Theo Trung tâm Tin học & Thống kê, khối lượng gạo xuất khẩu gạo tháng 12/2007 ước đạt 60.000 tấn, kim ngạch đạt trên 29 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 35% về lượng và 2,1 lần về giá trị. Khối lượng gạo xuất năm 2007 ước đạt 4,5 triệu tấn, kim ngạch 1,46 tỉ USD, so với năm 2006 giảm 3% về lượng, nhưng tăng 14,4% về giá trị. Lượng gạo xuất khẩu đảm bảo hạn mức xuất khẩu 4,5 triệu tấn của năm 2007. Khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp, có thời điểm đạt mức ngang giá. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm nay đạt khoảng 300USD/tấn, tăng 17,5% so với năm trước. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn cung do những ảnh hưởng của thiên tai và sâu bệnh, song năm 2007 vẫn được xem là năm thắng lợi trong xuất khẩu gạo của Việt Nam nhờ giá cả tăng và nhu cầu thị trường thế giới luôn ở mức cao.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4291 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự chủ trong các quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải cách về chế độ sử dụng ruộng đất và thuế đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp. Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ đầu thập kỷ 90.
Bảng 1 Diện tích, năng suất và sản lượng lúa phân theo vùng, giai đoạn 1990-2002
1990
2002
2002
1990-2002
% tăng hàng năm
% đóng góp tăng SL
1. Sản lượng lúa, 1000 tấn
Cả nước
19225.1
32529.5
34063.5
4.88
100.0
Đồng bằng sông Hồng
3890.8
6586.6
6685.3
4.61
100.0
Đông Bắc
1180.4
2065.0
2328.9
5.83
100.0
Tây Bắc
248.8
403.6
451.5
5.09
100.0
Bắc Trung Bộ
1642.3
2824.0
3138.9
5.55
100.0
Duyên hải Nam Trung Bộ
1347.3
1681.6
1705.4
1.98
100.0
Tây Nguyên
386.1
586.8
609.5
3.88
100.0
Đông Nam Bộ
1049.1
1679.2
1666.1
3.93
100.0
Đồng bằng sông Cửu Long
9480.3
16702.7
17477.9
5.23
100.0
2. Diện tích GT, 1000 ha
Cả nước
6042.8
7666.3
7485.4
1.80
37.3
Đồng bằng sông Hồng
1158.0
1212.6
1196.7
0.27
6.0
Đông Bắc
519.2
550.3
562.5
0.67
11.6
Tây Bắc
144.3
136.8
140.8
-0.20
-4.0
Bắc Trung Bộ
677.0
695.0
700.4
0.28
5.1
Duyên hải Nam Trung Bộ
414.6
422.5
399.5
-0.31
-15.5
Tây Nguyên
165.3
176.8
186.1
0.99
25.8
Đông Nam Bộ
384.3
526.5
485.6
1.97
50.6
Đồng bằng sông Cửu Long
2580.1
3945.8
3813.8
3.31
64.0
3. Năng suất lúa, tấn/ha
Cả nước
3.2
4.2
4.6
3.03
62.7
Đồng bằng sông Hồng
3.4
5.4
5.6
4.33
94.0
Đông Bắc
2.3
3.8
4.1
5.12
88.4
Tây Bắc
1.7
3.0
3.2
5.31
104.0
Bắc Trung Bộ
2.4
4.1
4.5
5.25
94.9
Duyên hải Nam Trung Bộ
3.2
4.0
4.3
2.30
115.5
Tây Nguyên
2.3
3.3
3.3
2.86
74.2
Đông Nam Bộ
2.7
3.2
3.4
1.92
49.4
Đồng bằng sông Cửu Long
3.7
4.2
4.6
1.86
36.0
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống Kê,1990-2002
Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt động thương mại quốc tế đối với ngành hàng lúa gạo cũng đã được đẩy mạnh. Một trong những bước thay đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại đó là việc xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, và cũng nhờ đó mà đã tăng nhanh được lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam xuất khẩu trung bình hàng năm khoảng 3,8 triệu tấn, cung cấp gạo cho hơn 120 quốc gia trên thế giới, thuộc tất cả các Châu lục khác nhau, tuy nhiên chủ yếu vẫn là xuất sang Châu Á (52%), Châu Âu (20%) và Trung Đông (12,7%). 5 nước đứng đầu trong danh sách nhập khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1997-2001 đó là: In-đô-nê-xi-a (14,8%), Phi-li-pin (12,6%), Xin-ga-po (9,9%), Irắc (9,8%) và Thuỵ sĩ (8,4%).
Bảng 2 Gạo XK của Việt Nam, bình quân hàng năm giai đoạn 1997-2001
%
Tấn
USD
USD/Tấn
Tổng xuất khẩu
100
3,808,655
843,051,138
221
10 nước nhập khẩu chính:
71,3
2,717,187
623,565,919
229
Indonesia
14,8
564055
125731239
223
Philippines
12,6
478948
105547780
220
Singapore
9,9
376044
80450007
214
Irắc
9,8
373875
109189133
292
Thuỵ Sĩ
8,4
318374
70154242
220
Malaysia
5,1
193526
43769917
226
Mỹ
3,2
121908
26744283
219
Hồng Kông
2,9
110272
23985801
218
Hà Lan
2,8
108478
24839738
229
Nga
1,9
71708
13153779
183
Gạo xuất khẩu của Việt Nam (1997-2001) phân theo khu vực, %
Cơ cấu luợng XK
Cơ cấu Giá trị XK
Tổng cộng:
100,0
100,0
Châu Á
52,0
51,0
Đông-Nam-Á
46,2
45,4
Châu Âu
20,4
19,6
Đông Âu
4,4
3,8
Trung Đông
12,7
16,0
Châu Phi
8,2
6,9
Châu Mỹ
5,5
5,3
USA
3,2
3,2
Châu Đại Dương
1,1
1,1
Nguồn của Tổng cục Thống Kê, 2001
Về nhập khẩu, lượng gạo nhập khẩu chính ngạch vào thị trường Việt Nam không nhiều, chỉ khoảng 20 nghìn tấn/năm. Gạo nhập khẩu chủ yếu là gạo thơm, chất lượng cao của Thái Lan và thường được nhập vào thời điểm giáp tết. Thuế suất nhập khẩu gạo chính ngạch phụ thuộc vào các hiệp định song phương giữa Việt Nam và nước xuất khẩu, nhưng thông thường thuế suất nhập khẩu gạo là khoảng 40%. Mặc dù lượng gạo nhập khẩu theo đường chính ngạch vào Việt Nam không lớn, nhưng thường xuyên vẫn thấy một trữ lượng lớn gạo thơm của Thái Lan tại thị trường thành phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận.
Tuy nhiên ngành lúa gạo Việt Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức lớn, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng trong quá trình mở rộng hội nhập quốc tế. Tuy hiện nay năng suất lúa bình quân chung của cả nước đã khá cao đạt khoảng 4,5 tấn/ha, song giữa các vùng sinh thái khác nhau trong nước lại có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lúa. Ở các vùng đồng bằng một số hộ nông dân trồng lúa đã đạt được năng suất rất cao, 10-12 tấn/ha, trong khi đó năng suất lúa ở các vùng trung du miền núi và các vùng đất cát duyên hải thường lại rất thấp, chỉ đạt bình quân khoảng trên 2 tấn/ha. Luợng gạo tham gia vào các kênh lưu thông chủ yếu phụ thuộc vào hai nguồn cung cấp chính đó là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Bất kỳ một rủi ro thiên tai nào xảy ra ở hai vựa thóc lớn này đều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Trên thực tế, các vùng sản xuất nông nghiệp nằm ngoài các châu thổ sông lớn đều không có gạo dư thừa, ngoại trừ một vài năm gần đây ở một số địa phương vùng cao nông dân được mùa do gặp điều kiện thời tiết thuận lợi, nên lượng gạo sản xuất đã vượt hơn mức tiêu dùng của địa phương. Sản xuất lúa gạo ở các vùng duyên hải và trung du miền núi chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, hay nói một cách khác là sản xuất thuần tuý mang tính tự cung tự cấp, và vẫn còn tình trạng một số hộ nông dân không đủ lương thực cho tiêu dùng gia đình từ một đến hai tháng trong năm. Thiếu việc làm để đảm bảo thu nhập ổn định và thiếu vốn để mua vật tư thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp đang là những trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Các hoạt động chế biến và lưu thông lúa gạo tuy đã có những bước phát triển đáng kể song vẫn đang còn quá nhiều trở ngại cần phải phấn đấu vượt qua. Ngành chế biến xay xát lúa gạo hiện đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ một hệ thống chủ yếu dựa vào các cơ sở chế biến xay xát quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa và chỉ có một số ít các nhà máy xay xát gạo qui mô lớn phục vụ cho thị trường xuất khẩu, tiến tới một mô hình chế biến công nghiệp hiện đại hơn với nhiều nhà máy chế biến quy mô lớn. Trình độ công nghệ áp dụng trong chế biến lúa gạo của Việt Nam hiện vẫn còn lạc hậu, chất lượng gạo chế biến còn thấp, tỉ lệ hao hụt lớn và tỉ lệ gạo vỡ còn cao. Một trong những nguyên nhân chính làm chậm quá trình hiện đại hoá công nghệ của ngành chế biến lúa gạo đó là thiếu vốn đầu tư. Đối với các cơ sở chế biến gạo qui mô lớn, hệ thống cung cấp tín dụng chính thức hiện tại do thiên về ưu tiên phục vụ cho các doanh nghiệp quốc doanh nên đã phần nào đã kìm hãm khả năng cạnh tranh có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân. Hơn nữa, phần lớn các hợp đồng chính phủ lại giao cho các công ty quốc doanh thực hiện, nên khả năng mở rộng các hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân bị hạn chế.
Những vướng mắc về thể chế và sự yếu kém về cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh lúa gạo đang là nhân tố kìm hãm sự phát triển của ngành. Chi phí cao trong hệ thống cung cấp tín dụng chính thức đã không khuyến khích được người nông dân và các nhà chế biến lúa gạo gia tăng mức đầu tư, chỉ khoảng 1/3 số hộ nông thôn tiếp cận được hệ thống tín dụng chính thức, nhưng phần lớn là vay ngắn hạn (dưới 1 năm) và lượng vay nhỏ (khoảng 300 USD) và buộc nông dân phải tìm đến hệ thống tín dụng phi chính thức và khiến các nhà xay xát phải trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư.
2.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu lúa gạo sau khi gia nhập WTO :
Việt Nam đã hoàn tất thủ tục gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) bằng việc Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập tổ chức này. Các nhà đàm phán từ nay đã bàn giao lại “trận địa” cho doanh nhân. Cơ hội đã mở ra hết cỡ, thắng thua phụ thuộc vào mức độ thiện chiến của doanh nhân.
Trong tháng cuối năm 2007, nông dân các tỉnh miền Bắc tiếp tục tập trung công tác làm đất, gieo mạ, tích cực chuẩn bị sản xuất vụ lúa đông xuân 2007- 2008. Trong khi đó, các tỉnh miền Nam hoàn tất thu hoạch lúa mùa, lúa thu đông (lúa vụ 3) và tập trung xuống giống đại trà lúa đông xuân. Theo tính toán của Tổng cục Thống Kê, diện tích gieo cấy lúa cả năm ước đạt 7.181 nghìn ha, bằng 98% (giảm 144 nghìn ha) so với năm trước; trong đó lúa đông xuân đạt 2.988,5 nghìn ha bằng 99,8% (giảm 7 nghìn ha), lúa hè thu 2.204,8 nghìn ha bằng 94,9% (giảm 112,6 nghìn ha), lúa mùa 1.987,4 nghìn ha bằng 98,8% (giảm 24,5 nghìn ha). Diện tích gieo cấy lúa giảm ở cả 3 vụ trong năm và chủ yếu giảm lúa hè thu; nguyên nhân chính do chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, giảm mạnh diện tích lúa thu đông ở đồng bằng sông Cửu Long theo chỉ đạo của ngành để né tránh rầy nâu và do ảnh hưởng của yếu tố thời tiết như hạn hán, mưa bão.
Năng suất lúa cả năm ước đạt 49,8 tạ/ha tăng 0,9 tạ/ha so với năm trước; trong đó, năng suất lúa đông xuân cả nước đạt 57 tạ/ha giảm 1,8 tạ/ha (các địa phương miền Bắc giảm 5,4 tạ/ha) do thời tiết không thuận ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của lúa, sâu bệnh phát sinh trên diện rộng ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ; chậm thay đổi giống mới, giống kháng bệnh thay thế giống thoái hóa, dễ bị nhiễm bệnh; năng suất lúa hè thu ước đạt 46 tạ/ha, tăng 4,1 tạ/ha, nhờ yếu tố thuận lợi về thời tiết so với vụ lúa hè thu năm 2006. Nhiều tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long năng suất lúa hè thu tăng cao, như: Long An tăng 10,2 tạ/ha, Kiên Giang tăng 9,4 tạ/ha, Trà Vinh tăng 6,1 tạ/ha, Bến Tre tăng 6,1 tạ/ha, Hậu Giang tăng 3,8 tạ/ha,...; năng suất lúa mùa ước đạt 43,5 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha.
Sản lượng lúa cả năm ước đạt 35,87 triệu tấn, tăng 68,4 nghìn tấn và bằng 100,2% so cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng lúa đông xuân đạt 17,02 triệu tấn bằng 96,8% (-564,2 nghìn tấn), sản lượng lúa hè thu đạt 10,14 triệu tấn tăng 4,6% (+441,2 nghìn tấn) và sản lượng lúa mùa đạt 8,73 triệu tấn tăng 1,9% (+191,4 nghìn tấn). Tuy nhiên, do ảnh hưởng của bão lụt nên sản lượng lúa mùa của một số vùng giảm nhiều, như: các tỉnh miền Trung giảm 26 nghìn tấn (-6%), Tây nguyên giảm 15,4 nghìn tấn (- 4,1%) so vụ mùa năm 2006.
Có thể nói sản xuất lúa vụ 3 năm 2007 ở các tỉnh ĐBSCL được mùa. Thông thường năng suất lúa vụ 3 rất thấp, thế nhưng vụ 3 năm nay năng suất bình quân đạt 5,5 - 6 tấn /ha, cá biệt có nơi lên đến 8 tấn/ha. Nhiều nông dân ở hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp rất phấn khởi vì chưa có năm nào lúa vụ 3 lại cho năng suất và giá cả cao như năm nay. Giá lúa cũng đứng ở mức cao, dù đang là mùa thu hoạch rộ. Giá lúa cao đã kéo giá gạo, cám tăng theo. Đến giữa tháng, lúa vụ 3 ở tỉnh Đồng Tháp đã thu hoạch trên 80%, với năng suất bình quân 5 tấn/ha. Giá lúa dao động từ 3.600 - 3.700 đồng/kg đối giống chất lượng cao.
Theo Trung tâm Tin học & Thống kê, khối lượng gạo xuất khẩu gạo tháng 12/2007 ước đạt 60.000 tấn, kim ngạch đạt trên 29 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 35% về lượng và 2,1 lần về giá trị. Khối lượng gạo xuất năm 2007 ước đạt 4,5 triệu tấn, kim ngạch 1,46 tỉ USD, so với năm 2006 giảm 3% về lượng, nhưng tăng 14,4% về giá trị. Lượng gạo xuất khẩu đảm bảo hạn mức xuất khẩu 4,5 triệu tấn của năm 2007. Khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp, có thời điểm đạt mức ngang giá. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm nay đạt khoảng 300USD/tấn, tăng 17,5% so với năm trước. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về nguồn cung do những ảnh hưởng của thiên tai và sâu bệnh, song năm 2007 vẫn được xem là năm thắng lợi trong xuất khẩu gạo của Việt Nam nhờ giá cả tăng và nhu cầu thị trường thế giới luôn ở mức cao.
Đồ thị 1 Ước kim ngạch xuất khẩu một số hàng Nông, Lâm, Sản chủ yếu năm 2007
Nguồn Báo cáo của Bộ Nông Nghiệp, 12/2007
Trong tháng 12, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan tăng ổn định, với nhu cầu mạnh tại Thái Lan đóng vai trò trợ giá tích cực. Do nguồn cung xuất khẩu của hai đối thủ cạnh tranh lớn với Thái Lan là Việt Nam và Ấn Độ không còn, các nhà xuất khẩu gạo Thái đang có lợi thế lớn để tăng lượng xuất khẩu trên thị trường thế giới. Nhu cầu trên thị trường Thái Lan chủ yếu là gạo đồ và gạo trắng, bên cạnh nhu cầu ổn định đối với các loại gạo thơm. Tuy nhiên, nguồn cung gạo mới của Thái Lan hiện chưa dồi dào.
Bên cạnh đó, để công tác điều hành xuất khẩu gạo trong năm 2008 được hiệu quả, Bộ Công Thương đã có công văn xin ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành về cơ chế điều hành trên cơ sở chỉ tiêu xuất khẩu chỉ dừng ở mức 4,5 triệu tấn theo đề xuất của Hiệp hội Lương thực Việt Nam. Như vậy, trong năm 2008 chỉ tiêu xuất khẩu gạo vẫn là 4,5 triệu tấn và chỉ công bố một lần. Tuy nhiên, riêng gạo nếp và gạo thơm, các doanh nghiệp được xuất khẩu theo yêu cầu. Với lượng gạo không tăng như vậy, thị trường xuất khẩu trọng điểm của gạo Việt Nam tiếp tục duy trì ở các thị trường truyền thống là Philippines, Indonesia, Malaysia, Cu ba sẽ chiếm khoảng 3 triệu tấn, 1,5 triệu tấn còn lại sẽ xuất khẩu thương mại và các thị trường khác.
2.3. Những thuận lợi và cơ hội sau khi gia nhập WTO
Thứ nhất, đó là chúng ta có một không gian mới về thị trường, WTO là sân chơi lớn toàn cầu. Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu tư.. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO - Kỳ IV: Gạo Việt Nam sẽ thêm nhiều thuận lợi (22/10/2007) . Có thể nói, việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ có nhiều ảnh hưởng tích cực tới việc sản xuất và xuất khẩu gạo. Đó là nhận định của các chuyên gia khi phân tích về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO.
Các chuyên gia cho rằng, tham gia vào WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia vào một hệ thống thương mại rộng mở, tự do và bình đẳng, có cơ hội tiếp cận thị trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Gạo Việt Nam sẽ được hưởng các cam kết ưu đãi thuế quan và phi thuế quan, không phân biệt đối xử như trước đây.
Theo cam kết WTO, Hàn Quốc và Nhật Bản mở cửa thị trường gạo từ mức 3% lên 5% nhu cầu tiêu dùng nội địa vào năm 2001. Hiện nay, hai nước này đang áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với gạo nhập khẩu (Nhật Bản: thuế trong hạn ngạch 0%, thuế ngoài hạn ngạch là 491%; Hàn Quốc là 5% và 89% tương ứng). Theo cam kết WTO, Trung Quốc sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan với gạo nhập khẩu. Thuế trong hạn ngạch tương đối thấp: 1% đối với hàng thô và 10% đối với gạo xát; thuế ngoài hạn ngạch là 80%, được giảm xuống 40% vào năm 2004.
Như vậy, theo các chuyên gia, trước khi gia nhập WTO, gạo Việt Nam bị hạn chế trong việc tiếp cận thị trường đối với một số quốc gia coi gạo là những sản phẩm nhạy cảm, thuộc diện phải bảo hộ cao bằng hạn ngạch thuế quan. Tuy nhiên khi vào WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội được hưởng đối xử bình đẳng như những quốc gia khác nên việc tiếp cận thị trường sẽ thuận lợi hơn và việc xuất khẩu gạo của Việt Nam vào các nước thành viên WTO sẽ tăng mạnh hơn.
Đối với thị trường trong nước, các chuyên gia cũng phân tích rằng, cam kết thuế quan của Việt Nam đối với mặt hàng gạo bình quân trong WTO là 40% (trừ giống lúa). Đây là mức thuế bằng với mức MFN hiện nay và mức thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập này sẽ vẫn được giữ ở mức 40% mà không phải giảm nữa. Điều đó cho thấy, khi Việt Nam gia nhập WTO, gạo Việt Nam sẽ không phải chịu nguy cơ lớn trước sức cạnh tranh đến từ phía gạo nước ngoài; Bởi mức thuế và các điều kiện nhập khẩu khác là hầu như không có sự thay đổi so với trước khi gia nhập WTO.
Bên cạnh đó, khi gia nhập WTO, các DN Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận, chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong việc chế biến gạo từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản. Những công nghệ xử lý độ ẩm, xay xát, lau bóng xuất khẩu sẽ giúp giảm chi phí trung gian, giảm giá thành gạo xuất khẩu, giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có cơ hội làm gia tăng giá trị của gạo trước khi xuất khẩu, nâng cao giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thế giới.
Việc gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,... Những nguồn vốn này giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đầu tư những cơ sở chế biến gạo, thực hiện khép kín từ khâu thu mua lúa đến các công đoạn sau.
Có thể nói, việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ có nhiều ảnh hưởng tích cực tới việc sản xuất và xuất khẩu gạo. Điều quan trọng là các nhà xuất khẩu phải tự lực vận động cùng với sự trợ giúp của Nhà nước, nắm bắt được cơ hội, vượt qua thử thách để gia tăng và phát triển mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, là nhờ sức ép cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới 25 luật và pháp lệnh khi đàm phán nên Việt Nam hiện đã có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO.Gia nhập WTO, chúng ta buộc phải có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán. Trong đàm phán WTO với đa phương, yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta cũng phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định của WTO.Ðể tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi 100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế.Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, họ cho rằng nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định.Chính vì điều đó mà đầu tư nước ngoài năm 2006 tăng hơn rất nhiều so với 2005. Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, đặc biệt là dự án lớn của các công ty đa quốc gia bắt đầu vào Việt Nam.
Thứ ba, là gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu. Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong WTO là dễ thực thi hơn.
Thí dụ, nước A áp thuế chống bán phá giá với một nước thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD, khi WTO giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá không đúng, yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức 100 triệu USD.
Do vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ thực hiện hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án.Tuy nhiên, gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi. Chúng ta càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ có điều mức độ chúng ta được giải quyết sẽ công bằng hơn. Gia nhập WTO không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có điều chúng ta không bị phân biệt đối xử nữa.
2.4. Những khó khăn và thách thức sau khi gia nhập WTO
2.4.1. Cạnh tranh khốc liệt :
Thách thức lớn nhất khi Nông nghiệp Việt Nam hội nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất lượng cao. Do thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nông dân sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Các nước giàu tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó.
Gia nhập WTO có nghĩa là Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều nước mạnh hơn về khoa học kỹ thuật (như Australia, Thái Lan). Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp phản ánh đúng bước đi chậm về khoa học kỹ thuật trong ngành sản xuất lúa gạo của nước ta.
Gạo là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được các nhà hoạch định chính sách xếp vào nhóm có sức cạnh tranh cao trong ngành nông nghiệp nước ta. Sự phát triển lúa gạo là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong công cuộc đổi mới về kinh tế, cân đối đủ nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và sản phẩm gạo Việt Nam đã có mặt và tạo uy tín tại nhiều thị trường trên thế giới. Tuy nhiên, trên thị trường nội địa vẫn có mặt của gạo Thái Lan nhất là các thành phố lớn. Còn trên thị trường thế giới, gạo Việt Nam lại yếu thế cạnh tranh về phẩm chất theo yêu cầu của thị trường và giá cả. Gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gạo tẻ thường, trong một vài năm gần đây đã bắt đầu chú ý sản xuất và xuất khẩu gạo phẩm chất cao và gạo đặc sản nhưng số lượng chưa nhiều. Về giá cả, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá gạo cùng loại của Thái Lan từ 10 đến 20 USD/tấn.
Những lợi thế về chi phí lao động thấp đang dần mất đi trong quá trình tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Để nâng cao khả năng cạnh tranh Việt Nam cần chú trọng cả hai vấn đề giá và chất lượng. Để làm được điều đó chúng ta phải làm tốt ngay từ khâu thu hoạch, chế biến và công nghiệp chế biến để giảm tỷ lệ tổn thất (hiện nay tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch nước ta là 13 - 16%, Thái Lan khoảng 7 - 10%), nâng cao chất lượng gạo ở Việt Nam (80% tổng lượng thóc được xay xát tại các cơ sở nhỏ không được trang bị đồng bộ về sân phơi, sấy và kho chứa, trong khi đó đối với Thái Lan có trên 90% là nhà máy quy mô lớn, được trang bị đồng bộ, nên chất lượng gạo cao hơn).
Bên cạnh đó, khả năng tăng sản lượng do mở rộng diện tích của Việt Nam rất hạn chế, trong khi của Thái Lan, Myanmar, Campuchia còn rất nhiều cơ hội tăng sản lượng lúa gạo do còn tiềm năng nâng cao năng suất, điều kiện mở rộng diện tích lúa. Hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông xuất khẩu gạo (chợ, kho chứa, bến bãi, cảng chuyên dùng cho xuất khẩu gạo...) của Việt Nam còn nhiều yếu kém như các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bến cảng còn cao hơn so với các nước khác. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10.000 tấn ở Việt Nam là 40.000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20.000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc.
Mặc dù là nước xuất khẩu gạo lớn nhưng chưa có thương hiệu, nhãn hiệu gạo nổi tiếng hoặc đặc trưng cho gạo Việt Nam, trong khi các thương hiệu gạo "hương nhài - Jasmine", gạo Basmati đã được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, Ấn Độ và Pakistan trên thị trường thế giới.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng phát triển thị trường cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam, song nếu chưa giải được bài toán chất lượng thì khó có thể xây dựng và giữ được thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Để nâng cao chất lượng và xây dưng thương hiệu cho gạo Việt Nam cần thực hiện đồng bộ một loạt các giải pháp từ khâu trồng lúa đến khâu chế biến và xuất khẩu ra thị trường.
Hiện nay sản phẩm gạo của Việt Nam đã có mặt tại các thị trường như: Philippines, Singapore, Malaysia, Indonesia và những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Ngoài ra, trong tương lai sản phẩm gạo của Việt Nam có khả năng sẽ vươn tới một số thị trường tiềm năng như: Australia, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh.
2.4.2. Chưa đồng bộ giữa vị thế và trình độ
Việt Nam đã đi tắt đón đầu khá thành công nhờ ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật thế giới để xây dựng và phát triển nền nông nghiệp và trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản: hồ tiêu (thứ nhất), gạo và cà phê (thứ 2), hạt điều (năm 2006 Việt Nam vượt qua Ấn Độ có lượng xuất khẩu nhiều nhất)... Nhưng tại buổi hội thảo do Câu lạc bộ Xây dựng thương hiệu nông - thủy sản Việt Nam tổ chức, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Vọng (chuyên viên Bộ Nông nghiệp bang New South Wales, Australia) cho rằng, tay nghề của bà con nông dân - lực lượng sản xuất chiếm đa số lại chưa ngang tầm với những vị thế trên, hàm lượng chất xám tạo nên giá trị gia tăng trong nông sản làm ra chưa nhiều, chủ yếu vẫn còn xuất thô. Vì vậy, dù là quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng đời sống của nông dân vẫn còn thấp. Và điều quan trọng, tính bền vững trong nông nghiệp còn rất bấp bênh, bộc lộ nhiều lỗ hổng lớn trong chuỗi sản xuất, từ giống, chăm sóc... cho đến sau thu hoạch, thể hiện qua việc sản xuất theo phong trào. Trong khi đó, xét về mặt kinh tế và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp chưa hợp lý.
Điều này thấy rõ giữa cơ cấu cây lúa (giá trị trên một đơn vị diện tích thấp hơn nhiều lần so với các loại cây trồng khác), diện tích trồng khoảng 7 triệu ha so với hơn 1,4 triệu ha cây ăn trái, trong khi nhu cầu nhập khẩu của các nước trong tổ chức WTO hằng năm có đến gần 103 tỷ USD rau quả so với khoảng 10 tỷ USD lúa gạo... Vì vậy, thu nhập từ người trồng lúa bao giờ cũng thấp hơn các loại cây khác, nhất là cây ăn trái.
Tiến sĩ Nguyễn Quốc vọng cho rằng “sân chơi” WTO quy định 4 “luật chơi” cũng chính là 4 thách thức trong sản xuất nông sản mà chúng ta đang thiếu: Đó là luật chơi về số lượng với yêu cầu hàng hóa phải lớn về số lượng, đồng bộ về kích cỡ, màu sắc, bao bì và thời gian giao hàng chính xác. Hai là luật chơi về chất lượng với chứng chỉ xác nhậ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích thực trạng ngành sản xuất lúa gạo Việt Nam sau khi gia nhập WTO.doc