MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Bản chất của chiến lược kinh doanh . 2
1.2. Sự cần thiết của việc xây dựng chiến lược phát triển và
chiến lược kinh doanh . . 12
1.3. Cơ sở xây dựng chiến lược kinh doanh .13
2.3.1. Phân tích môi trường bên ngoài . 16
2.3.2. Phân tích môi trường bên trong . 20
1.4. Mô hình phân tích và xây dựng chiến lược : SWOT, BCG . 24
2.4.1. Mô hình phân tích SWOT . 24
2.4.2. Ma trận BCG . 25
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TY CP TƯ VẤN CCBM
2.1. Tổng quan về CCBM, khái quát nhận xét và đánh giá về chiến lược
phát triển, kinh doanh của Công ty đã được lập trước đây . 30
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển . 30
2.1.2. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty . 34
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty những năm gần đây . 38
2.1.4. Nhận xét, phân tích và đánh giá khái quát về chiến lược phát
triển và kinh doanh của công ty đã được lập trước đây . 39
2.2. Phân tích môi trường kinh doanh của CCBM . 43
2.2.1. Phân tích môi trường bên ngoài của CCBM . 43
2.2.2. Phân tích môi trường ngành . 55
2.2.3. Phân tích môi trường bên trong của CCBM . 70
2.3. Phân tích theo mô hình SWOT và những chiến lược có thể . 77
CHƯƠNG 3: HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC VÀ CÁC GIẢI PHÁP THƯC THI.
3.1. Tầm nhìn, sứ mạng và mục tiêu then chốt của công ty trong giai đoạn
Phát triển 2006-2020 . 82
3.2. Lựa chọn chiến lược kinh doanh của CCBM . 83
3.2.1. Chiến lược cấp công ty . 83
3.2.2. Các chiến lược chức năng . 85
3.3. Một số giải pháp thực thi và kiểm soát rủi ro nhằm thực hiện thành công
Những chiến lược đã lựa chọn . 87
CHƯƠNG4 : KẾT LUẬN 90
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2019 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng của công ty cổ phần tư vấn CCBM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất xi măng, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào việc đổi mới hiện đại hoá các thiết bị công nghệ sản xuất, nhờ vậy mà luôn duy trì vị trí hàng đầu trong công nghệ, cũng như độc quyền cung cấp các thiết bị then chốt trong dây chuyền sản xuất xi măng.
* Bối cảnh chung của khoa học công nghệ xây dựng Việt nam : Trong những năm gần đây nhờ chính sách đổi mới, mở cửa thị trường trong nước, các doanh nghiệp xây dựng Việt nam đã tìm kiếm được các nguồn vốn để đầu tư, chiều sâu, nâng cấp trình độ công nghệ, do đó năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, dịch vụ đã được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Nhiều đơn vị cơ sở thuộc ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng đã được đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị với trình độ tiến tiến và hiện đại trên thế giới. Các chủng loại sản phẩm phong phú hơn. Nhiều thiết bị, công nghệ sản xuất, thi công mới hiện đại được du nhập và áp dụng.
Sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đã tạo sự tăng trưởng kinh tế rõ nét, kéo theo sự tăng trưởng của ngành xây dựng, nhưng cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong đó có các vấn đề liên quan đến môi trường khoa học công nghệ cần được quan tâm xem xét. Đó là những vấn đề liên quan đến cơ sở vật chất trang thiết bị của các doanh nghiệp xây dựng trong cả nước, đến hệ thống nghiên cứu - triển khai - phát triển công nghệ, đến nguồn nhân lực và đào tạo, đến hệ thống cơ chế chính sách và hệ thống văn bản pháp qui kỹ thuật của nhà nước. Cụ thể với tình trạng lạc hậu về cơ sở vật chất, thiếu thốn trang thiết bị thi công xây lắp, công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng ở nhiều cơ sở còn thủ công, hoặc cơ giới hoá mức độ thấp. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp đó làm ăn thiếu hiệu quả, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Hệ thống nghiên cứu - triển khai - phát triển công nghệ tuy đã được nhà nước và Bộ xây dựng quan tâm trong những năm qua, nhưng so với yêu cầu vẫn còn một khoảng cách quá xa. Trang thiết bị và năng lực của nhiều phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu còn thấp, chỉ tiến hành được các thí nghiệm đơn giản, độ chính xác chưa cao. Đội ngũ cán bộ tuy được đào tạo nhiều, nhưng chất lượng không cao, năng lực triển khai nghiên cứu khoa học công nghệ của nhiều cán bộ còn rất hạn chế. Công tác đào tạo cán bộ tại trường đại học và trung học chuyên nghiệp còn nhiều bất cập, chưa thực sự gắn với thực tiễn phát triển đất nước và tiếp cận kịp thời những tiến bộ khoa học công nghệ của nhân loại. Với cơ chế chính sách của nhà nước, của ngành xây dựng, mặc dù những năm qua đã có nhiều thay đổi tích cực, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho áp dụng phát triển khoa học công nghệ xây dựng, nhưng vẫn còn nhiều điểm bất cập, cần phải đổi mới triệt để hơn nữa.
Trước tình hình đó, chính phủ và Bộ xây dựng đã đặt ra mục tiêu và những giải pháp phát triển từ nay cho đến năm 2020 cho khoa học công nghệ Việt nam nói chung và của ngành xây dựng nói riêng như sau : ”đến năm 2020 đạt trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng điểm như công nghệ sinh học, xây dựng, vật liệu cơ bản... ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện đại, nhằm tiếp cận trình độ thế giới trong một số lĩnh vực quan trọng, làm cơ sở vững chắc cho phát triển các ngành công nghiệp hiện đại”. Để đạt được điều này, những mục tiêu cụ thể đã được đặt ra như : Phát triển năng lực nội sinh, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ có chất lượng cao, có đủ năng lực và trình độ nghiên cứu, giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển hiện đại hoá hệ thống khoa học công nghệ theo hướng mở, gắn kết nghiên cứu với đào tạo, sản xuất kinh doanh; đầu tư có chọn lọc, tập trung dứt điểm tới ngưỡng hiện đại đối với một số cơ sở nghiên cứu trọng điểm; Đi “ tắt”, đón đầu bằng cách nhập công nghệ tiên tiến có chọn lọc, cải tiến và dần dần sáng tạo công nghệ mới, cương quyết không nhập các công nghệ lạc hậu; Đầu tư tập trung theo hướng ưu tiên từng giai đoạn và cạnh tranh trong tiếp nhận đầu tư; đổi mới hệ thống quản lý điều phối hoạt động khoa học công nghệ...
Như vậy nhìn vào tình hình phát triển chung của khoa học công nghệ trên thế giới và ở Việt nam, thấy có nhiều cơ hội và thách thức lớn đối với các doanh nghiệp tư vấn xây dựng nói chung và với CCBM nói riêng, cụ thể là ở một số điểm chính sau :
Cơ hội :
+ Khả năng tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ thế giới và khu vực được mở rộng ra nhiều hơn bao giời hết.
+ Cơ chế chính sách cuả nhà nước được hoàn thiện đổi mới theo hướng tích mở rộng đường để các doanh nghiệp làm công tác khoa học kỹ thuật phát triển.
+ Các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ trong nước sẽ có điều kiện phát triển, hiện đại hoá sẽ tạo điều kiện cho sự hợp tác hiệu quả hơn giữa các doanh nghiệp tư vấn xây dựng với các các cơ sở này.
+ Môi trường đào tạo các cán bộ khoa học kỹ thuật, nguồn cung cấp nhân lực cho các doanh nghiệp tư vấn sẽ được nâng lên tạo lợi thế cải thiện vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp này trong tương lai.
Thách thức :
+ Sự phát triển vũ bão của KH và CN sẽ đòi hỏi các doanh nghiệp tư vấn phải có những chính sách cụ thể, phải có sự đầu tư thích đáng và thường xuyên công tác nghiên cứu, cập nhật và ứng dụng các tiến bộ kKH và CN vào lĩnh vực hoạt động của mình.
+ Trình độ phát triển KH và CN của các nước trên thế giới và các nước trong khu vực vượt khá xa so với Việt nam, tạo sự bất lợi và áp lực rất lớn đối với các doanh nghiệp tư vấn trong nước trên thị trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng và không phân biệt .
c/ Môi trường xã hội, dân số và lao động
Nhìn chung môi trường xã hội, dân số và lao động của Việt nam những năm vừa qua và triển vọng những năm tới tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động và phát triển các doanh nghiệp tư nói chung trong đó có CCBM.
Thuận lợi :
- Việt nam có dân số đông, gần 80 triệu người, trong đó đa phần là nông dân nghèo, điều kiện nhà ở còn ở mức tối thiểu. Thị trường xây dựng và cung vật liệu xây dựng còn rất lớn, nhất là trong những năm tới khi đời sống, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên theo đà tăng trưởng của nền kinh tế trong nước.
- Nước ta có mặt bằng dân trí, số lượng và chất lượng cán bộ khoa học công nghệ không kém nhiều nước trong khu vực. Nhân dân ta cần cù lao động, học tập, thông minh, nhạy bén với cái mới, giàu lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Đó là thuận lợi rất đáng kể để phát huy nội lực phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Khó khăn thách thức :
- Thị hiếu của người Việt nam nói chung là thích dùng hàng ngoại, hàng chất lượng cao, có độ bền tốt, đặc biệt là các sản phẩm xây dựng, cho dù giá cả có cao hơn, đôi khi không quan tâm nhiều đến hiệu quả sử dụng, tính thời trang. Điều này tuy những năm qua đã có những thay đổi, người dân đã có con mắt nhìn thực dụng hơn, quan tâm đến hiệu quả hơn, nhưng vẫn còn khá nặng, đặc biệt rơi vào tầng lớp nông dân, những người có thu nhập thấp. Đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng phải có quan điểm thực tiễn và áp lực thường xuyên đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm cũng như dịch vụ cung cấp.
- Trong xã hội Việt nam, khác với các nước phát triển, thói quen sử dụng nhà tư vấn hầu như chưa phổ cập. Vai trò của nhà tư vấn trong xã hội chưa được coi trọng và đánh giá cao. Đặc biệt là trong công tác đầu tư xây dựng, rất nhiều công trình ở các địa phương, các khu nhà dân trong quá trình đầu tư xây dựng không có sự tư vấn của những nhà chuyên môn, của những tổ chức chuyên nghiệp, nên chất lượng thấp, kiến trúc xấu, gây lãng phí đáng kể cho xã hội
d/ Môi trường chính trị và pháp luật
Môi trường chính trị và pháp luật của nước ta hiện nay và trong tương lai từ nay đến năm 2020 được đánh giá chung là an ninh chính trị ổn định, kiên trì với đường lối mở cửa chủ động hội nhập với các nền kinh tế quốc tế và khu vực, tiếp tục hoàn thiện các thể chế luật định tạo điều kiện và động lực cho các ngành kinh tế phát triển.
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020, đưa Việt nam trở thành nước công nghiệp phát triển những năm sau đó, bên cạnh việc phát huy tối đa nội lực, Đảng và Chính phủ chủ trương tận dụng tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Do vậy đã quyết tâm tạo ra môi trường kinh doanh tốt ở Việt Nam, bằng chứng là đã tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới, đặc biệt mới đây Việt nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Để đạt được điều đó, Việt nam đã phải hoàn thiện nhiều thể chế luật định, cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt nam hoạt động bình đẳng trong một “sân chơi” chung của thế giới, cũng như tạo thị trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp quốc tế và trong nước tại Việt nam.
Các bộ luật doanh nghiệp, luật xây dựng, luật đầu tư mới được Quốc hội Việt nam thông qua và ban hành là một bằng chứng thể hiện quá trình hoàn thiện các thể chế luật pháp và chính sách của Nhà nước, nó thực sự là những cải tiến, đổi mới trong chính sách pháp luật tạo môi trường luật pháp tốt cho các nhà kinh doanh, cho phát triển kinh tế.
Hiện nay Đảng và Chính đang chủ trương đẩy mạnh và thực hiện triệt để công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm huy động tối đa nguồn vốn trong dân, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động, độc lập hơn trong hoạt động phát triển của mình.
e/ Môi trường quốc tế
Vấn đề nổi bật nhất của thế giới hiện nay đó là xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang tác động sâu sắc đến hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế văn hoá xã hôi. Thế giới đang chứng kiến sự phát triển vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối tiêu dùng, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Trong bối cảnh đó, Việt nam đã có những bước đi thích hợp để hội nhập với thế giới. Trong chặng đường đổi mới 20 năm qua Việt nam đã có những chuyển biến sâu sắc và đạt được những kết quả quan trọng từ việc khôi phục bình thường hoá quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB), Việt nam đã gia nhập các diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, được kết nạp vào diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, và mới đây tháng 12 /2006 Việt nam đã chính thức trở thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến nay Việt nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 100 nước và vùng lãnh thổ, ký kết gần 90 hiệp định thương mại song phương, hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ, 48 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 42 hiệp định chống đánh thuế 2 lần... Có thể với những bước đi như vậy Việt nam đã thực sự tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế đất nước, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường thế giới.
Đánh giá những cơ hội và thách thức của môi trường quốc tế, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, đến con đường phát triển của các doanh nghiệp trong nước, trong đó có các doanh nghiệp tư vấn xây dựng, bà Phạm Chi Lan, nguyên chủ tịch phong thương mại Việt nam, thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính Phủ tại một cuộc Hội thảo “nâng cao năng lực dịch vụ tư vấn xây dựng để hội nhập” tháng 4/2005 đã tổng kết và phát biểu như sau :
Cơ hội : - Mở cửa thị trường, nhiều cơ hội xuất khẩu hơn
- Thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài
- Môi trường kinh doanh được cải thiện, tạo cơ sở cho kinh tế trong nước phát triển ổn định, giảm chi phí kinh doanh
- Hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh
- Phát triển khoa học và công nghệ,
- Sử dụng tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Hạ tầng cơ sở và các dịch vụ sẽ tốt hơn
- Giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế được công bằng hơn.
Thách thức :
- Phải chấp nhận luật chơi chung
- Phải mở cửa thị trường trong nước
- Cạnh tranh quyết liệt cả thị trường trong nước
- Tốc độ phát triển và điểm xuất phát thấp, đang chuyển đổi thể chế kinh tế.
- Năng lực cạnh tranh còn hạn chế
- Phải tuân thủ nhiều tiêu chuẩn quốc tế
- Các ưu đãi, trợ cấp của Nhà nước bị bãi bỏ làm tăng chi phí của các doanh nghiệp
Trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế và thương mại thế giới, do lĩnh vực dịch vụ tư vấn kỹ thuật là lĩnh vực Việt Nam còn yếu kém, nên đã có các cam kết trong ASEAN, hiệp định thương mại Việt nam - Hoa kỳ và trong WTO. Cụ thể :
- Cam kết với ASEAN : Trong những năm 2002-2004 Bộ Xây dựng đã chủ trì tham gia xây dựng các Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN (MRAs) đối với các lĩnh vực dịch vụ tư vấn kỹ thuật (engineering), kiến trúc và khảo sát.
- Cam kết về dịch vụ tư vấn kiến trúc, kỹ thuật và kỹ thuật đồng bộ trong BTA. Theo BTA, các công ty Mỹ chính thức được phép thành lập công ty 100% vốn của Mỹ. Trong vòng 2 năm kể từ khi thành lập và hoạt động, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Mỹ chỉ được cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Sau đó sẽ không có bất cứ hạn chế nào.
- Trong WTO : Về hiện diện thương mại tương tự như trong BTA. Về đối xử quốc gia có qui định rõ không có hạn chế, duy chỉ có các dịch vụ liên quan đến khảo sát địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn và môi trường, khảo sát kỹ thuật phục vụ thiết kế qui hoạch trừ trường hợp được Chính Phủ Việt nam cho phép. Kỹ sư chuyên gia nước ngoài làm việc tại các công ty 100% vốn nước ngoài phải có chứng chỉ hành nghề tại Việt nam.
Như vậy ngoài các thách thức chung cho các doanh nghiệp Việt nam nêu trên, các doanh nghiệp tư vấn xây dựng Việt nam còn có thêm những thách thức là phải cạnh tranh với các nhà tư vấn nước ngoài có tiềm lực hơn, chuyên nghiệp và có nhiều kinh nghiệm hơn ngay tại “sân nhà”.
Từ những phân tích môi trường bên ngoài có thể rút ra những cơ hội và thách thức chính đối với CCBM theo sơ đồ PEST như hình 10.
Phân tích môi trường ngành
a/ Tình hình phát triển của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, những cơ hội , thách thức đặt ra đối với công tác tư vấn công nghiệp vật liệu xây dựng.
Gần 20 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng Việt nam không ngừng phát triển, không những về số lượng, mà cả về chất lượng, chủng loại mặt hàng, đáp ứng được nhu cầu thị trường xây dựng trong nước. Sản lượng xi măng hàng năm từ 2.55 triệu tấn năm 1990 nay tăng lên gần 30 triệu tấn dự kiến đến năm 2010 là 40 triệu và năm 2015-2010 là 60 triệu tấn năm. Sản lượng gạch ốp lát ceramic, granite từ 200.000 m2 năm 1993 nay là 80 triệu m2, vượt ngưỡng mức cầu. Sản lượng sứ vệ sinh từ 20.000 sản phẩm năm 1993 nay là hơn 3 triệu sản phẩm năm. Kính xây dựng tăng từ 2.4 triệu m2 năm nay là hơn 50 triệu m2. Có được kết quả như vậy là do có quá trình đầu tư đổi mới công nghệ và trang thiết bị mới, là sự nỗ lực, chủ động mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp.
Công nghệ (T)
- Phát triển vũ bão, toàn diện, khả năng tiếp cận cao hơn bao giờ hết
- Trình độ công nghệ chênh lệch so với các nước
- Cơ sở nghiên cứu, đào tạo KH&CN, chính sách còn bất cập
-
-
Luật pháp,Chính trị (P)
- Chính trị ổn định
- Hoàn thiện luật pháp theo kinh tế thị trường
- Các cam kết khi gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới
-
-
Kinh tế (E)
- GDP tăng trưởng 8.5%, CNH& HĐH
- Hội nhập quốc tế
- Mở cửa thị trường, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài
- Cạnh tranh khốc liệt
Xã hội - văn hóa (S)
- Dân số đông, nhu cầu VLXD lớn
- Thị hiếu sính hàng ngoại, hàng hiệu, chất lượng cao
- Thói quen sử dụng tư vấn thấp
-
-
CCBM
Hình 10. Những cơ hội và thách thức chính theo mô hình phân tích môi trường bên ngoài PEST
* Chủ lực trong ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng là công nghiệp xi măng : Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp xi măng đang có những bước phát triển vượt bậc và hiện nay đang là giai đoạn bùng nổ về đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng. Có thể đánh giá về tình hình phát triển ngành công nghiệp xi măng Việt Nam thông qua một số nội dung cụ thể sau:
- Năng lực sản xuất tăng vọt : Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đầu tư phát triển của xã hội tăng nhanh, nhu cầu về xi măng tăng nhanh làm cho tốc độ đầu tư xi măng tăng nhanh. Do liên tục đầu tư phát triển nên sản lượng xi măng năm 2003 so với năm 1995 tăng gấp 3,5 lần, nếu so với sản lượng năm 1990 tăng gấp 8,86 lần.
- Quy mô đầu tư: Trong giai đoạn vừa qua quy mô đầu tư tương đối đa dạng. Có thể phân thành 3 loại quy mô: quy mô lớn (>3000 tấn clanhke/ngày), quy mô vừa (1000 đến 3000 tấn clanhke/ngày), quy mô nhỏ (<1000 tấn clanhke/ngày). Sự đa dạng về quy mô như vậy phù hợp với điều kiện địa hình Việt Nam và mức độ huy động tài chính, trình độ quản lý, khai thác của ta. Các nhà máy quy mô nhỏ đã góp phần làm thay đổi tình hình kinh tế của nhiều địa phương, góp phần nâng cao dân trí, tạo công việc cho các vùng nông thôn, tăng thu ngân sách cho các tỉnh. Các nhà máy lớn đã tạo ra nền công nghiệp xi măng tiếp cận được với trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới.
- Tiến độ đầu tư: Việc xác định tiến độ đầu tư các dự án phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên tốc độ hoàn thành các dự án đầu tư để đi vào khai thác thường bị chậm. Hiện nay có 3 nguyên nhân cơ bản tác động đến tiến độ các dự án là: Trình độ quản lý triển khai dự án của các chủ đầu tư, việc thu xếp tài chính và các thủ tục trong đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập.
- Suất đầu tư: suất đầu tư cho một tấn công suất xi măng ở Việt Nam còn cao so với các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, các dự án triển khai gần đây đang có xu thế giảm dần do giảm được chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài nhà máy (đường giao thông, đường điện) và tập trung thi công đảm bảo tiến độ để giảm chi phí lãi vay trong thời gian thi công v.v...
- Khả năng huy động vốn đầu tư: So với năm 1998 tỷ trọng huy động vốn vay từ ngân hàng nước ngoài so với vốn vay trong nước giảm dần. Hiện nay, đã có một số dự án sử dụng các nguồn vay trong nước, như dự án xi măng Hải Phòng (mới), Sông Gianh, Thái Nguyên. Đầu tư vào lĩnh vực xi măng đang là mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài bởi công nghiệp xi măng vẫn là ngành hoạt động đem lại hiệu quả khả quan.
- Trình độ công nghệ tại thời điểm đầu tư: Tuy Việt Nam chưa tự chế tạo được máy móc công nghệ, nhưng nói chung hầu hết các thiết bị công nghệ được lựa chọn vào mỗi thời điểm đều đạt trình độ trung bình tiên tiến của thế giới. Các dây chuyền công nghệ đầu tư giai đoạn sau 1990 đều đạt trình độ tiên tiến trung bình thế giới tại thời điểm chọn mua công nghệ.
Ngành công nghiệp xi măng trong giai đoạn vừa qua thực sự đã mang lại hiệu quả kinh tế xã - hội khá lớn :
+ Tạo ra sản phẩm xi măng phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Về cơ bản ngành sản xuất xi măng của Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội cả về số lượng, chất lượng và chủng loại, đóng góp khoảng 9 - 11% trong tổng đóng góp vào GDP của khối công nghiệp. Một vài năm gần đây vẫn phải nhập clanhke vì tốc độ phát triển xây dựng quá nhanh, tốc độ đầu tư phát triển ngành công nghiệp xi măng không theo kịp. Tuy nhiên theo kế hoạch, tình trạng này sẽ được khắc phục trong những năm tới.
+ Tạo việc làm cho một lực lượng lao động khá lớn của xã hội: trên 40.000 lao động.
+ Ngành công nghiệp xi măng phát triển đã kéo theo nhiều ngành nghề khác phát triển.
+ Ngành công nghiệp xi măng tạo ra bộ mặt mới cho ngành công nghiệp Việt Nam : Công nghệ sản xuất xi măng khá hiện đại và tổng hợp thành quả phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác như cơ khí, điện, điện tử, tự động hoá, ...
+ Làm thay đổi bộ mặt xã hội ở những vùng đặt nhà máy, góp phần rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, góp phần hình thành nhanh các khu đô thị mới.
Mặc dù vậy ngành công nghiệp xi măng Việt Nam vẫn bộc lộ một số tồn tại như sau:
- Do điều kiện thiếu xi măng cho phát triển, nên thời gian qua Việt Nam phải chấp nhận việc đầu tư xây dựng nhanh một loạt các nhà máy xi măng lò đứng có công nghệ lạc hậu, có tác động không tốt tới môi trường sống của dân cư ở các khu vực có nhà máy. Kèm theo đó, việc tổ chức khai thác nguyên liệu phục vụ cho hoạt động cả nhà máy chưa được tổ chức bài bản, dẫn đến lãng phí tài nguyên đá vôi.
- Các doanh nghiệp nhà nước tham gia sản xuất xi măng chiếm gần nửa thị phần nhưng hoạt động chưa đạt được hiệu quả như mong muốn của Nhà nước, do vậy việc nhanh chóng cổ phần hóa các doanh nghiệp này là một chủ trương đúng đắn của Nhà nước nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính của các doanh nghiệp này và hoạt động thực sự năng động hơn trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Chưa có chính sách hợp lý để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư, phần nào những giải pháp huy động vốn còn quá mới đối với dân cư Việt Nam như cổ phần hóa, nên tiến trình này diễn ra còn chậm, chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Trong khi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn khan hiếm, làm cho mong muốn của Nhà nước trong việc đầu tư hệ thống giao thông vận tải cũng bị hạn chế, việc vận chuyển các sản phẩm công nghiệp cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần có phải có sự sửa đổi, bổ sung chính sách để khắc phục những tồn tại và để có được các công cụ quản lý nền kinh tế một cách linh hoạt, mềm dẻo, đem lại hiệu quả cao.
* Định hướng phát triển công nghiệp xi măng từ nay đến 2015 và 2020 : được nêu trong “Qui hoạch phát triển phát triển công nghiệp xi măng Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” được Chính phủ ban hành tại quyết định 108/2005/QĐ-TTg ngày 16/6/2005. Định hướng này được xây dựng dựa trên dự báo nhu cầu ximăng và dự báo cân đối cung cầu xi măng trên toàn quốc giai đoạn 2005-2015 được nêu cụ thể ở các bảng sau :
Bảng 4 . Tổng hợp dự báo nhu cầu xi măng giai đoạn 2006-2015.
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Triệu tấn XM
32,48
35,68
39,10
42,75
46,65
50,38
54,41
58,76
63,46
68,54
Nguồn: Viện Vật liệu XD - Bộ XD
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Nam
Trieu tan XM
Series1
Hình 11. Biểu đồ dự báo nhu cầu xi măng giai đoạn 2006 – 2015.
Như vậy theo dự báo nhu cầu xi măng đến năm 2020 khoảng 68-70 triệu tấn, (với mức tăng trưởng tiêu thụ bình quân năm trong giai đoạn 2016-2020 khoảng 2.5 - 3.0%), bình quân tiêu thụ xi măng đầu người của cả nước đạt khoảng 680 - 700 kg. Sản xuất xi măng ở trong nước đến năm 2015 sẽ đạt trên 63 triệu tấn (nếu các dự án nêu trong qui hoạch được triển khai đúng tiến độ). Tuy nhiên để đáp nhu cầu tiêu thụ xi măng đến năm 2020 như dự báo đã nêu, cần tiếp tục đầu tư mở rộng hoặc xây dựng mới một số dây chuyền xi măng ở các khu vực có triển vọng về thị trường và có điều kiện giao thông thuận lợi nhất là giao thông thuỷ để cung ứng cho khu vực phía nam. Về qui mô đầu tư chỉ tập trung vào các dây chuyền công nghệ có công suất lớn (> 4000 t.clinker/ngày), có trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới. Bên cạnh đó theo bản qui hoạch này để nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo điều kiện môi trường, đến năm 2010, tất cả các nhà máy xi măng lò đứng (khoảng 50 nhà máy) phải chuyển đổi sang công nghệ lò quay tiên tiến.
* Bên cạnh ngành công nghiệp xi măng (là chủ lực) là công nghiệp sản xuất gạch ngói, gạch ốp lát, sứ vệ sinh và kính xây dựng. Những năm qua các ngành sản xuất vật liệu xây dựng này đã được đầu tư mạnh, đến nay năng lực sản xuất của các ngành này đều đã đáp ứng thậm chí vượt nhu cầu của thị trường trong nước, phải tìm thị trường xuất khẩu. Công nghệ sản xuất của các cơ sở này nhìn chung là hiện đại, chất lượng mẫu mã sản phẩm về cơ bản đã đáp ứng được thị hiếu khách hàng. Tuy nhiên do cung đã vượt quá cầu, nên hiện đã có tình trạng cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp do vay vốn nhiều, suất đầu tư cao, thiếu tính toán kỹ nên gặp rất nhiều khó khăn. Trong tình hình như vậy, định hướng phát triển từ nay đến năm 2015 và 2020, của các doanh nghiệp này là ổn định sản xuất, hoàn thiện kỹ thuật sản xuất, dây chuyền công nghệ, đầu tư chiếu sâu nhằm khai thác tối đa năng lực sản xuất sẵn có, giảm giá thành sản xuất, làm tốt công tác marketing, củng cố thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
* Trước hiện trạng và định hướng của công nghiệp vật liệu xây dựng đến năm 2020, đặc biệt là công nghiệp xi măng, đã đặt ra những yêu cầu đòi hỏi, cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp tư vấn vật liệu xây dựng
- Cơ hội :
. Việc tiếp tục tăng trưởng trong đầu tư xi măng, với tổng công suất cần phải tăng thêm khoảng 20 triệu tấn, với công nghệ kỹ thuật hiện đại, tổng chi phí đầu tư cao và việc hàng loạt nhà máy xi măng lò đứng (khoảng 50 nhà máy) có công nghệ lạc hậu phải thực hiện chuyển đổi sang công nghệ lò quay, phương pháp khô, có tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112195.doc