+ Về sản phẩm: Công ty đã chú trọng đến một số mặt hàng mũi nhọn của mình đó là các loại ống PVC và các phụ tùng nối ghép.
Trong quá trình hoạt động, năm nào Công ty cũng có những sáng kiến kỹ thuật làm lợi cho mình.
Năm 1998 có 24 sáng kiến được duyệt làm lợi 120 triệu đồng
Năm 1999 có 21 sáng kiến được duyệt làm lợi 56,8 triệu đồng
Năm 2000 có 25 sáng kiến được duyệt làm lợi 48,2 triệu đồng
Những thành quả này chứng tỏ rằng Công ty có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có năng lực, trình độ chuyên môn cao, năng động đầy sức sáng tạo và luôn nhiệt tình trong công việc.
44 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1032 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty TNHH nhựa Hoàng Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
000
7.712.464
6.524.258
4.443.089
2.447.213
- Vật tư
1.034.000
2.254.330
516.254
1.150.228
1.065.819
795.523
- Phụ tùng
212.560
353.385
250.000
412.634
468.170
448.952
- Khác
2.908.640
2.075.530
4.714.723
3.624.437
819.693
875.484
3
Thuế doanh thu
1000đ
1.009.230
130.575
140.000
147.500
150.000
125.558
112.000
89.395
4
Lợi nhuận thực hiện
1000đ
132.000
314.400
445.000
867.000
1.118.446
900.000
1.000.000
483.360
814.600
355.704
5
Tổng thu nhập
1000đ
371.210
883.030
1.681.843
1.660.389
1.382.099
1.291.308
6
Thu nhập bình quân
1000đ
/người
420
657
700
656
615
Bước sang năm 1997 hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty lại trở lên sôi động hơn. Nhu cầu về vật tư ngành ống tiếp tục gia tăng và nó đã tạo ra cho Công ty một năm hoạt động thành công nhân từ trước tới nay. Giá trị sản lượng đạt 1,85 tỷ đồng, tăng 425 triệud dồng hay 29,82% so với kế hoạch đề ra. Tổng doanh số thực hiện 12,747 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch đề ra 2,359 tỷ đồng hay 22,71% so với năm 1996 đạt 150,52%, trong đó doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt 8,064 tỷ đồng chiếm 63,26%. Do hoạt động có hiệu quả, doanh thu tăng các khoản nộp ngân sách cũng tăng lên. Cụ thể là tổng nộp ngân sách tăng 128,152 triệu đồng hay 42,58%. So với kế hoạch, trong đó thuế doanh thu tăng 29,652 triệud dồng hay 29,38%. Doanh số thực hiện tăng, nộp ngân sách tăng, điều này chứng tỏ số lượng sản phẩm Công ty tiêu thụ đã tăng lên mạnh mẽ trong năm 1997, nhờ đó lợi nhuận thực hiện đạt được 867 triệu đồng, tăng 94,8% so với kế hoạch hay 176,11% so với năm 96 mức thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên từ 420.000 đ/người năm 1996 tới 657.000đ/người năm 1997.
Năm 1998, giá trị sản lượng vẫn tiếp tục tăng so với kế hoạch 10,1%. Tuy nhiên nhu cầu về các sản phẩm nhựa trên thị trường đã bắt đầu giảm xuống, cùng với là sự sản xuất tràn lan của các công ty nhựa trong nước đã làm cho tốc độ tăng trưởng của Công ty chậm lại. Doanh số thực hiện được là 11,711 tỷ đồng chỉ bằng 92,55% kế hoạch đặt ra và giảm 8,12% so với năm 1997. Về doanh thu tiêu thụ sản phẩm đạt 6,524 tỷ đồng hay 84,6% kế hoạch, so với năm 97 thì chỉ bằng 80,9%. Tuy nhiên nếu nhìn vào bảng thì ra thấy mức lãi năm 1998 lại cao hơn năm 1997 là 33 triệu đồng trong khi doanh số thực hiện giảm, mức nộp ngân sách 98 lại cao hơn năm 1997 những 92,253 triệu đồng (do sự thay đổi của tỷ lệ thuế doanh thu). Sở dĩ có điều này là vì năm 1997 tiêu thụ sản phẩm và phụ tùng nhiều hơn năm 1998 nhưng mức lãi của loại này lại ít hơn mức lãi của các hoạt động dịch vụ của Công ty như sửa chữa, lắp đặt mà công có sử dụng vật tư của mình. Những hoạt động này công ty đã thực hiện được nhiều hơn trong năm 1998. Với mức lãi 900 triệu đồng, mức lãi cao nhất mà Công ty đạt được từ trước tới nay, thu nhập bình quân năm 1998 cũng đạt được ở mức cao nhất là 700 triệu đ/người.
Năm 1999 nhu cầu về các vật tư nhựa phục vụ cho ngành xây dựng tiếp tục giảm, sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty nhựa với nhau. Do vậy mặc dù giá trị sản lượng so với năm 1998 là 170,95% nhưng doanh số thực hiện chỉ đạt 45,12% kế hoạch và bằng 57,79% năm 1998. Doanh thu về tiêu thụ sản phẩm cũng giảm so với kế hoạch 46,82% so với năm 98 là 32%. Việc suy giảm trong hoạt động tiêu thụ của Công ty đã làm cho các khoản nộp cho Nhà nước cũng giảm xuống, tổng mức nộp cho Nhà nước: 365,707 triệu đồng giảm 37,8% so với kế hoạch và giảm 29,85% so với năm 1998 lợi nhuận thực hiện của Công ty giảm khá mạnh, từ 900 triệu đồng năm 1998 xuống 483,3 triệu đồng và đạt 48,34% kế hoạch. Về thu nhập, Công ty vẫn cố gắng giữ cho thu nhập của công nhân viên trong Công ty ổn định là 656.000 đ/người.
Bước sang năm 2000 hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty lại càng trở nên khó khăn hơn. Các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đã giảm đi hơn một nửa so với những năm 1997, 1998. Tổng doanh số thực hiện chỉ đạt 4,567 tỷ đồng trong khi kế hoạch đặt ra là 11,2 tỷ đồng. Qua đây, ta thấy rằng một mặt việc lập kế hoạch, đề ra chỉ tiêu thực hiện là quá cao không sát với tình hình thực tế dẫn đến Công ty không hoàn thành được kế hoạch. Mặt khác cũng thấy rằng thị trường của Công ty đang ngày càng bị thu hẹp. Nhìn vào cơ cấu doanh thu thấy doanh thu tiêu thụ sản phẩm luôn chiếm một tỷ trọng lớn thì trong năm 2000 đã bị giảm đáng kể chỉ đạt 2,44 tỷ đồng hay bằng 55,08% so với năm 1999. Như vậy, nguyên nhân tổng doanh thu năm 2000 giảm 32,52% so với năm 1999 chủ yếu là thị trường đã không còn chú ý nhiều tới sản phẩm của Công ty. Do những nguyên nhân trên mà kết quả là lãi thực hiện của Công ty năm 2000 chỉ đạt 355,7 triệu đồng, giảm 26,41% so với năm 1999 và giảm 60,48% so với năm 1998.
* Đồ thị về giá trị sản lượng:
* Đồ thị về doanh thu tiêu thụ sản phẩm:
* Đồ thị về lợi nhuận thực hiện:
Nhìn chung lại, có thể thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty từ năm 1996 - 2000 như sau:
Trong giai đoạn 1996 - 1997, nhu cầu về sản phẩm nhựa tăng đột ngột do sự phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, tưới tiêu kèm theo đó là sự hạn chế sản xuất của các công ty khác các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh hoàn thành vượt mức kế hoạch, thực hiện năm sau cao hơn năm trước.
Bước sang năm 1998, khi nhu cầu đã ở giai đoạn bão hoà, kèm theo là các sản phẩm cùng loại của các công ty khác được tung ra thị trường đặc biệt là của công ty nhựa Tiền phong, Đại kiên, điều này đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị chững lại, trong năm này, các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh thực hiện đều nhỏ hơn kế hoạch đề ra tuy nhiên sự sai lệch giữa kế hoạch và thực hiện chỉ có ở mức độ nhỏ hơn nên công ty vẫn thu được lợi nhuận ở mức cao, tăng thu nhập cho công nhân viên.
Giai đoạn 1999-2000. Nhu cầu về sản lượng nhựa giảm mạnh, nhiều cơ sở sản xuất đồ nhựa cung ra điều này làm cho công ty tiêu thụ được ít sản phẩm, hoạt động SXKD suy giảm. Lúc này tất cả các chỉ tiêu kinh doanh thực hiện được dều thấp hơn nhièu so với kế hoạch đề ra. Tuy nhiên một nguyên càng khiến không thực hiện được kế hoạch đó là công ty đã đặt ra cao so với nhu cầu khả năng của công ty. Trong khi đó giá trị sản lượng công ty trong 2 năm 1999-2000 lại đạt mức cao nhất từ trước tới nay ( 3,764 tỷ đồng và 3,663 tỷ đồng ), sản phẩm sản xuất ra nhiều nhưng không tiêu thụ được nên công ty đã bị tồn kho một khối lượng lớn sp và ứ đọng vốn.
2. Phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiêu thụ, chất lượng sảnn phẩm có thể đánh giá cao ở tiêu thụ này nhưng lại không dược đánh giá cao ở tiêu thụ khác. Điều đó phải tiến hành nghiên túc thận trọng công tác điều tra nghiên cứu thị trường phân tích mooi trường kinh tế xã hội, xác định chính xác nhận thức của khách hàng.
Công ty nhựa Hoàng Hà là 1 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do tư nhân đứng ra quản lý, sản phẩm của Công ty chỉ mang tính chất nội địa và thị trường tiêu thụ của Công ty chỉ chiếm ưu thế ở miền Bắc và đây cũng chính là mục tiêu thị trường mà Công ty đã đề ra.
Ta có thể xem xét và đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty qua bảng số liệu sau:
Tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 1996:
TT
Tên sản phẩm
Đơn vị
Tồn
đầu kỳ
Sản xuất
Tiêu thụ
Tồn
cuối kỳ
1
ống PVC cứng
1000 m
6.000.000
3.000.000
7.000.000
2.000.000
2
ống PVC đóng giếng
mét
6.000.000
21.000.000
21.000.000
6.000.000
3
Mũ bảo hiểm
chiếc
3.000
1.200.000
1.200.000
3.000
4
Đệm Kim Đan
tấm
2.000
1.000.000
1.000.000
2.000
5
Tấm ốp trần tường
tấm
20.000
11.000.000.000
11.000.000.000
20.000
6
Sản phẩm đồ dùng và đồ chơi
lô
21
10
30
1
Đây là giai đoạn phát triển nhất của Công ty, như đã nói, thời kỳ này nhu cầu về các sản phẩm của Công ty trên thị trường lên cao và với sự chuẩn bị chu đáo Công ty đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường phần lớn các tỉnh miền Bắc.
Tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 1997:
TT
Tên sản phẩm
Đơn vị
Tồn
đầu kỳ
Sản xuất
Tiêu thụ
Tồn
cuối kỳ
1
ống PVC cứng
1000 m
2.000.000
9.000.000
11.000.000
-
2
ống PVC đóng giếng
mét
6.000.000
27.000.000
33.000.000
-
3
Mũ bảo hiểm
chiếc
-
1.400.000
1.400.000
-
4
Đệm Kim Đan
tấm
2.000
1.200.000
1.202.000
1.000
5
Tấm ốp trần tường
1000 tấm
-
11.000.000
11.000.000
-
6
Sản phẩm đồ dùng và đồ chơi
lô
1
20
19
2
Qua các bảng trên ta thấy tình hình tiêu thụ các loáiản phẩm hết sức khả quan, trong năm 1996 đã tiêu thụ được 7000 triệu mét ống PVC các loại đây là một số lượng lớn vì những năm trước chỉ tiêu thụ được 4000 triệu mét, nhìn vào bảng số liệu ta thấy số lượng tiêu thụ ống PVC của năm 1995 là 6000 triệu mét như vậy đã giảm được 4000 triệu mét.
Xét về thị trường tiêu thụ ta thấy tất cả các sản phẩm ống PVC đều được tiêu thụ ở các tỉnh miền Bắc.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 1996:
Sản phẩm
Thị trường
1
2
3
4
5
6
Hà Nội
1.000
4
500
300
3
14
Hải Phòng
900
2
310
350
1
4
Hoà Bình
500
1
100
20
0,5
2
Hà Tây
700
3
50
20
0,5
1
Quảng Ninh
900
2
100
100
1
2
Bắc Ninh
900
2
50
50
0,3
1
Bắc Giang
800
3
20
50
0,6
1
Phú Thọ
900
2
30
160
1
3
Ninh Bình
400
2
40
50
1
2
Ghi chú các sản phẩm:
1: ống PVC cứng (đơn vị tính: triệu mét)
2: ống PVC cứng dùng đóng giếng (đơn vị: triệu mét)
3: Mũ bảo hiểm (đơn vị tính: 1000 chiếc)
4: Đệm Kim Đan (đơnvị tính: 1000 tấm)
5. Tấm ốp trần tường (đơn vị: 1.000.000 tấm)
6: Các sản phẩm đồ dùng gia dụng, đồ chơi trẻ em.
Sang năm 1997 hàng tồn của năm 96 để lại tí đồng thời với những kế hoạch dự kiến Công ty đã tăng nhanh nhịp độ sản xuất hơn nữa, tất nhiên là sức nghiên cứu dự kiến đủ với nhu cầu thị trường. Đây là thời kỳ biểu hiện rõ nét nhất sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh trong Công ty.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 1997:
Sản phẩm
Thị trường
1
2
3
4
5
6
Hà Nội
2.000
2
300
200
2,5
4
Hải Phòng
1.500
2
300
200
1,5
3,5
Hoà Bình
500
2,5
100
50
1
0,5
Hà Tây
2.000
5
100
50
0,5
2
Quảng Ninh
500
4
100
150
0,5
1,5
Bắc Ninh
500
3
100
100
0,5
0,5
Bắc Giang
1.000
2,5
1000
100
1
0,5
Phú Thọ
500
2
100
150
2
3,5
Ninh Bình
700
2
100
100
1
1
Hải Dương
300
2
100
100
1
2
Ta so sánh bảng về tình hình thị trường tiêu thụ sản phẩm của 2 năm 1996 - 1997 ta thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm của năm 1997 tăng lên một cách rõ rệt và Công ty đã có thêm một thị trường mới đó là Hải Dương.
Để đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của Công ty ta lập thêm bảng tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 2000.
Tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2000:
TT
Tên sản phẩm
Đơn vị
Tồn
đầu kỳ
Sản xuất
Tiêu thụ
Tồn
cuối kỳ
1
ống PVC cứng
1000 m
1.000.000
2.000.000
3.000.000
-
2
ống PVC đóng giếng
mét
5.000.000
7.000.000
10.000.000
2.000.000
3
Mũ bảo hiểm
chiếc
200.000
500.000
700.000
-
4
Đệm Kim Đan
tấm
-
800.000
500.000
200.000
5
Tấm ốp trần tường
1000 tấm
-
700.000
400.000
300.000
6
Đồ gia dụng, đồ chơi
lô
1
10
8
3
Qua bảng này ta nhận thấy số lượng tiêu thụ các loại ống PVC, tấm ốp trần tường (2 mặt hàng truyền thống của Công ty) đã giảm mức tiêu thụ xuống một cách rõ rệt, mặc dù doanh nghiệp đã dự tính giảm mức sản xuất xuống thấp nhưng vẫn không tiêu thụ hết được lượng sản xuất ra + số lượng tồn kho.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty năm 1996:
Sản phẩm
Thị trường
1
2
3
4
5
6
Hà Nội
1.000
1
150
100
100
3
Hải Phòng
500
1
100
70
70
2
Hà Tây
300
3
50
40
30
-
Bắc Giang
200
2
50
30
50
-
Bắc Ninh
200
1,5
100
-
50
1
Hoà Bình
500
2,5
150
120
80
1
Ninh Bình
300
-
100
140
20
1
Xét về thị trường tiêu thục của Công ty năm 2000 đã bị thu hẹp Công ty đã mất đi 3 tỉnh đó là: Hải Dương, Phú Thọ, Quảng Ninh. So với các năm trước thì năm 2000 là năm làm ăn kém nhất, đạt hiệu quả kinh tế thấp nhất.
3. Đánh giá thực trạng sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty nhựa Hoàng Hà
3.1. Những việc đã làm được trong sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm
Trước tình hình khó khăn của toàn ngành nói chung và của Công ty nhựa Hoàng Hà nói riêng, trong những năm qua Công ty đã cố gắng hết sức mình để tồn tại và phát triển, đứng vững trên thị trường. Trong giai đoạn từ năm 1996 - 2000 Công ty đã có những thành tích đáng chú ý sau:
3.1.1. Về sản phẩm kinh doanh :
- Các chỉ tiêu về sản xuất kinh doanh: Trong các năm 1996 - 1998 Công ty đã có được những tăng trưởng đáng kể, chỉ tiêu giá trị sản lượng tăng từ 1,5 tỷ đồng năm 1996 lên 2,2 tỷ đồng năm 1998 và các sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ, điều này chứng tỏ Công ty đã tăng năng lực sản xuất của mình, doanh số thực hiện đều đạt mức cao từ 1996 đ 1998. Do vậy các khoản phải nộp cho Nhà nước đều lớn và lợi nhuận thực hiện tăng lừ 314 triệu đồng năm 1996 lên 900 triệu đồng năm 1998.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đạt được từ năm 1996 - 1998
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
1
G.trị sản lượng
1000đ
1.506.045
1.850.600
2.202.000
2
Doanh số t. hiện
1000đ
8.469.000
12.747.245
11.711.557
3
Nộp nhà nước
1000đ
363.000
420.085
521.338
4
Lợi nhuận t. hiện
1000đ
314.000
867.000
900.000
5
Thu nhập bình quân
1000đ/ng
420
657
700
+ Về sản phẩm: Công ty đã chú trọng đến một số mặt hàng mũi nhọn của mình đó là các loại ống PVC và các phụ tùng nối ghép.
Trong quá trình hoạt động, năm nào Công ty cũng có những sáng kiến kỹ thuật làm lợi cho mình.
Năm 1998 có 24 sáng kiến được duyệt làm lợi 120 triệu đồng
Năm 1999 có 21 sáng kiến được duyệt làm lợi 56,8 triệu đồng
Năm 2000 có 25 sáng kiến được duyệt làm lợi 48,2 triệu đồng
Những thành quả này chứng tỏ rằng Công ty có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật có năng lực, trình độ chuyên môn cao, năng động đầy sức sáng tạo và luôn nhiệt tình trong công việc.
+ Về công tác quản lý chất lượng:
Trong quá trình sản xuất, nguyên liệu vật tư đưa vào đều được kiểm tra chặt chẽ. Tỷ lệ phế phẩm trong các khâu chế tạo cũng giảm xuống.
Tỷ lệ sai hỏng cho phép:
Khâu chế tạo
Tỷ lệ sai hỏng cho phép (%)
Tỷ lệ sai hỏng thực tế (%)
98
99
2000
98
99
2000
Đúc
20
20
20
31
26,5
14
Khí
2
2
2
1,9
1,8
1,5
Như vậy Công ty đã cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm tuy nhiên nếu vẫn sản xuất trên dây truyền công nghệ cũ thì dù Công ty có cố gắng đến mấy cũng khó có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường và để cạnh tranh với sản phẩm cùng loạt. Do vậy điều quan trọng ở đây là Công ty phải tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ.
+ Về công tác lao động tiền lương: Trong thời kỳ vừa qua Công ty đã thực hiện điều chỉnh số lượng lao động và cơ cấu lao động cho phù hợp hơn với tình hình sản xuất kinh doanh. Khi nhu cầu thị trường giảm xuống Công ty cho nhân tạm thời nghỉ việc nhưng vẫn hưởng lương, như vậy vẫn giải quyết được việc làm cho những người này.
Một mặt Công ty tổ chức các cuộc thi tay nghề để nâng cao bậc thợ công nhân, cho các cán bộ đi học các lớp quản lý ngắn hạn để nâng cao nghiệp vụ.
Đối với tiền lương, trong những năm tăng trưởng từ 96 đ 98 Công ty đã nâng cao được mức sống cho người lao động, thu nhập bình quân tăng từ 420.000 đ/người lên 700.000 đ/người. Trong các năm 1999 - 2000 mặc dù lãi giảm nhưng Công ty vẫn cố gắng giữ mức thu nhập trên 600.000 đ/người để tạo sự tin tưởng và ổn định cho đời sống cán bộ công nhân viên.
+ Về đầu tư mới: Công ty đã thực hiện hiện đại hoá và nâng cao điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân viên. Điều này là Công ty đã đầu tư hệ thống điện thoại nội bộ, trang bị máy vi tính cho một số phòng ban. Về công nghệ Công ty đã tiến hành nhập một số máy móc của nước ngoài, nhờ những công nghệ mới này mà chất lượng sản phẩm Công ty sản xuất cũng được nâng cao hơn trước kia.
3.1.2. Về tiêu thụ sản phẩm:
Trong các năm 1996 - 1997 Công ty đã thực hiện tiêu thụ được một khối lượng hàng hoá lớn và vượt mức kế hoạch đề ra.
Năm 1996: Tổng doanh số so với kế hoạch là 274,9% .
Năm 1997: Tổng doanh số so với kế hoạch là 112,71%.
Trong đó doanh thu về tiêu thụ sản phẩm chiếm 72,87% và 68,26% so với tổng doanh thu của các năm 1996, 1997.
- Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trong các năm 96, 97, 98 Công ty đã khai thác được rất tốt thị trường miền Bắc, là thị trường tiêu thụ chính của Công ty. Mọi sản phẩm sản xuất ra đều được trung tâm này chấp nhận và tiêu thụ với một lượng rất lớn. Trong những năm này Công ty đã khai thác được thị trường tiêu thụ miền Bắc theo chiều sâu, đó là tăng lượng tiêu thụ trên thị trường miền Bắc.
3.2. Những việc chưa làm được trong sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, Công ty cũng còn có những thiếu xót, những thiếu xót này cần phải kịp thời sửa chữa nếu không nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Những tồn tại chủ yếu có thể kể đến trong giai đoạn (1996 - 2000)
3.2.1. Về sản xuất kinh doanh
- Công tác vật tư: Vật tư mùa về còn không đảm bảo đúng chất lượng chủng loại, gây rắc rối khi trả lại vật tư, việc bảo quản vật tư trong kho và ngoài trời chưa được chú trọng nên làm ảnh hưởng đến chất lượng vật tư. Nhiều lúc việc cung ứng vật tư không đúng tiến độ cũng gây ảnh hưởng tới việc điều độ sản xuất và làm khách hàng phải chờ đợi. Tất cả những điều trên gây hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm sản xuất ra và gây khó khăn cho công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Công tác quản lý chất lượng sản phẩm.
Mặc dù Công ty đã có cố gắng rất nhiều trong công tác quản lý chất lượng và đã đạt được những thành tích đáng kể nhưng với nhu cầu của thị trường thì chất lượng của sản phẩm Công ty chỉ đạt ở mức trung bình.
Biểu hiện là khi khách hàng mua sản phẩm của Công ty về sử dụng nhiều khi gặp sự cố. Do vậy làm giảm uy tín về sản phẩm của Công ty dẫn đến làm giảm lợi nhuận. Các sản phẩm của Công ty chỉ sử dụng tốt trong 2 -3 năm đầu sau đó xuống cấp, chính điều này đã khiến nhiều khách hàng không muốn sử dụng sản phẩm của Công ty.
- Công tác tài chính: Hoạt động tài chính của Công ty còn chậm chạp trong việc xử lý nợ đọng của khách hàng, để các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn gây ra tình trạng thiếu vốn lưu động, không chủ động được trong sản xuất.
- Công tác lao động: Tỷ lệ lao động gián tiếp và phù chợ còn quá cao so với lao động trực tiếp (33% so với toàn bộ lao động trong Công ty). Tỷ lệ này đòi hỏi chi phí gián tiếp cao, nó cần phải được Công ty điều chỉnh lại. Bên cạnh đó Công ty vẫn thiếu đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ quản lý kinh tế và kỹ thuật giỏi.
3.2.2. Về tiêu thụ sản phẩm
Nếu như trong giai đoạn 1996 - 1997 Công ty đã có những tiến bộ trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thì từ năm 98 đến năm 2000 vấn đề thị trường tiêu thụ trở thành vấn đề bức bách cần giải quyết. Trong đó năm 1999 - 2000 Công ty đã không giữ vững nổi thị trường tiêu thụ của mình. Số lượng sản phẩm và mặt hàng vẫn tiếp tục giảm.
- Về công tác nghiên cứu thị trường: Hoạt động này của Công ty còn hạn chế, Công ty nhựa Hoàng Hà có quy mô lớn mà bộ phận Marketing chỉ tồn tại dưới dạng một ban nhỏ, trực thuộc quản lý của giám đốc. Số lượng chính thức trong ban thị trường chỉ có ba người, được lựa chọn từ các phòng ban và phân xưởng sản xuất, do vậy mà cũng chưa được đào tạo sâu về nghiệp vụ.
Sự hạn chế về trình độ, về tổ chức hoạt động của Marketing cùng với sự thiếu thốn về phương tiện và hình thức khuyến khichs chưa thoả đáng là nguyên nhân dẫn đến hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty không thể đạt được hiệu quả cao. Biểu hiện là Công ty không thể xác định được nhu cầu thị trường để có thể sản xuất một cách ổn định, đem lại lợi nhuận cao và mạng lưới phân phối hiệu quả, chính do sự non yếu trong khâu này nên hoạt động của những khâu sau trong vấn đề Marketing chưa thực sự có hiệu quả.
- Về chính sách sản phẩm: Công ty chưa xác định được chiến lược sản phẩm một cách rõ ràng để có định hướng phát triển và đối phó với những biến động của thị trường. Mặc dù Công ty sản xuất sản phẩm theo nhu cầu thị trường, nhưng đó mới chỉ là sự chạy theo nhu cầu một cách thụ động. Biểu hiện là khi nhu cầu giảm xuống và có sự gia tăng của các sản phẩm cạnh tranh thì Công ty đã bị giảm lượng tiêu thụ trên các thị trường.
Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh bị giảm trong năm 1999 - 2000
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
1
Giá trị sản lượng
1000đ
3.761.419
3.663.293
2
Doanh số thực hiện
-
6.768.643
4.567.172
3
Nộp cho Nhà nước
-
365.707
419.046
4
Lợi nhuận thực hiện
-
483.360
355.704
Hai năm 1999 - 2000 giá trị sản lượng đạt mức cao nhất trong khi doanh số thực hiện lại nhỏ nhất trong các năm từ 1996 - 2000. Do vậy mà lợi nhuận năm 2000 chỉ đạt 3,557 triệu đồng, giảm 60,55% so với năm 1995. Đồng thời Công ty còn bị tồn kho một lượng lớn sản phẩm không tiêu thụ được về thị trường tiêu thụ, đến năm 2000 địa bàn hoạt động của Công ty chỉ còn: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hoà Bình.
Như vậy có thể thấy rằng Công ty thực hiện hoạch định chính sách sản phẩm còn chưa tốt, chưa tìm ra mặt hàng sản xuất ổn định đem lại lãi cao cho Công ty, sản phẩm sản xuất chậm đổi mới chất lượng chính điều này đã giúp sức cho các sản phẩm cạnh tranh có được chất lượng tốt hơn, lấn án sản phẩm của Công ty.
- Về chính sách giá cả: Việc sử dụng giá cả vào cạnh tranh để mở rộng thị trường đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ của Công ty còn chưa được hợp lý. Trong năm 1996 - 1997 nhu cầu có tăng lên và Công ty đã tăng 1 số sản phẩm để phù hợp với nhu cầu. Tuy nhiên đến năm 1998 khi nhu cầu về các sản phẩm của Công ty giảm xuống, khách hàng đổ xô vào mua các mặt hàng của các công ty khác rẻ hơn, chất lượng tốt hơn thì Công ty vẫn giữ nguyên giá cũ, không điều chỉnh. Điều này cũng đã làm giảm lượng tiêu thụ sản phẩm của Công ty .
Ngoài ra Công ty vẫn chưa có được một mức giá thống nhất khi giao dịch. Các cán bộ thị trường khi đi chào hàng một giá, khi ký kết hợp đồng lại một giá khác. Điều này tạo sự không tin tưởng của khách hàng về sản phẩm của Công ty.
Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Công ty nhựa Hoàng Hà:
Công ty nhựa Hoàng Hà
Người môi giới
Đại lý giới thiệu sản phẩm
Khách hàng
- Về chính sách phân phối: Đây là một nguyên nhân khiến Công ty gặp khó khăn trong việc mở rộng thị trường. Hiện đang là công ty có squy mô lớn về sản xuất mà mạng lưới phân phối của Công ty còn rất hạn hẹp. Công ty chỉ có một cửa hàng giới thiệu sản phẩm đặt tại Hải Phòng còn lại khách hàng ở những nơi khác muốn giao dịch, mua bán đều phải đến trụ sở chính của Công ty đặt tại Hà Nội chỉ riêng điều này cũng làm giảm lượng khách hàng của Công ty do sẽ phải so sánh toàn bộ chí phí để lại, đàm phán và kí kết hợp đồng, tiền vận chuyển sản phẩm tính vào giá thành là chi phí mua với việc mua một sản phẩm cùng loại của Công ty khác bán ở mọi nơi mặc dù là chất lượng cũng có khác nhau. Với một lhệ thống kênh phân phối nhỏ hẹp như vậy thì việc thâm nhập các thị trường mới và ngay cả giữ vững thị trường tiêu thụ hiện tại của Công ty là rất khó khăn.
- Chính sách quảng cáo: Trong tình trạng tốc độ tiêu thụ chậm thị trường tiêu thụ bị co hẹp, hoạt động quảng cáo của Công ty chưa thực sự tạo ra được lực kéo với khách hàng. Công tác quảng cáo trong công ty chưa thực sự được giao cho một phòng ban nào thực hiện, do vậy hoạt động quảng cáo chỉ mang tính tự phát, thỉnh thoảng mới đăng báo. Các hoạt động quảng cáo này chưa thể hiện rõ mục đích tăng khối lượng tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh. Cũng do công tác quảng cáo chưa làm tốt nên nhiều khách hàng còn chưa biết đến sản phẩm của Công ty nên họ sẽ mua sản phẩm của các Công ty khác hoặc tìm đến những người môi giới, lúc đó họ phải tính tỷ lệ % cho người môi giới làm giảm lợi nhuận của Công ty.
Như vậy có thể thấy Công ty chưa thấy được vai trò quan trọn của quảng cáo và cũng chưa vận dụng được quảng cáo với chu kỳ sống của sản phẩm để tăng khối lượng tiêu thụ của sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
3.3.1. Nguyên nhân khách quan
* Những nguyên nhân chung gây khó khăn về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:
- Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến giảm tốc độ tiêu thụ và thu hẹp thị trường sản phẩm của Công ty là sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh. Đó là ngày càng nhiều cơ sở, các trung tâm sản xuất các loại sản phẩm như của Công ty, chất lượng tuy có khác nhau nhưng thường giá rẻ hơn. Thêm vào đó họ có phương thức giao dịch, thanh toán, vận chuyển khá linh hoạt nên họ cũng thu hút được khá nhiều khách hàng.
Nguyên nhân nữa là sự giảm sút về nhu cầu sử dụng các loại sản phẩm của Công ty. Nếu như năm 1996 - 1997 nhu cầu về các loại sản phẩm của Công ty tăng lên một cách rõ rệt thì bắt đầu từ năm 1998 nhu câù này đã trở lên bão hoà. Các cơ sở này trước kia mọc lên như nấm và trở thành các nhóm khách hàng mục tiêu đem lại lợi nhuận cao cho Công ty thì nay đã chững lại. Một số trong những cơ sở này không cạnh tranh được với các doanh nghiệp lớn thì chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác nên không quan tâm đến sản phẩm của Công ty.
* Nguyên nhân gây khó khăn về tiêu thụ sản phẩm:
Nguyên nhân khiến Công ty gặp khó khăn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ là khoảng cách địa lý. Do đặc tính của sản phẩm khá cồng kềnh nên việc vận chuyển x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8519.doc