Dòng tiền từ hoạt động đầu tư biến đổi qua các năm.
Năm 2007 và năm 2008: Dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư dương. Điều này không có nghĩa
là công ty không có các dự án đầu tư, mà tác động của dòng tiền dương là do tiền thu vào từ thu
hồi vốncho vay, bán các công cụ nợ, thu lãi vay và được chia cổ tức Công ty vẫn có các dự án
đầu tư như năm 2007. Ngoài ra, công ty còn đầu tư rất nhiều vào xây dựng cơ bản.
Công ty đã tham gia đấu giá và mua lại thành công Công ty Mía đường Trị An với mức giá
là 53.9 tỷ đồng.
Triển khai Dự án Cụm chế biến công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông: đền bù giải
phóng mặt bằng cho dự án cụm chế biến công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông thuộc
huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh.
Năm 2009: dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh đầu tư lại âm. Một trong những lý do chủ yếu
đó là năm 2009 thị trường tài chính dần dần phục hồi bình ổn nên công ty đã đầu tư một nguồn
vốn khá lớn vào các công cụ tài chính. Bên cạnh đó,dòng thu từ các công cụ tài chính cũng giảm
đáng kể so với năm 2008 (4.751.325.822 VND so với 53.961.073.387 VND) làm cho dòng tiền
âm.
21 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2593 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tài chính công ty cổ phần đường Biên Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iảm mạnh là cơ hội
tốt cho việc phục hồi nhanh vùng mía tại khu vực Đông Nam Bộ nói chung và Đồng Nai, Tây
Ninh nói riêng.
Giới thiệu sơ lược về công ty cổ phần
đường Biên Hòa
Vị thế Công ty
Đường Biên Hòa có hệ thống phân phối sản phẩm trải đều trên cả nước, bao gồm hơn 100
đơn vị sản xuất sử dụng đường làm nguyên liệu đầu vào và trên 130 nhà phân phối, đại lý, siêu
thị trực tiếp bán sỉ, bán lẻ trên thị trường tiêu dùng. Thị trường xuất khẩu của Công ty là một
số nước trong khối ASEAN, Trung Quốc và Iraq.
Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa là đơn vị duy nhất có nhà máy luyện đường chuyên
biệt, có khả năng sản xuất đường luyện quanh năm, không phụ thuộc nhiều vào mùa vụ với
chất lượng cao.Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa có lợi thế là đơn vị duy nhất cung ứng sản
phẩm đường phong phú, đa dạng mà các đơn vị khác chưa cạnh tranh được như sản phẩm
đường có bổ sung vitamin A “ SugarA"
Rủi ro Kinh doanh chính
Năm 2009 dự báo sẽ còn nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế tiếp tục lan rộng, sức mua bị
hạn chế, trong đó có Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu đường có thể bị thu hẹp do mức độ hạn chế, thắt chặt chi tiêu của các
nước nhập khẩu.
Hoạt động sản xuất, huy động nguyên liệu tại Nhà máy Đường Biên Hòa - Trị An còn phải
vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, đặc biệt là nguồn nguyên liệu mía do “dư âm” của Công ty
Mía Đường Trị An (đơn vị cũ) để lại cần sớm được khắc phục để đạt hiệu quả trong thời gian
tới.
1. Lịch sử hình thành
Công ty cổ phần đường Biên Hòa được xây dựng từ năm 1969 với tiền thân là Nhà máy
đường 400 tấn, sản phẩm chính lúc bấy giờ là đường ngà, rượu mùi, bao đay.
- Đến năm 1971 – 1972, đầu tư Nhà máy đường tinh luyện.
- Năm 1994, nhà máy đường Biên Hòa đổi tên thành Công ty đường Biên Hòa.
- Năm 1995, để mở rộng sản xuất Công ty đường Biên Hòa tiến hành đầu tư mở rộng công
suất đường luyện tại Biên Hòa từ 200 tấn/ngày lên 300 tấn/ngày và khởi công xây dựng nhà
máy đường Tây Ninh (hiện nay là nhà máy Đường Biên Hòa – Tây Ninh). Sau hơn 2 năm thiết
kế, thi công và lắp đặt, Nhà máy đường Tây Ninh đã chính thức đi vào hoạt động ngày
26/03/1998 với công suất chế biến là 2.500 tấn mía/ngày, đến năm 2001 đã đầu tư nâng công
suất chế biến lên 3.500 tấn mía/ngày.
- Ngày 27/03/2001, theo Quyết định số 44/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc
chuyển doanh nghiệp Nhà nước Công ty đường Biên Hòa thành công ty cổ phần, quá trình cổ
phần hóa Công ty đã diễn ra và được Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh vào ngày 16/05/2001. Công ty cổ phần đường Biên Hòa ra đời.
- Ngày 30/08/2006, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký phát
hành số 51/UBCK-ĐKPH. Công ty đã phát hành bổ sung cổ phần để huy động vốn, vốn điều
lệ của Công ty tăng từ 81.000.000.000 đồng lên 162.000.000.000 đồng. BHS vẫn trung thành
với ngành kinh doanh truyền thống của mình là sản xuất đường, rượu và các sản phẩm sau
đường bằng việc đầu tư vào các dự án như: Dự án đốt lò hơi đốt than công nghệ thế hệ mới;
xây dựng cụm chế biến công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông-Tây Ninh… để hạ giá thành
sản phẩm, chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất.
Chiến luộc phát triển của công ty vẫn hướng đến tính bền vững theo chiều sâu nhiều hơn là
kinh doanh dàn trải qua các lĩnh vực khác. Sở dĩ vẫn tiếp tục phát triển theo chiều sâu là do
tiềm năn phát triển ngành trên thị trường đang còn, công ty đang có những lợi thế hơn so với
các doanh nghiệp khác trong cùng lĩnh vực.
2. Định hướng phát triển
Hiện nay, để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, các Công ty đều phải tìm biện
pháp tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ, hạ giá thành sản phẩm. Công ty Cổ phần Đường Biên
Hòa đang khẩn trương hoàn thiện các dự án:
Đưa lò hơi đốt than công nghệ thế hệ mới với công suất 30 tấn hơi/giờ vào hoạt động,
nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm.
Xây dựng và phát triển cụm chế biến công nghiệp phía tây sông Vàm cỏ đông, chủ
động nguyên liệu đáp ứng đủ nhu cầu cho hoạt động sản xuất với mục tiêu cung ứng ra
thị trường 100.000 tấn đường tinh luyện hàng năm.
Định hướng phát triển của Công ty phù hợp với các chính sách của Nhà nước và xu hướng
phát triển chung của ngành đường thế giới.
3. Sơ đồ tổ chức bộ máy
Hội đồng quản trị của công ty bao gồm 10 người. Đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản
trị: ông Thái Văn Trượng, tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành kinh tế, với nhiều năm kinh nghiệm
thực tế, đảm nhiệm chủ tịch hội đồng quản trị nhiệm kỳ III (2007-2011), là người có năng lực và
giàu kinh nghiệm. Vì vậy, chắc chắn công ty sẽ phát triển tốt hơn nữa trong tương lai. Ngoài ra,
các thành viên trong hội đồng quản trị của công ty đều là những người có nhiều năm kinh nghiệm
trong lĩnh vực kinh doanh sản xuất, đều tốt nghiệp cử nhân kinh tế, các trường đại học khác như
bách khoa, công nghiệp. Họ đều có kinh nghiệm và kiến thức cần thiết cho quá trình phát triển
của công ty. Ngoài ra, công ty còn có: ban giám đốc, kế toán trưởng và ban kiểm soát công ty,
đảm bảo một bộ máy hoạt động minh bạch và hiệu quả cao.
4. Vốn điều lệ
Vốn điều lệ của Công ty cổ phần đường Biên Hòa là 185.316.200.000 VND.
5. Hệ thống phân phối
Với hệ thống hơn 200 đại lý trải dài từ Bắc đến Nam và 4 chi nhánh tại: thủ đô Hà Nội, thành
phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ, các sản phẩm của Công ty đã
được đông đảo người tiêu dung trong cả nước biết đến và tin dùng.
6. Vị thế công ty trong ngành
Công ty đường Biên Hòa đã được thành lập 41 năm, có thể nói là một trong những công ty
đường được thành lập sớm nhất ở Việt Nam. Vì vậy, sản phẩm đường Biên Hòa trở thành một
thương hiệu quen thuộc đối với người dân Việt Nam và các doanh nghiệp trong nước. Cùng
với cơ cấu sản phẩm đa dạng và hơn 200 đai lý trải dài từ Bắc xuống Nam, thị phần công ty
chiếm một vị trí không nhỏ trong ngành sản xuất đường cả nước.
Phân tích tình hình tài chính của công ty
I. Phân tích dòng tiền
1. Phân tích dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Hình 1: Biểu đồ thể hiện dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của BHS diễn biến tăng giảm
qua các thời kỳ (trong đó có năm 2007 – 2009)
Năm 2007: Dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh âm. Lý do một phần là do giá
đường bán ra giảm làm cho doanh thu bị sụt giảm, bên cạnh đó, các khoản chi trả cho chi
phí từ hoạt đọng sản xuất kinh doanh cao hơn so với dòng tiền thu vào. Mặc dù trong năm
nay, các khoản chi trả cho thuế và lãi vay có giảm nhiều so với năm các năm trước nhưng
vẫn không bù đắp được cho khoản chi ra.
Năm 2008: do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, chi phí tài chính của công ty tăng đột
biến. Giá chứng khoán liên tục giảm nên BHS đã trích lập dự phòng cho tổn thất đầu tư
chứng khoán lên tới 44 tỷ đồng và cũng trong năm này, lãi suất tăng từ 0,81%/tháng lên
đến 1.75%/tháng làm cho chi phí lãy vay của BHS tăng hơn 100% so với năm 2007. Doanh
thu năm 2008 có tăng lên nhưng vẫn không bù đắp được các khoản chi phí tài chính khá
lớn này nên BHS bị lỗ cả năm. Tuy nhiên, dòng tiền thuần năm 2008 vẫn dương là do
khoản dự phòng giảm giá chứng khoán chỉ mới được thành lập, công ty chưa bán các
chứng khoán này nên khoản lỗ này chưa được tính là khoản tiền chi ra, ngoài ra còn là do
công ty thu tiền từ bán hàng năm 2007.
Năm 2009: Hình 1 thể hiện dòng tiền thuần trong 3 quý đầu năm cho thấy, khi khủng
hoảng tài chính dần dần lắng xuống, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của BHS thật
sự có chuyển biến tốt. Đây là điều đáng mừng cho BHS cũng như các nhà đầu tư vào công
ty. Cho đến quý 3 năm 2009, dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty đã tăng
lên đáng kể so với năm 2009. Đây là kế quả từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ,
hoàn nhập dự phòng của khoản đầu tư tài chính.
So sánh thu nhập ròng sau thuế và dòng tiền thuần từ hoạt đọng sản xuất kinh doanh
Rõ ràng dòng tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh thường luôn cao hơn thu
nhập ròng của công ty (ngoại trừ năm 2007), điều này phát ra một tín hiệu tốt cho các nhà đầu
tư vào công ty, vì nó cho thấy rằng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thường sản sinh
ra một lượng tiền mặt thặng dư khá cao, đủ để giúp công ty chi tiêu cho các hoạt động khác.
Tỷ trọng các dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh
Dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh bao gồm :
Tiền bán hàng, cung cấp dịch vụ, kinh doanh khác
Tiền thu từ các hoạt động kinh doanh khác
Từ năm 2007 – 2009, tiền bán hàng, cung cấp dịch vụ và kinh doanh khác dần dần bị thay thế bởi
tiền thu khác từ hoạt động kinh doanh.
Rõ ràng, dòng tiền từ bán hàng và cung cấp dịch vụ, kinh doanh khác (hoạt động chính của
công ty) lại chiếm tỷ trọng ngày càng thấp trong dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh của công
ty. Tiền thu khác từ hoạt động kinh doanh ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, vì thế tiền chi khác cho
hoạt động kinh doanh cũng khá lớn qua các năm. Năm 2008, số tiền chi khác cho hoạt động kinh
doanh lên tới 1,824 tỷ đồng. Điều này cũng dễ hiểu vì năm này số tiền thu khác từ hoạt động kinh
doanh chiếm 69,16% dòng tiền vào (tương đương 1,828 tỷ đồng). Năm 2009, khoản mục này có
tăng như không đáng kể.
2. Phân tích dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Dòng tiền từ hoạt động đầu tư biến đổi qua các năm.
Năm 2007 và năm 2008: Dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư dương. Điều này không có nghĩa
là công ty không có các dự án đầu tư, mà tác động của dòng tiền dương là do tiền thu vào từ thu
hồi vốn cho vay, bán các công cụ nợ, thu lãi vay và được chia cổ tức… Công ty vẫn có các dự án
đầu tư như năm 2007. Ngoài ra, công ty còn đầu tư rất nhiều vào xây dựng cơ bản.
Công ty đã tham gia đấu giá và mua lại thành công Công ty Mía đường Trị An với mức giá
là 53.9 tỷ đồng.
Triển khai Dự án Cụm chế biến công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông: đền bù giải
phóng mặt bằng cho dự án cụm chế biến công nghiệp phía Tây sông Vàm Cỏ Đông thuộc
huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh.
Năm 2009: dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh đầu tư lại âm. Một trong những lý do chủ yếu
đó là năm 2009 thị trường tài chính dần dần phục hồi bình ổn nên công ty đã đầu tư một nguồn
vốn khá lớn vào các công cụ tài chính. Bên cạnh đó, dòng thu từ các công cụ tài chính cũng giảm
đáng kể so với năm 2008 (4.751.325.822 VND so với 53.961.073.387 VND) làm cho dòng tiền
âm.
Hình 2: Dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư
3. Phân tích dòng tiền thô
Dòng tiền thô = Thu nhập ròng + khấu hao
Hình 3: biểu đồ thể hiện dòng tiền thuần qua các năm
Từ năm 2007 – 2009, dòng tiền thô biến đổi mạnh. Đặc biệt, năm 2008, dòng tiền thô giảm đáng
kể và bị âm. Trong năm này, tình hình khủng hoảng đang diễn ra khá phức tạp nên chi phí hoạt
đọng sản xuất tăng cao và vì hoạt động đầu tư cổ phiếu của công ty bị thua lỗ nên đã làm cho
doanh thu ròng sau thuế của công ty bị lỗ nặng nề. Sang năm 2009, dòng tiền thô được phục hồi
và tăng trưởng rất nhanh => chứng tỏ hoạt động kinh doanh đã được phục hồi và tạo ra lợi nhuận
cho công ty.
4. Dòng tiền hoạt động qua các kỳ
Hình 4: Biểu đồ thể hiện dòng tiền qua các kỳ
Dựa vào hình 4, ta có thể nhận thấy dòng tiền thuần qua các năm 2007 – 2009 biến động không
nhiều.
Năm 2007: Dòng tiền thuần của công ty không tốt, chủ yếu do dòng tiền từ hoạt động sản
xuất kinh doanh âm. Có một điều rõ ràng là trong năm 2007, công ty đạt mức lợi nhuận
ròng hơn 53 tỷ đồng, nhưng dòng tiền chi ra thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh lại đến
hơn 57 tỷ đồng. Năm 2007 cũng là năm công ty có thuế TNDN bằng 0%. Do đó, việc dòng
tiền từ hoạt động đầu tư âm trong năm nay có điều bất thường. Điều này xảy ra là do công
ty đã gia tăng sản lượng hàng tồn kho, mở rộng chính sách tín dụng cho khách hàng, chi
phí sản xuất và chi phí quản lý tăng. Ngoài ra, công ty còn phải giảm giá hàng bán cho
khách hàng.
Năm 2008: dòng tiền thuần đến năm này đã được cải thiện, tiền thu vào cả năm là hơn 6 tỷ.
Dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là dương, mặc dù tình hình sản xuất kinh doanh
trong năm của công ty đang bị lỗ đến 43 tỷ. Có được thành quả này là do công ty đã tiến
hành thu tiền từ bán hàng trả chậm cho khách hàng ở năm 2007.
Năm 2009: hoạt động sản xuất của công ty đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Hình 4 chỉ
thể hiện 3 kỳ đầu tiên của năm song cũng đã thể hiện phần nào. Chính điều này đã giúp cho
dòng tiền thu vào từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng, tạo điều kiện cho công ty chi tiền
cho đầu tư nhiều hơn.
Phân tích các chỉ số tài chính
1. HỆ SỐ KHẢ NĂNG THANH TOÁN
Hệ số khả năng thanh khoản là hệ số đo lường nợ ngắn hạn của công ty. Loại hệ số này
gồm có: hệ số khả năng thanh toán hiện thời và hệ số thanh toán nhanh. Đứng trên goác độ ngân
hàng, hai hệ số này rất quan trọng vì nó giúp ta đánh giá được khả năng thanh toán nợ của công
ty.
1.1 hệ số khả năng thanh toán hiện thời :
1.2. hệ số khả năng thanh toán nhanh :
Năm 2007 : Chênh lệch giữa giữa hệ số khả năng thanh toán hiện thời và hệ số khả năng thanh
toán nhanh là 0.75 (không lớn lắm). Vậy hàng tồn kho chỉ chiếm tỷ lệ tương đối trong tổng tài sản
lưu động. Điều này chứng tỏ tính thanh khoản trong tài chính của công ty năm này khá tốt. Hệ số
khả năng thanh toán nhanh đạt 2.76 >1 => công ty vẫn có đủ khả năng thanh toán nợ bằng tài
khoản nhanh.
Tổng tài sản lưu động Hệ số khả năng thanh toán hiện thời = Nợ ngắn hạn
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Tiền và các khoản tương đương tiền 12,831,231,768 19,559,334,401 86,126,277,361
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 175,900,010,000 1,372,000,000 -
Các khoản phải thu ngắn hạn 92,279,913,633 90,907,280,995 241,481,270,130
Hàng tồn kho 77,619,246,948 165,314,482,806 201,271,427,516
Tài sản ngắn hạn khác 3,434,135,552 600,792,600 3,753,402,615
Tổng tài sản lưu động 362,064,537,901 277,753,890,802 532,632,377,622
Nợ ngắn hạn 103,053,297,752 110,900,388,577 331,847,176,598
Hệ số khả năng thanh toán hiện
thời 3.51 2.50 1.61
(Tổng TSLĐ – hàng tồn kho ) Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Tổng tài sản lưu động 362,064,537,901 277,753,890,802 532,632,377,622
Hàng tồn kho 77,619,246,948 77,545,672,695 201,271,427,516
Nợ ngắn hạn 103,053,297,752 110,900,388,577 331,847,176,598
Hệ số khả năng thanh toán nhanh 2.76 1.81 1.00
Năm 2008 : Chênh lệch giữa hai hệ số khả năng thanh toán là 0.69 (không lớn lắm). Dễ dàng
nhận ra hàng tồn kho vẫn chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng tài sản lưu động. Vậy tính thanh
khoản trong tài chính của công ty khá ổn. Tuy nhiên, hệ số thanh khoản nhanh của công ty chỉ đạt
1.81, tuy lớn hơn 1 nhưng vẫn còn khá thấp => công ty công ty vẫn có đủ khả năng thanh toán nợ
bằng tài khản nhanh nhưng tính thanh khoản chưa thật “ổn định”.
Năm 2009 : Chênh lệch giữa hai hệ số thanh toán là 0.61 => hàng tồn kho chiếm tỷ trọng không
quá lớn trong tổng tài sản lưu động => khả năng thanh thanh khoản của công ty trong năm này ổn.
Điều đáng nói ở đây là, hệ số khả năng thanh toán hiện thời chỉ đạt 1.61 ( thấp ) tuy có thể thanh
toán nợ nhưng tính linh động không cao.Và hệ số khả năng thanh khoản nhanh 1.00 = 1 => có thể
trả nợ bằng tài khoản nhanh mà không cần thanh lý hàng tồn kho nhưng tính thanh khoản của
công ty trong năm này không thật sự khả quan .
Năm 2007: nhìn vào số liệu đã tính ở trên, ta nhận thấy: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là
3.51; hệ số khả năng thanh toán nhanh là 2.76. Chênh lệch 0.76 (không lớn lắm) cho thấy hàng
tồn kho chiếm tỉ lệ tương đối trong tổng tài sản lưu động. Điều này chứng tỏ, khả năng thanh
khoản của công ty trong năm này khá tốt. Hệ số thanh khoản nhanh đạt 2.76 (lớn hơn 1) => Nếu
chủ nợ đòi tiền, công ty vẫn có đủ khả năng thanh toán nợ bằng tài khoản thanh khoản nhanh mà
không cần thanh lý hàng tồn kho.
Năm 2008: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời là 2.50; hệ số khả năng thanh toán nhanh đạt 1.81
(thấp hơn 0.95 so với năm 2007). Hệ số thanh khoản nhanh đạt 1.81 (lớn hơn 1) => công ty đủ
khả năng thanh toán nợ bằng tài khoản thanh toán nhanh mà không cần thanh lý hàng tồn kho.
Năm 2009: hệ số thanh toán hiện thời là 1.61 (lớn hơn 1) điều đó chứng tỏ công ty vẫn đủ khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng tài sản lưu động trong thời gian hiện tại (nếu các chủ nợ đến
đòi nợ cùng lúc).
Biểu đồ thể hiện hệ số khả năng thanh toán
3.51
2.50
1.61
2.76
1.81
1.00
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
3.50
4.00
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời Hệ số khả năng thanh toán nhanh
1. HỆ SỐ KẾT CẤU TÀI CHÍNH ( CƠ CẤU VỐN )
Trong tài chính công ty, mức độ sử dụng nợ để tài trợ cho hoạt động của công ty gọi là đòn
bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính có tính hai mặt. Một mặt nó giúp gia tăng lợi nhuận cho cổ đông ,
mặt khác, nó làm gia tăng rủi ro. Do đó, quản lý nợ cũng quan trọngnư quản lý tài sản .
2.1. Hệ số nợ tổng quát :
Hệ số nợ tổng quát phản ánh mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp.
Nhìn chung hệ số nợ của công ty từ năm 2007 – 2009 không cao. Điều này có mặt tích cực là khả
năng tự chủ tài chính và khả năng còn được vay nợ của công ty cao, tuy nhiên mặt trái của nó là
doanh nghiệp không tận dụng được lợi thế của đòn bẩy tài chính và đánh mất đi cơ hội tiết kiệm
thuế từ việc sử dụng nợ .
Hệ số nợ năm 2007, 2008, 2009 biến động không nhiều, biên độ dao động không vượt quá 10 %
và có khuynh hướng tăng dần qua các năm công ty có nhu cầu sử dụng nợ để tài trợ cho tài sản
ngày càng cao.
Nợ
Hệ số nợ tổng quát =
Tổng tài sản
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Nợ 289,042,944,038 267,295,255,045 456,207,292,609
Tổng tài sản 669,426,348,853 598,525,324,275 884,740,161,966
Hệ số nợ tổng quát
(%) 43.18% 44.66% 51.56%
Hệ số nợ tổng quát (%)
43.18%
44.66%
51.56%
38.00%
40.00%
42.00%
44.00%
46.00%
48.00%
50.00%
52.00%
54.00%
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Hệ số nợ tổng
quát (%)
2.2. Hệ số nhân vốn chủ sở hữu :
Hệ số nhân vốn chủ sở hữu của công ty ngày càng tăng điều này cho thấy đòn bẩy tài chính tác
động đến doanh nghiệp càng mạnh.
3. HỆ SỐ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC (KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG)
3.1. Vòng quay hàng tồn kho :
Tài sản Hệ số nhân vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Tổng tài sản 669,426,348,853 598,525,324,275 884,740,161,966
Vốn chủ sở hữu 380,383,404,815 331,230,069,230 428,532,869,357
Hệ số nhân vốn chủ sở hữu 1.76 1.81 2.06
Doanh thu Vòng quay hàng tồn kho = Giá trị hàng tồn kho bình quân
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Doanh thu 643,350,915,260 792,244,683,092 1,191,282,895,429
Số dư đầu kỳ hàng tồn kho 64,512,500,257 77,619,246,948 165,314,482,806
Số dư cuối kỳ hàng tồn kho 77,619,246,948 165,314,482,806 201,271,427,516
Giá trị hàng tồn kho bình quân 71,065,873,603 121,466,864,877 183,292,955,161
Số vòng quay hàng tồn kho 9.05 6.52 6.50
Biểu đồ thể hiện Số vòng quay hàng tồn kho
9.05
6.52 6.50
-
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Số vòng quay hàng tồn kho
Đối với hàng tồn kho, vòng quay hàng tồn kho từ năm 2007 – 2009 có xu hướng giảm. Liên hệ
với hệ số thanh khoản nhanh chúng ta có thể nhận thấy do công ty giữ tồn kho nhiều nên hệ số
thanh khoản nhanh và số vòng quay hàng tồn kho xuống thấp. Nhất là trong giai đoạn 2007 –
2008, vòng quay hàng tồn kho có xu hướng giảm mạnh ( từ 9.05 xuống còn 6.52 ) và hệ số thanh
khoản nhanh giảm đột biến ( từ 2.76 xuống 1.81 ) trong năm 2008, công ty đã tăng lượng hàng
tồn kho để dự trữ cho hoạt động sản xuất trong năm sau.
3.2. Vòng quay các khoản phải thu
Nhìn chung số vòng quay các khoản phải thu giảm dần qua các năm, điều này cho thấy công ty
đang nới lỏng tín dụng đối với khách hàng, đồng nghĩ với việc công ty thu tiền chậm hơn. Nhưng
năm 2009, số vòng quay các khoản phải thu giảm xuống thấp đột ngột so với năm trước. Nguyên
nhân là do khoản ứng trước cho người bán năm 2009 cao hơn so với năm 2008.
3.3. Kỳ thu tiền bình quân ( ngày )
Doanh thu Vòng quay các khoản phải thu = Các khoản phải thu bình quân
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Doanh thu 643,350,915,260 792,244,683,092 1,191,282,895,429
Số dư đầu kỳ các khoản phải thu 85,511,183,931 96,195,428,510 90,907,280,995
Số dư cuối kỳ các khoản phải thu 92,279,913,633 90,907,280,995 241,481,270,130
Các khoản phải thu bình quân 88,895,548,782 93,551,354,753 166,194,275,563
Số vòng quay của các khoản
phải thu 7.24 8.47 7.17
7.24
8.47
7.17
6.50
7.00
7.50
8.00
8.50
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Biểu đồ thể hiện số vòng quay của các khoản
phải thu
Số vòng quay của các
khoản phải thu
Tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả và chất lượng quản lý các khoản phải thu. Nó cho biết bình
quân một khoản phải thu mất bao nhiêu ngày.
Kỳ thu tiền bình quân giao động tương đối.
Giai đoạn từ năm 2007 – 2008 biến động nhẹ công ty quản lý các khoản phải thu khá tốt.
Năm 2009, tăng mạnh (nhưng không “đột biến”). Điều này cho thấy chính sách quản lý các khoản
phải thu của công ty trong năm 2009 không hiệu quả bằng các năm trước đó. Nguyên nhân là do
lượng tiền ứng trước cho người bán (đặc biệt là ứng trước cho nông dân trồng mía) tăng .
1.4. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (%)
360 Kỳ thu tiền bình quân ( ngày ) = Số vòng quay của các khoản phải thu
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Số vòng quay của các khoản phải thu 7.24 8.47 7.17
Kỳ thu tiền bình quân (ngày) 49.74 42.51 50.22
Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (%) = Tổng tài sản
BIểu đồ thể hiện kỳ thu tiền bình quân (ngày)
49.74
42.51
50.22
38.00
40.00
42.00
44.00
46.00
48.00
50.00
52.00
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Kỳ thu tiền bình quân (ngày)
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng trong các năm 2008, 2009 và cao nhất là năm 2009 =>
trong năm 2009 công ty sử dụng tài sản đạt hiệu quả cao nhất .Năm 2007 hiệu suất sử dụng tài sản
là 95.81 % công ty chưa đạt hiệu quả sử dụng tài sản để tạo ra doanh thu .
4. HỆ SỐ SINH LỢI ( KHẢ NĂNG SINH LỢI ) :
4.1. MDL tiêu thụ sản phẩm :
Năm 2007: MDL tiêu thụ sản phẩm bằng 8.36% cho ta biết: 100 đồng doanh thu tạo ra
được 8.36 đồng lợi nhuận dành cho cổ đông.
Năm 2008: MDL tiêu thụ sản phẩm bằng -5.48% cho ta biết: 100 đồng doanh thu sẽ gây ra
âm 5.48 đồng lợi nhuận dành cho cổ đông.
Năm 2009: MDL tiêu thụ sản phẩm bằng 10.10% cho biết: 100 đồng doanh thu sẽ tạo ra
10.10 đồng lợi nhuận dành cho cổ đông.
4.2. MDL tài sản có (ROA)
Chỉ tiêu ROA nói lên rằng 1 đồng công ty đầu tư vào tài sản sẽ sản sinh ra mức lợi nhuận
là bao nhiêu.
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Doanh thu thuần 641,379,420,936 790,087,548,664 1,189,447,960,432
Tổng tài sản 669,426,348,853 598,525,324,275 884,740,161,966
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (%) 95.81% 132.01% 134.44%
Lợi nhuận sau thuế MDL tiêu thụ sản phẩm = Doang thu thuần
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Lợi nhuận sau thuế 53,633,026,705 -43,276,152,511 120,086,686,019
Doanh thu thuần 641,379,420,936 790,087,548,664 1,189,447,960,432
MDL tiêu thụ sản phẩm (%) 8.36% -5.48% 10.10%
Lợi nhuận ( sau thuế ) MDL tài sản có (ROA) = Giá trị tài sản có bình quân
NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009
Lợi nhuận sau thuế 53,633,026,705 -43,276,152,511 120,086,686,019
Số dư đầu kỳ 589,780,974,042 669,426,348,853 598,525,324,275
Số dư cuối kỳ 669,426,348,853 598,525,324,275 884,740,161,966
Giá trị tài sản có bình quân 629,603,661,448 633,975,836,564 741,632,743,121
ROA (%) 8.52% -6.83% 16.19%
Giai đoạn từ năm 2007 đến 2009, ta nhận thấy rằng ROA của công ty cổ phần đường Biên Hoà
tăng giảm thất thường. Trong 2 năm, từ năm 2007 đến 2008, ROA của công ty giảm, nhưng đến
năm 2009 lại tăng mạnh trở lại.
Năm 2007: Giá bán của mặt hàng đường trên thị trường giảm đã khiến cho doanh thu của
công ty cổ phần đường Biên Hoà giảm đi, cùng với đó là công ty gia tăng dự trữ hàng tồn kho, nới
lỏng chính sách tín dụng cho khách hàng và đầu tư thêm vào tài sản cố định, đã làm cho hiêu suất
sử dụng tài sản giảm, Cuối cùng nó làm cho ROA của công ty giảm trong giai đoạn này .
Năm 2008: ROA của công ty BHS giảm mạnh và có giá trị âm(-6.83%).Nguyên nhân
chính là do tỷ xuất sinh lợi của công ty giảm đột ngột. Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, trong năm 2008, BHS lỗ 43,121,551,879 VNĐ .Nguyên nhân là do:
Giá nguyên liệu trong năm này tăng cao.
Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế làm chi phí lãi vay tăng cao trong khi công ty
đang làm ăn thua lỗ ( tác động nghịch của đòn bẩy tài chính )
Năm 2008, là năm mà thị trường chứng khoán trong nước biến động mạnh, giá cổ
phiếu giảm đột ngột, do đó làm cho chi phí cho hoạt động tài chính của công ty tăng
đột biến ( từ 13,528,678,101 lên đến 72,446,085,317 ) .Dẫn đến lỗ => ROA thấp.
Năm 2009: Công ty BHS có lợi nhuận sau thuế tăng. Nguyên nhân là do sự phục hồi của
thị trường chứng khoán, thị trường tài chính của việt nam ổn định dân đến chi phí lãi vay giảm =>
chi phí tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tài chính công ty cổ phần đường Biên Hòa.pdf