thật dễ hiểu và tất yếu xảy ra bởi vì bất cứ một cuộc thay đổi nào, một cuộc cách mạng nào ( cách mạng về chính trị, cũng như cách mạng về kinh tế ) đều mang đến những kết quả tiến bộ hơn, hiện đại hơn đáp ứng được nhu cầu của con người. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người đã diễn ra hai quá trình công nghiệp hoá . Đó là công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá ở các nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa là quá trình chuyển nền sản xuất nhỏ lạc hậu , phong kiến, kỹ thuật thủ công sang nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa tiến bộ lấy đại công nghiệp cơ khí làm nền tảng. Công nghiệp hoá ở các nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, ở các nước này do bị sức ép từ nền công nghiệp của các nước tư bản chủ nghĩa nên cũng phát triển mạnh công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí. Nhưng sau khi vấp phải nhiều sai lầm và bị thất bại. 3. Tính tất yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. ở nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa , nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa , nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa , trong đó nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là “ Cái cốt vật chất ” của xã hội mới. Từ một nước mà nền sản xuất nhỏ là chủ yếu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa muốn xây dựng được cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội thì con đường duy nhất mang tính quy luật là tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Như ta đã biết, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại là một quy luật chung phổ biến đối với tất cả các nước. Tuy nhiên tuỳ từng thời kỳ, tuỳ từng nước khác nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại cũng không giống nhau. Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền sản xuất nhỏ kỹ thuật thủ công là chủ yếu thì công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại. Việc thực hiện và hoàn thành tốt công nghiệp hoá có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt to lớn và có tác dụng về nhiều mặt. Công nghiệp hoá là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất làm thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ làm tăng năng suất lao động. Công nghiệp hoá thậm chí là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật, tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao góp phần ổn định và ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Trong những điều kiện mới của sự phát triển kinh tế, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng trong phạm vi một nước và giữa các quốc gia với nhau ngày càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước. Nâng cao khả năng tích mở rộng sản xuất làm xuất hiện thêm nhiều ngành mới để từng bước giải quyết nhu cầu về việc làm cho người lao động. Tất cả các nhiệm vụ này chỉ có thực hiện tốt trên cơ sở thực hiện đầy đủ và đúng đắn quá trình công nghiệp hoá. Trong xã hội ngày nay , nhân tố con người đang trở thành vấn đề trung tâm. Điều đó hỏi phải không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất, đặc biệt trong nền sản xuất lớn, hiện đại, kĩ thuật cao. Để phát huy đầy đủ vai trò của mình, con người tất yếu phải là con người hiện đại , có kĩ thuật cao, công nghệ tiên tiến. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện của nhân tố con người. Hơn nữa, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá để tạo điều kiện vật chất kĩ thuật cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng vững mạnh thì chúng ta mới yên tâm phát triển kinh tế và phát triển kinh tế mạnh mới tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền quốc phòng phát triển. Ngoài ra, công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học và công nghệ … Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ mang tính tất yếu mà còn mang tính cấp bách tránh cho đất nước không bị tụt hậu về kinh tế so với các nước láng giềng trong khu vực cũng như so với các nước trên thế giới. 4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta thấy rằng từ một nước nghèo nàn lạc hậu, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Ngay như Liên Xô - cái nôi của cách mạng đi nên chủ nghĩa xã hội cũng phải tiến hành công nghiệp hoá . Tiến hành công nghiệp hoá là để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền kinh tế phát triển mạnh , tạo nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế. Bởi vậy, chúng ta coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. II. nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá là bước đi tất yếu mà các quốc gia sớm muộn cũng phải vượt qua. Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ , công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá . Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá là trang bị kỹ thuật mới hiện đại, là xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với việc tổ chức phân công lại lao động và đôỉ mới chính sách đầu tư đưa nước nhà từ kém phát triển thành quốc gia có nền kinh tế phát triển. 1. Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Lịch sử và kinh nghiệm công nghiệp hoá trên thế giới cho thấy việc trang bị công nghệ cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân diễn ra qua 2 con đường: Công nghiệp hoá cổ điển (tự trang bị, tự xây dựng) và công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá và mở cửa thông qua chuyển giao công nghệ . Lịch sử cũng cho thấy rằng công nghiệp hoá theo kiểu cổ điển chỉ thích ứng với thời kỳ đầu của các nước đầu tiên làm công nghiệp hoá ( nước Anh ) gắn liền với kinh tế đóng kín về mặt hàng và công nghệ. Tiến trình cách mạng công nghệ và công nghiệp hoá diễn ra theo trật tự từ thủ công đến nửa cơ khí, từ công nghiệp nhẹ lần lượt từng bước sang công nghiệp nặng. Việc sản xuất máy móc lúc đầu do những người thợ có tay nghề cao, chế tạo bằng phương pháp thủ công và kéo dài cho tới khi xuất hiện công xưởng với những máy công cụ và ngành chế tạo công cụ ra đời. Từ kinh nghiệm của nước Anh, các nước tư bản đi sau đã rút ngắn được thời gian phát triển nhờ giảm bớt được thời kỳ mò mẫm, nhưng họ chưa có điều kiện rút ngắn đáng kể thời gian và trình độ do quy luật phát triển tuần tự đang còn ngự trị. Các nước chọn con đường xã hội chủ nghĩa nói chung tiến hành công nghiệp hoá theo mô hình cuả Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Thực chất đây là công nghiệp hoá theo kiểu cổ điển nhưng theo hướng khác và có sự cải biến nhất định đó là không đi từ công nghiệp nhẹ mà lại đi từ công nghiệp nặng. Điều này có nguyên nhân khách quan: là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên nên Liên Xô không có cách nào khác là phải nhanh chóng tạo ra cho mình cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh để có thể tồn tại và phát triển trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản . Sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới tác động của quy luật phát triển không đều và cuộc cách mạng và công nghệ mô hình công nghiệp hoá của các nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội bắt đầu có sự thay đổi . Các nước đó không thể không tính đến bối cảnh lịch sử mới và tính đến cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Song do nhiều nguyên nhân, nhất là do mô hình kinh tế chỉ huy, do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Do những khó khăn về vốn và đổi mới công nghệ, các nước đó đã không đổi mới được bao nhiêu mô hình công nghiệp hoá của mình và kết quả đều lâm vào tình trạng khủng hoảng đổ vỡ. Mô hình công nghiệp hoá của nước ta chịu ảnh hưởng không nhỏ của mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô nên cũng không tránh khỏi tình trạng trên , đặc biệt là giai đoạn 1960 –1986 nền kinh tế nước ta trì trệ và hầu như không phát triển. Thực tế cho thấy con đường công nghiệp hoá cổ điển nói chung và mô hình công nghiệp hoá ở các nưóc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ( trong đó có nước ta ) nói riêng có những hạn chế nhất định. Với mô hình đó sẽ không tránh khỏi tình trạng: - Lạc hậu về thế hệ công nghệ, do đó khó đuổi kịp các nước cá trình độ cao về phát triển kinh tế và văn minh xã hội. - Không tận dụng được các nguồn lực, các lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh, các sản phâm làm ra không có khả năng cạnh tranh, do đó khó hội nhập với thị trường thế giới. Vì vậy, nếu cứ giữ mô hình đó sẽ không tránh khỏi lạc hậu, lạc điệu và lạc lõng trước bước tiến như vũ bão của thế giới. Ngày nay, nền kinh tế trên thế giới là nền kinh tế mở, khả năng tận dụng , tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nước phát triển là dễ dàng do đó có thể rút ngắn thời gian cần thiết để từ một nứoc chậm phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển , điều mà nếu áp dụng mô hình công nghiệp hoá cổ điển không thể đạt được. Do đó con đường sẽ được chọn đối với các nước tiến hành công nghiệp hoá muộn sẽ là con đường “ Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và quốc tế hoá qua chuyển giao công nghệ ” và đó là con đường mà chúng ta đã , đang và sẽ thực hiện để trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế. 2. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý. Nói đến cơ cấu kinh tế là muốn nói trong nền kinh tế có bao nhiêu ngành ( bộ phận ) hợp thành và mối liên quan giữa các ngành đó như thế nào . Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế cho phép ta khai thác được mọi tiềm năng bên trong và các lợi thế so sánh bên ngoài của đất nước. Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy được thế mạnh về lao động , đất đai truyền thống ngành nghề, tạo một thế đứng cho nước ta trong tương lai trên thị trường thế giới, tham gia có hiệu quả vào việc phân công lao động và hợp tác quốc tế, bảo đảm sự phát triển có hiệu quả với năng suất cao cho toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá , cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Phản ánh đúng đắn các yêu cầu của các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật kinh tế. - Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới hiện nay. - Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. - Tính hợp lý của cơ cấu còn phải đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên lao động của nước phát triển muộn về công nghiệp. Chỉ có như vậy mới cho phép khai thác tối đa và có hiệu quả những tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương, và các đơn vị kinh tế cơ sở. Từ những yêu cầu đó, Đảng ta đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu sang nền kinh tế có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một nền kinh tế tự nhiên (tự cung, tự cấp) sang nền kinh tế hàng hoá tương đối phát triển với thị trường nội địa thống nhất toàn quốc và mở rộng giao lưu trên thị trường thế giới. Kết hợp cơ cấu hướng ngoại và hướng nội để giảm nhẹ các chấn động có hại của thị trường thế giới. Phải tăng nhanh khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ, thực hiện công nghiệp hoá theo nghĩa xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Để cơ cấu kinh tế có thể chuyển dịch một cách linh hoạt , theo kịp với đà tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ cần hạn chế các công trình có quy mô lớn , hết sức coi trọng các công trình có quy mô vừa và nhỏ vốn đầu tư ban đầu đòi hỏi còn ít, thời gian xây dựng ngắn và hệ số hoàn vốn cao. Chủ trương công nghiệp hoá nước ta mấy thập kỷ trước đây ( cụ thể từ năm 1986 trở về trước ) thực hiện chưa được thành công là do: - Chưa hiểu đúng nội dung , bước đi của công nghiệp hoá phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta cộng thêm với tư tưởng chủ quan, nóng vội. - Xuất phát điểm của nước ta từ một nền kinh tế kém phát triển: sản xuất không đủ tiêu dùng, xuất không đủ nhập, thu không đủ chi … nên không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. - Có thiếu sót trong việc chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư nên mang lại hiệu quả thấp. - Cơ chế quản lý kinh tế theo kiểu bao cấp làm triệt tiêu động lực phát triển sản xuất. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đạt thấp, nhất là khu vực kinh tế quốc doanh. - Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế của khối SEV cũ mang nặng tính hình thức . Việc phân công hợp tác liên doanh chưa đáng kể. Thời gian từ nay đến cuối thế kỷ, trước mắt nhân dân ta cũng gặp những thách thức lớn. Đồng thời cũng có những thuận lợi rất cơ bản như: - Từ những thành tựu của công cuộc đổi mới trong mấy năm qua ( đặc biệt là từ năm 1991 đến nay ) đã chứng minh được đường lối đúng dắn của Đảng, tạo ra thế lực mới cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Tài nguyên phong phú , nguồn lao động dồi dào và có tri thức văn hoá chuyên môn khá . Công suất máy móc sử dụng chưa được 90%. Đó là những tiềm năng quan trọng mà ta có khả năng khai thác được trong thời gian tới. - Xu thế mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực … tạo đIều kiện thuận lợi cho ta tiếp nhận vốn, kỹ thuật và công nghệ , kinh nghiệm quản lý của các nước. - Ta có lợi thế so sánh với các nước trong khu vực về vị trí địa lý, bờ biển để xây dựng các sân bay , bến cảng lớn , lập các khu chế suất dọc bờ biển, lập các trạm, kho trung chuyển, hàng hoá cho các nước trong khu vực. Với các thuận lợi cơ bản nói trên , trong một thời gian không lâu chúng ta nhất định thực hiện được nhiệm vụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hương công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (1993) CNH là một quá trình phát triển kinh tế trong quá trình này nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao , đảm bảo đạt tới sự tiến bộ kinh tế – xã hội. Còn hiện đại hoá ( theo định nghĩa của trường đại học Harward – 1994 ) là sự đầu tư một cách hệ thống , lâu dài và có định hướng để thực hiện mục đích của con người. Như vậy, CNH và HĐH luôn là điều kiện tiền đề của nhau, nhịp điệu nhanh chóng của quá trình phát triển kinh tế xã hội là cơ sở để gia tăng đầu tư một cách có hệ thống. Ngược lại, đầu tư gia tăng sẽ thúc đẩy cơ cấu nhiều ngành với kỹ thuật ngày càng hiện đại. Chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hoá một cách nóng vội, chủ quan mà phải tiến hành trong một quá trình phấn đấu liên tục và lâu dài, từng giai doạn phải có bước đi thích hợp. Trong đại hội đảng, thực hiên nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương khoá 7 đã chỉ rõ: Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo đúng định hướng XHCN, muốn vậy trong khi phát triển kinh tế nhiều thành phần phải luôn luôn đảm bảo thành phần kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh là nền tảng của kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường sinh thái để từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ không chỉ có trình độ, có sức khoẻ mà còn có phẩm chất tốt. Tiến hành công nghiệp hoá phải giữ vững độc lập chủ quyền, đi đôi với việc mở rộng hợp tác quốc tế , tận dụng mọi nguồn vốn trong đó vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, chúng ta kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng các sản phẩm trong nước. Cần lấy hiệu quả kinh tế, xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển, lựa chọn dự án đầu tư về công nghệ, trừ những tổ chức có nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ quốc phòng , an ninh và phúc lợi xã hội, tiêu chuẩn hiệu quả quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp là kinh doanh có lãi một cách hợp pháp . ở tầm vĩ mô, nhà nước xem xét hiệu quả toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh và môi trường sinh thái cả trước mắt và lâu dài. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá là công việc của toàn xã hội, toàn Đảng, toàn dân phải đồng tâm nhất trí, đoàn kết một lòng , nêu cao tinh thần tự lực tự cường , ra sức làm ăn có hiệu quả, đặc biệt cần phải đề cao ý thức cần kiệm để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. III. Mục đích, phương hướng, những thuận lợi và khó khăn trong CNH-HĐH. 1. Mục đích của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đại hội Đảng lần VIII Đảng ta khẳng định xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Nước ta chuyển sang thời kỳ mới thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện đang là mục tiêu của toàn thế giới. Đối với nước ta theo tư tưởng cơ bản của học thuyết Mác về hình thái kinh tế nhận thức một cách khoa học và sâu sắc về cơ sở lý luận của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta là tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại thay thế cho nền kinh tế Nông nghiệp lạc hậu, quá trình dịch chuyển kinh tế gắn với đổi mới, về công nghiệp tạo nền tàng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền cho nền kinh tế quốc doanh. Vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất bên cạnh đó xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Đặc biệt là xây dựng Nhà nước chủ nghĩa xã hội do dân và vì dân. 2. Kinh tế Việt Nam những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá Những nhận thức sai lầm về công nghiệp hoá của quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuối những năm 70 khủng hoảng kinh tế xã hội với khó khăn lạm phát phi mã. Khi đó là do tư duy lý luận lạc hậu, lý luận giữa thực tiễn và tư duy cũ cách quá xa. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo mô hình tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến sự trí tuệ, ỷ lại, lười nhác phụ thuộc vào Nhà nước, lợi dụng sơ hở mưu lợi cá nhân, đục nước béo cò. Dẫn đến không có sự cạnh tranh, không công phát minh sáng kiến chậm học hỏi.... Sản phẩm không đủ chất và lượng càng dẫn đến lạm phát kìm hãm sự phát triển đất nước. Dựa trên cơ sở lý luận khoa khọc là sự vượt trượt kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng. Điều mà chúng ta đã mắc sai lầm là vì chúng ta rút ngắn thời kỳ quá độ, tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan chưa thật sự thấu đáo về công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và công nghiệp hoá - hiện đại hoá dẫn đến kìm hoãm nền kinh tế, vay nợ, lạm phát trầm trọng. Đó là do tư tưởng chủ quan duy ý chí nông nổi đi lên chủ nghĩa xã hội. Cụ thể: Về Nông nghiệp lạc hậu làm lãng phí đâta, sức lao động, thiếu thốn lương thực do nông dân chây lười ỷ lại, công cụ lạc hậu thô sơ từ đó ảnh hưởng đến nền công nghiệp nước nhà. 3. Đường lối cụ thể của Nhà nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Quán triệt quan điểm thực tiễn cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của Mác – Lênin. Mục tiêu mà Đảng VIII đề ra là sự hoà hợp cụ thể thống nhất về hình thức kinh tế xã hội. Luôn đúng đắn sáng tạo mối quan hệ cơ bản, bản chất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự đổi mới phức tạp phải có khoa khọc soi sáng. Thực tiễn là cơ sở nhận thức của lý luận. Qua thực tiễn rồi mới có cơ sở để khẳng định thành lý luận. Trong thời hiện đại mọi sự phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa khọc xã hội vì vậy con đường ngắn nhất để đuổi kịp các nước có nền kinh tế phát triển là phải công nghiệp hoá gắn liền với giao thông công nghệ. Đại hội Đảng khoá VII Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định đúng đắn về vấn đề này như sau “trong xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đồi sống khoa khọc phải gắn liền với hiện đại hoá, nâng cao trình độ công nghệ... tận dụng thế của nước đi sau chúng ta tập trung hết cho việc tiếp thu những thành tựu khoa khọc thế giới. Nổ lực thúc đẩy những ngành mũi nhọn những điểm manh, tạo lợi thế cho việc cạnh tranh cả về kinh tế cũng như về công nghệ cho sự phát triển nhanh và vững chắc của nền kinh tế. Chuyển giao công nghệ, nhập công nghệ hiện đại đi đôi với việc phát triển nội sinh là biện pháp hữu hiệu để cho nền kinh tế nước nhà hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Đảng đưa ra một số giải pháp hữu hiệu trong công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào qua con đường trao đổi và mua bán thị trường thế giới. Kênh chuyển giao công nghệ còn đươc thực hiện dưới hình thức trao đổi thị trường, đào tạo huấn luyện các cán bộ khoa khọc, nhân viên kỹ thuật công nhân lành nghề. Song phải có trình độ đầu tư cao, ham hiểu biết đảm bảo tốt tích luỹ đầu tư trong nước, xuất nhập khẩu công nghệ phải tương đối cân bằng. Nâng cao năng lực quản lý vĩ mô. 4. Những điểm thực tế của công nghiệp hoá - hiện đại hoá Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá không đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp mà còn là quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về kinh tế và hiện đại hoá các ngành kinh tế quốc doanh cụ thể là: Đầu tiên là chuyển đổi cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ, phù hợp với kinh tế thời mở cửa. Hướng dịch chuyển đó là các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỷ lệ sản lượng chiếm phần lớn trong GDP .. tỷ trọng giá trị sản lượng Nông nghiệp giảm nhưng tỷ trọng xuất hàng năm tăng. Nông nghiệp vẫn là hàng mũi nhọn khuyến khích đầu tư công nghệ kỹ thuật cho sản phẩm Nông nghiệp phù hợp với sinh thái nước ta. Công nghiệp hình thành một số ngành có công nghệ hiện đại hiệu quả kinh tế coa các ngành thuộc kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước (than, dầu khí, thuỷ hải sản...). Nâng cao trình độ và năng lực các ngành kỹ thuật, Ngân hàng và viễn thông. Giảm bớt một số ngành không có nhiều triển vọng. b. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá Nông nghiệp nông thôn: Nước ta phân hoá là người dân làm Nông nghiệp, sản phẩm Nông nghiệp là thế mạnh của nước ta hiện nay vì vậy cần có những nước đầu tư thích đáng. áp dụng khoa khọc kỹ thuật vào Nông nghiệp, chọn giống phù hợp với điều kiện sinh thái, chế biến tiêu thụ rau quả, phát triển ngành công nghiệp nhẹ có liên quan như công cụ nhà nông, thuốc trừ sâu không độc hại. Mạnh mẽ đầu tư cho nông dân vay vốn. Thu gom sản phẩm Nông nghiệp để xã hội khuyến khích người lao động. c. Xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế: Kết cấu hạ tầng là nền móng cho một nền kinh tế phát triển. Cần đảm bảo cho một cơ sở hạ tầng vững chắc để bước vào một trang sử mới của thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Hệ thống giao thông vận tải cần được nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống viễn thông điện khí hoá, cung cấp nước sạch cho nhân dân cụ thể, xây dựng quốc lộ 1A, nhà máy thuỷ điện Hoà bình, gang théo Thái Nguyên, Xi măng Bỉm sơm. Xây dựng trung tâm đại học, y tế thể dục, thể thao quốc gia.... d. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự tham gia của các thành phần kinh tế sau những năm nước ta có chính sách mở cửa. Nền kinh tế của nước ta cộng với những chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước đã cạnh tranh nhau tạo sự phát triển có hiệu quả đẩy nước ta lên nấc thang công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. 5. Những giải pháp. Để thực hiện tốt mục tiêu mà Đảng đã đề ra là công nghiệp hoá - hiện đại hoá làm cho xã hội công bằng văn minh, chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất thì nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất. Không chỉ dựa vào năng suất của Nông nghiệp mà còn phải phát triển mạnh cả công nghiệp với công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao quan trọng nữa là học thức của nhân dân những người lao động có như vậy thì mới có thể hiện đại hoá nền kinh tế. R

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34587.doc
Tài liệu liên quan