Mục lục
A.TỒNG QUAN ĐỀ TÀI 2
I. Lí do chọn đề tài: 2
II. Cấu trúc đề tài: 3
B. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 3
I.Khái niệm, đặc điểm tâm lý và tâm lý đám đông: 3
I.1 Khái niệm tâm lí: 3
I.2 Tâm lý đám đông: 3
II. Những yếu tố hình thành tâm lý đám đông: 3
III. Hành vi tài chính của đám đông: 3
III.1 Hành vi không hợp lí của nhà đầu tư: 3
III.2 Hành vi không hợp lí mang tính hệ thống: 3
B. PHẦN II – THỰC TRẠNG TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN TTCK VN 3
I. Tổng quan TTCK TPHCM trong giai đoạn cuối 2006 - đầu 2010 dưới góc độ tâm lí nhà đầu tư 3
II. Phân tích những yếu tố tâm lý của nhà đầu tư: 3
II.1 Hành vi không hợp lí của nhà đầu tư: 3
II.2 Hành vi không hợp lí mang tính tập thể: 3
C. CÁC TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ 3
I. Lãi suất chiết khấu 3
1. Lãi suất 3
II. Thị trường bất ổn trong hiện tại: 3
1. Rủi ro do tính thanh khoản thấp: 3
2. Rủi ro từ thông tin: 3
3. Rủi ro rừ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dich: 3
4. Rủi ro từ các chấn động thị trường: 3
5. Rủi ro lạm phát: 3
6. Rủi ro bị cụt vốn: 3
7. Rủi ro do chọn nhầm đối tượng: 3
8. Rủi ro do bất phùng thời: 3
9. Rủi ro về lãi suất: 3
10. Rủi ro về tài chính: 3
11. Rủi ro pháp chế: 3
III. Tâm lý và văn hóa truyền thống: 3
1. Ảnh hưởng văn hóa truyền thống đến NĐT chứng khoán. 3
2. Những yếu tố đặc trưng của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tâm lí người chơi chứng khoán: 3
D. KINH NGHIỆM CHO TTCK VN 3
I. Kinh nghiệm trong việc đầu tư chứng khoán: 3
1. Những sai lầm thường gặp trong đầu tư chứng khoán: 3
a. Tiếp tục găm giữ cổ phiếu để thu về nhiều lợi nhuận hơn: 3
b. Không đặt ra các mục tiêu giá cả: 3
c. Cố gắng dự báo xu hướng thị trường: 3
d. Lo lắng quá nhiều về các khoản thuế: 3
e. Không quan tâm nhiều tới các khoản đầu tư của bạn: 3
2. Luôn nhìn về tương lai và có tầm nhìn dài hạn: 3
3. Tạo suy nghĩ mở khi lựa chọn công ty: 3
II. Những trang bị cần thiết cho nhà đầu tư khi tham gia thi trường chứng khoán: 3
1. Về kiến thức: 3
2. Biết phân tích chỉ số của công ty phát hành chứng khoán 3
3. Biết chọn thời điểm bán đúng lúc 3
E. LỜI KẾT 3
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7558 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̀ đầu tư:
1. Hành vi không hợp lí của nhà đầu tư:
a. Tâm lý trông chờ sự may rủi:
Dễ dàng đưa ra các quyết định đầu tư dựa vào cảm tính, dựa vào một tin đồn, một lời khuyên, một lời phát biểu mà không tự mình nghiên cứu để đưa ra các kết luận của chính mình về việc mua hay bán cổ phiếu nào, giá bao nhiêu, khi nào và tại sao.
Tâm lý đó khiến cho nhà đầu tư không tự nhìn vào chính mình để đánh giá mình, các quyết định của mình, và để tự chịu trách nhiệm. Và rất dễ dẫn đến việc trông chờ vào người khác, để hỗ trợ, giúp đỡ. Nhưng nếu việc dựa vào người khác đó không đem lại kết quả như mong muốn thì họ quay ra trách và đổ lỗi.
Hiện nay, phần lớn các NĐT khi tìm hiểu về một công ty để đầu tư cổ phiếu thường chỉ chú trọng vào tiêu chí ngành, lĩnh vực mà công ty hoạt động và tình hình sản xuất hiện tại của công ty. Mà phần lớn họ đã quên đi sự quan trọng của một số tiêu chí khác BCTC, tình hình SXKD của công ty từ 3-5 năm phát hành, các chỉ số tài chính lien quan đến cổ phiếu của công ty, các phân tích kỹ thuật, cơ bản của giới phân tích..... Rõ ràng nếu chỉ ưu tiên cho hai chỉ số này khi tìm hiểu thông tin về một cổ phiếu nào đó thì thật sự là rủi ro lớn, nó chỉ giúp NĐT tạm an tâm với những đầu tư tạm thời, ngắn hạn. Một tiêu chí quyết định mà thường các NĐT ít dành sự quan tâm là ban quản trị của công ty. Đây là nơi vạch ra những chính sách chiến lược cho sự phát triển của công ty. Nếu một công ty không có ban quản trị tốt ứng phó linh hoạt với mọi tình huống thì cũng đồng nghĩa sự đầu tư khó mà có thể mang lại lợi nhuận. Nhưng NĐT thường không có thói quen đi quá sâu vào tình hình cụ thể của công ty, đây rõ ràng cũng là nhược điểm lớn, vì một khi nắm giữ cổ phiếu của một công ty nào đó, NĐT đã trở thành người góp vốn.
Chính những tâm lý này khiến cho nhà đầu tư tự mình tước bỏ của mình một điều rất quan trọng-quyền biểu quyết bằng chính kiến và đồng tiền của mình-Biểu quyết về các cổ phiếu và công ty: Cổ phiếu nào là tốt, là không tốt, công ty nào hoạt động hiệu quả hay kém hiệu quả, ban lãnh đạo nào là giỏi hay không giỏi và qua đó gửi những thông điệp cho các công ty tốt làm tốt hơn, các công ty chưa tốt thì cải thiện tình hình và loại đi những công ty không tốt, không hiệu quả.
b. Thiếu tự tin và chánh kiến trong đầu tư:
Thị trường chứng khoán có thể nói nó gần như là cuộc chơi theo quan niệm của nhiều người. Trong cuộc chơi này, luôn luôn có hai ý kiến phổ biến trái chiều nhau là chấp nhận rủi ro lớn trong quá trình đầu tư và một ý kiến khác cho rằng cần phải phân tích đầy đủ thông tin, hạn chế tối thiểu rủi ro và đa dạng hoạt động đầu tư. Như vậy nhà đầu tư luôn đề ra cho mình những lý tưởng đầu tư: Phải sẵn sàn chấp nhận rủi ro, phải phân tích đầy đủ thông tin khi ra quyết định…nhưng lý tưởng đó lại khác xa thực tế đầu tư của họ, chỉ với thông tin chưa chính thức (giá cổ phiếu đang nắm giữ rớt mạnh) thì phần lớn đã vội bán cổ phiếu. Nhìn lại lại thị trường cổ phiếu năm 2007 là giai đoạn bùng nổ. Chúng ta thấy được một điều rằng là các nhà đầu tư đã không dựa vào những nhận xét đánh giá của chính mình mà đã mua vào một cách ào ạt. Đẩy giá cổ phiếu lên cao hơn so với giá trị thật của nó, TTGDCK Hà Nội tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Nhưng với nỗi sợ về một thị trường bong bóng các cơ quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường. Lập tức thị trường phản ứng một cách thoái hóa chỉ trong vòng một tháng giao dịch đã giảm 22,6%.
Nguyên nhân chính từ thiếu nhận định đầu tư, nhầm lẫn mục đích và tiêu chí đầu tư của chính cá nhân mình, từ đó thiếu tự tin và chánh kiến trong đầu tư. Làm cho nhà đầu tư có sự thay đổi đầu tư khi rủi ro và những bất lợi diễn ra tren thị trường.
2. Hành vi không hợp lí mang tính tập thể:
a. TTCK và giá cổ phiếu bị chi phối chủ yếu bởi tâm lý đám đông, bởi lòng tham và nỗi sợ hãi:
Rất hiếm ở nơi nào mà rất nhiều phiên hoặc chỉ có người bán, hoặc chỉ có người mua, đã lên thì lên kịch trần và đã xuống thì xuống cũng kịch sàn, đã lên thì dù có tin xấu cũng bị bỏ qua, xuống thì dù có tin tốt cũng không thể kéo lại.
TTCK Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên TTCK Thượng Hải với mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế giới (Theo kết quả công bố của Sở Giao Dịch Chứng Khoán) Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường. Kéo theo đó sự lo sợ nguy cơ hình thành bong bóng trên TTCK.
Nhiều nghiên cứu đã được đưa ra, cho rằng TTCK VN vẫn còn mang nặng yếu tố tâm lý mà ở đây là tâm lý đám đông phản ứng quá mức đối với thị trường. Tất nhiên đây cũng không phải là đặc sản của VN. Thị trường nhiều nước khác, ngay cả những nước phát triển, cũng có những giai đoạn tương tự. Vấn đề là dường như tâm lý bầy đàn hiện vẫn chi phối quá nhiều đến hành vi của đa số các nhà đầu tư cá nhân và ngay cả nhà đầu tư tổ chức.
Quay lại giai đoạn phát triển đỉnh cao của thị trường chứng khoán VN năm 2007, lúc đó dường như phong trào đầu tư rộ lên như là một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào trên khắp cả nước. Nhà đầu tư “ăn chứng khoán, ngủ cũng chứng khoán” rồi người ta kháo nhau rằng “Cứ mua được cổ phiếu là thắng”... Người nọ thấy người kia chỉ trong chốc lát và quá đơn giản để trở thành đại gia. Và thế là họ ùn ùn lao vào...
Đến giai đoạn thị trường bắt đầu rơi vào suy thoái và khủng hoảng thì tâm lý đám đông lại tiếp tục chi phối nhà đầu tư. Sự hoảng sợ và tháo chạy theo số đông tiếp tục kéo thị trường ngày càng giảm điểm mạnh hơn và tiệm cận về mức đáy khi tâm lý hoảng sợ kết thúc.
b. Hành vi đám đông của NĐT tại thành phố Hồ Chí Minh có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt của thị trường.
Sức nóng của TTCK còn “hút” cả anh hai lúa, bà bán đậu phộng đến ông xích lô… gom góp tiền dành dụm cả đời đổ vào chơi chứng khoán. Họ biết phân tích cổ phiếu, biết dự đoán khả năng hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi theo tâm lý bầy đàn. Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả. Khuynh hướng (bản năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước người khác. Khi thị trường lên hoặc xuống, nhà đầu tư cho rằng người khác sẽ có nhiều thông tin hơn. Và hệ quả của điều này, họ cảm thấy có sự thôi thúc ghê gớm đối với việc làm theo những gì người khác đang làm. Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho thấy hành vi đám đông thường có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt, có khả năng tiên đoán thị trường. Trong trường hợp của TTCK Việt Nam, “sứ mệnh” đó nhiều lúc được giao cho nhà đầu tư nước ngoài.
C. CÁC TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ
I. Lãi suất chiết khấu:
1. Lãi suất:
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Đối với hầu hết chúng ta thì thuật ngữ” lãi suất” có lẽ là không có gì xa lạ. Lãi suất có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nhà đầu tư chính là lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương (ở VN là ngân hàng nhà nước). Với những kiến thức liên quan đến bộ môn LTTCTT, trong phạm vi bài tiểu luận, chúng tôi xin đề cập trực tiếp đến tác động của lãi suất chiết khấu đến TTCK mà không nhắc lại một số khái niệm cơ bản.
a. Tác động dến thị trường chứng khoán:
Sự thay đổi trong lãi suất chiết khấu đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hành vi của các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp, nhưng không dừng lại ở đó,thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng. Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương lai được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm.
b. Tác động đến đầu tư:
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán sụt giảm là điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá trị khoản đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi vốn, cổ tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong tương lai thấp hơn và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp không tốt như mong đợi, chắc chắn không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục đánh giá cao doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các cổ phần.
Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so với việc đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lãi suất chiết khấu, thường sẽ kèm theo là các chứng khoán chính phủ mới được phát hành thí dụ như trái phiếu chính phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an toàn nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi phi rủi ro sẽ tăng và do đó đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các cơ hội đầu tư tương tự trở nên hấp dẫn hơn. Nếu nhà đầu tư vẫn tiếp tục trung thành với các cổ phiếu thì họ sẽ nâng tỷ suất sinh lợi đòi hỏi của mình lên để bù đắp cho phần rủi ro tăng thêm một lượng gọi là phần bủ rủi ro. Tỷ suất sinh lợi mong đợi từ việc nắm giữ cổ phiếu bao gồm tổng của tỷ suất sinh lợi phi rủi ro và phần bù rủi ro thị trường. Dĩ nhiên là độ lớn của phần bù rủi ro khác nhau với mỗi nhà đầu tư, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro cũng như doanh nghiệp mà họ đầu tư. Tuy nhiên nói một cách tổng quát thì, khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất phi rủi ro cũng tăng theo, và do đó tổng tỷ suất sinh lợi đầu tư đòi hỏi cũng sẽ tăng. Do vậy, nếu phần bù rủi ro đòi hỏi giảm trong khi tỷ suất sinh lợi tiềm năng vẫn như cũ hoặc thậm chí là thấp hơn, thì chắc là nhà đầu tư sẽ cảm thấy đầu tư vào cổ phiếu trở nên rủi ro hơn và kết quả là họ sẽ chuyển tiền của mình vào các lĩnh vực đầu tư khác.
II. Thị trường bất ổn trong hiện tại:
Có thể nói thị trường Việt Nam cũng là một trong những thị trường bất ổn nhất thế giới. Điều đó ảnh hưởng khá nhiều đến tâm lý nhà đầu tư kể cả nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ mới 2 tháng đầu năm 2011 chỉ số CPI tăng cao vượt ngưỡng, tốc độ lạm phát tăng ảnh hưởng đến nhận định rủi ro cao cho NĐT. Hơn nữa kèm theo là giá xăng, giá điện tăng gây tâm lí hoang mang, lãi suất cao vì thế nhà đầu tư càng có xu hướng bỏ TTCK => thị trường chững lãi. Trong phạm vi kiến thức cho phép, chúng tôi đã nhận diện một số rủi ro trong thị trường chứng khoán ảnh hưởng đến tâm lí NĐT.
1. Rủi ro do tính thanh khoản thấp:
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được, hoặc không được phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì một lý do nào đó, chứng khoán đã mua là của một công ty có tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm thiếu hiệu quả vững chắc.
Thậm chí, chỉ cần một sự thay đổi nhân sự cấp cao trong công ty cũng có thể khiến giá chứng khoán đó sụt giảm. Và rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa khi công ty phát hành chứng khoán bị phá sản và biến mất trên thương trường. Nhà đầu tư chứng khoán cũng có thể chịu rủi ro do “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Thậm chí, việc sở hữu thuần túy các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định (thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro, nhất là khi cần tiền để trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào chỗ khác. Ngay cả những chứng khoán tốt nhất cũng có thể không giữ vững được vị thế lâu dài trước sự biến động của thị trường. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư chứng khoán này có thể phải hứng chịu cả hai thiệt hại dạng “khấu hao hữu hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng khoán đang nắm giữ.
2. Rủi ro từ thông tin:
Thật hiếm có hoạt động kinh doanh nào mà sự thành bại của nhà đầu tư lại đòi hỏi và gắn liền với yêu cầu về tính đa dạng, tính hệ thống, toàn diện, cập nhật và chính xác của các thông tin có liên quan trực tiếp và gián tiếp như đầu tư chứng khoán.
Chân dung nhà đầu tư chứng khoán điển hình là người luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái góp phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng và cũng rất nhẹ dạ, cả tin; ranh ma và nhạy cảm; quen biết nhiều, nhưng không kết bạn thân với ai trong làng chứng khoán. Và trong số họ, ai nắm được thông tin tốt hơn cả thì sẽ dễ dàng chiến thắng và giảm thiểu được nhiều rủi ro.
Nói cách khác, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán có nguồn gốc rất sâu đậm từ số lượng và chất lượng thông tin mà nhà đầu tư cần để làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư. Rủi ro luôn rình rập ở mọi nơi và nhà đầu tư sẽ phải trả giá sớm hay muộn, đắt hay rẻ, khi không nắm được các thông tin chính xác nhất, đầy đủ và kịp thời nhất liên quan đến môi trường đầu tư, chất lượng chứng khoán và tình hình thị trường...
Một báo cáo tài chính hoặc cáo bạch chưa được kiểm toán, thẩm định bởi các tổ chức độc lập, chuyên nghiệp, có uy tín và trình độ chuyên môn cao; một thông tin đến chậm hoặc bị cắt xén, không chính xác về hoạt động kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu, về môi trường pháp lý và về các nhà đầu tư khác trên cùng “sân chơi”, hoặc đơn giản là về tình hình thời tiết hay dịch bệnh nào đó... đều có thể gây ra thiệt hại khôn lường cho nhà đầu tư chứng khoán.
3. Rủi ro rừ các quy định và chất lượng dịch vụ của sàn giao dich:
Vì yêu cầu đặc thù đòi hỏi bắt buộc kinh doanh chứng khoán phải thông qua các tổ chức trung gian, môi giới, nên các nhà đầu tư có thể phải chịu nhiều rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian. Điển hình là các rủi ro liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có tổ chức.Việc khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy ngang lệnh đã đặt trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường, nếu họ không muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn giao dịch.
Tuy vậy, việc khớp lệnh định kỳ này cũng có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt thiệt hại khi hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự. Trong khi đó, việc khớp lệnh liên tục, mặc dù cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua - bán nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung - cầu ảo trên thị trường chứng khoán, song có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư ở chỗ: khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua- bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ.
Trong nguyên tắc xử lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các lệnh mua có mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ thống giao dịch trước.
Đến đây, rủi ro cho nhà đầu tư có thể xuất hiện theo hai cách: hoặc rủi ro vì lệnh
mua - bán của họ bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt; hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua - bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao (khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt.
4. Rủi ro từ các chấn động thị trường:
Các nhà đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, có thể phải gánh chịu nhiều rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước hoặc nước ngoài gây ra, bởi: - Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự đánh bóng, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đủ sức gây biến động thị trường hòng trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á hồi năm 1997 là một ví dụ điển hình.
5. Rủi ro lạm phát:
Trước tiên là khả năng kiếm lời không đuổi kịp sự mất giá của đồng tiền đã bỏ ra đầu tư. Và khi sức mua của đồng bạc giảm sút do giá tiêu dùng tăng sẽ kéo theo lãi suất tăng. Tác động của lạm phát lên cổ phần và cổ phiếu, theo đó, thể hiện ở nhiều chừng mực khác nhau và rất phức tạp. Khái quát có thể nên biết rằng các trái phiếu càng dài hạn càng bị mất giá nhiều hơn loại ngắn hạn, các cổ phần thuộc về các công ty tiện ích có thể bất lợi vì không dễ tăng giá, cổ phần ưu đãi bị mất giá nhiều so với cổ phần thường, …
6. Rủi ro bị cụt vốn:
Nhà đầu tư – đặc biệt là trong TTCK- có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ vốn đã bỏ ra do tiên đoán trật, hoặc do những hoàn cảnh bất lợi ập đến từ bên ngoài chứ không phải vì sức khoẻ công ty. Ví dụ một ảnh hưởng tâm lý xa lánh, tẩy chay đối với một sản phẩm hay ngành sản xuất, sự thay đổi tập quán tiêu dùng,..
7. Rủi ro do chọn nhầm đối tượng:
Người ta vẫn có thể bị lầm lẫn trước một quyết định tồi, ngay cả khi mọi thứ đã bày công khai ra trước mắt. Sự chủ quan hoặc hời hợt có thể cũng xui khiến ta làm sai mong đợi. Đó là lúc người đầu tư quyết định khi mua phải một loại chứng khoán không sinh lợi hoặc thậm chí lỗ.
8. Rủi ro do bất phùng thời:
Mua hoặc bán cổ phần hoặc chứng khoán sai thời điểm cũng được xem là một rủi ro vì nó có thể dẫn đến lỗ lã hoặc bị hớ giá mất ăn. Bán quá bèo hoặc mua quá cao ngay ở các ngưỡng biến động có khi là một thiệt hại đáng kể.
9. Rủi ro về lãi suất:
Người ta còn gọi đây là rủi ro mất khả năng tái đầu tư. Loại rủi ro này thường xảy ra đối với người đầu tư vào chứng khoán có thu nhập đều đặn, do họ không thể dùng tiền lãi hoặc tiền gốc để mua lại loại chứng khoán cùng mức cũ. Khi lãi suất thị trường tăng, giá thị trường của các chứng khoán có thu nhập ổn định sẽ giảm. Các trái phiếu dài hạn và cổ phiếu ưu đãi bị rủi ro cao nhất do bị mất giá. Ngược lại các chứng khoán ngắn hạn, do sẽ được đáo hạn trong một thời gian ngắn, khả năng tái tạo nhanh, nên không bị ảnh hưởng nhiều so với biến động của lãi suất cổ phần thường cũng sẽ có biến động mặc dù mối liên hệ không có gì là rõ ràng.
10. Rủi ro về tài chính:
Đây là rủi ro trực tiếp và đôi khi thảm hại do công ty phát hành làm ăn thất bại hoặc phá sản, đe doạ người đầu tư thiệt hại một phần hoặc mất trọn số tiền đã bỏ ra mua chứng khoán.
11. Rủi ro pháp chế:
Sự thay đổi của luật pháp hiện hành có thể tác động xấu đến một số hoạt động đầu tư đang tồn tại. Sự thay đổi về chính sách của chính phủ cũng có thể là rủi ro của nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, đây lại chính là công cụ điều hành vĩ mô của Nhà nước. Ngoài ra, các nhà đầu tư còn chịu các rủi ro liên quan đến các chính sách của Chính phủ, như: chính sách hai giá trong phát hành cổ phiếu (giảm giá từ 20-40% cho các nhà đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu); những thay đổi trong chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất nhập khẩu, độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương, đa phương... Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán chính là rủi ro từ sự sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư... Đã qua rồi những cơ hội ngắn ngủi và các ảo tưởng về kinh doanh chứng khoán đơn giản chỉ là mua chứng khoán vào, “đợi giá lên một chiều và khi cần tiền thì bán ra”.
III. Tâm lý và văn hóa truyền thống:
1. Ảnh hưởng văn hóa truyền thống đến NĐT chứng khoán.
Để kịp thời đi theo thời đại và tạo điều kiện huy động vốn sử dụng trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa cũng như tiếp cận với nền kinh tế thị trường thế giới….với những yêu cầu trên thì thị trường chứng khoán đã ra đời ở nước ta. Tháng 7/2000, thị trường chứng khoán trong nước bắt đầu khởi động những bước đi đầu tiên lúc ấy sàn giao dịch còn rất nhỏ bé , “hàng hóa”thì khan hiếm,và nó chỉ mới có mặt ở TP.HCM. Tại Hà Nội do chưa hội đủ các yếu tố nên mãi đến tháng 3/2005, sàn giao dịch mới được khai trương.Tuy chỉ mới “ra đời” không bao lâu nhưng thị trường chứng khoán đã bắt đầu chứng tỏ là một thương trường mới nhiều khó khăn và thách thức đối với các nhà đầu tư (tuy lợi nhuận và vốn thu từ các sàn giao dịch là không nhỏ). Nó vừa chịu ảnh hưởng các “thông số”biến động của thế giới, lại chịu ảnh hưởng trong và ngoài nước vô cùng phức tạp.
Với những khó khăn và thách thức như vậy,đòi hỏi các nhà đầu tư phải có một trình độ văn hóa, tư duy, cũng như một đầu óc phán đoán nhạy bén với các “thông số” trên thị trường. Nhưng ít ai biết được “văn hóa truyền thống” dân tộc đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý và khả năng “làm kinh tế” của họ. Các nhà đầu tư đã vô tình “ứng dụng”các đặc trưng văn hóa “nông nghiệp-làng xã” vào hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, đã hình thành cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh “ổn định” và “đặc thù” chính họ.
Thay vì đem lại những lợi ích ưu điểm cho nhà đầu tư chứng khoán thì “văn hóa truyền thống” lại có quá nhiều điểm không phù hợp với việc “kinh doanh chứng khoán” hiện nay.Nó chủ yếu làm hạn chế những khả năng kinh doanh, xây dựng cũng như sức hấp dẫn của chứng khoán đối với NĐT.
2. Những yếu tố đặc trưng của văn hóa nông nghiệp ảnh hưởng đến tâm lí người chơi chứng khoán:
a. Tính cộng đồng:
Như ta biết tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng xã với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác. Con người trong xã hội nông nghiệp thường chú trọng đến các mối quan hệ.Từ đó, dẫn đến việc thủ tiêu vai trò cá nhân, làm cho người Việt Nam thiếu hụt những cá tính mạnh mẽ, mỗi con người chưa thực sự phát trỉên với tư cách là một chủ thể tự chủ, môi trường xã hội mang đậm tính cộng đồng không thể khuyến khích cao độ những động lực và lợi ích, tài năng sáng tạo của cá nhân.Trong khi thời đại nhiều thách thức như bây giờ, người chiến thắng là những nhà doanh nhân can đảm với những khát khao cháy bổng và một đầu óc phán đoán cực kì nhạy cảm. Đó là những người biết tạo cho mình một văn hóa kinh doanh mới, một văn hóa mang tính cá nhân cao độ, không còn quá lệ thuộc vào các mối “quan hệ nông nghiệp” như trước. Yếu tố tâm lý đám đông chi phối mạnh.
b. Tính đồng nhất:
Nhân vật trung tâm trong nền văn hoá truyền thống chủ yếu là con người nông thôn,với các tính cách hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể,chịu ảnh hưởng tư tưởng “kéo theo” một cách khá mạnh mẽ từ tập thể: nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì thuyền nổi….. đó là một tư tưởng cầu an.Từ đó, đã hình thành nên tâm lí “ăn theo”trong việc kinh doanh cũng như thị trường chứng khoán, chứ chưa phải là con người kinh doanh.
c. Tính tự trị :
Con người Việt Nam trong nền văn hóa nông nghiệp làng xã có tính tự trị khá cao, những người vùng nào thì chỉ biết vùng đó, đôi khi cả cuộc đời họ cũng không bao giờ bước chân ra khỏi “lũy tre” làng. Với cuộc sống và các mối quan hệ ổn định nên người Việt Nam thường có lối suy nghĩ đơn giản, tùy tiện, manh mún, phân tán,t hiếu hệ thống…tính hợp tác,ỷ vào khả năng xoay sở của mình , không nhìn xa trông rộng.Đây chính là những tối kị trên thương trường , chính những điều này đã làm cho các nhà đầu tư chứng khoán gặp không ít khó khăn trong việc nắm bắt và phân tích ,tìm hiểu các “thông số” để đưa ra chính sách đầu tư hợp lí nhất để thu lợi nhuận cao. Chính những yếu kém về tâm lí mà nhà đầu tư thường gặp nhiều khó khăn trong việc quyết địnhkịp thời [ dẫn đến những hậu quá khó lường.
Từ những hạn chế của nền “văn hóa truyền thống” làm nảy sinh tâm lý về số
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_tam_ly_nha_dau_tu_tren_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_5002.doc