Thứ hai, do su thế leo thang của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của đồng USD. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có cán cân thanh toán và dự trữ phụ thuộc nhiều vào đồng đôla, sự mất giá của USD tác động trực tiếp đến giá cả nội địa. Thực tế cho thấy , khi giá đôla giảm đã khiễn cho giá dầu tăng kỷ lục đưa xu thế tăng giá chung ở hầu hết các quốc gia không có chính sách kìm chế giá.
Thứ ba, do hạn chế nguồn tín dụng sản xuất. Những tháng qua, ngân hàng nhà nước liên tục thay đổi lãi suất, yêu cầu ngân hàng nhà nước phải mua lại trái phiếu nhà nước trên thực tế đây là biện pháp nhằm làm giảm dòng tiền tệ lưu thông và kiềm chế việc tăng giá. Tuy nhiên, việc làm này có hại nhiều hơn là có lợi. Lý do là, khi giảm lãi suất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ gia tăng rất khó kiểm soát với tỷ giá hối đoái thả nổi như hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng để cho vay vốn đầu tư như vậy lượng tiền vẫn tăng nhanh, lạm phát tăng là điều tất nhiên.
20 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2418 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát
Có nhiều trường phái kinh tế khác nhau đưa ra các lý thuyết về nguyên nhân đưa đến lạm phát, trong số đó trường phái Neo-Keynesian có vẻ được chấp nhận hơn cả với “mô hình tam giác” nói lên ba dạng lạm phát chính và những nguyên nhân của nó: • Lạm phát do nhu cầu tăng (Demand-pull inflation).Lạm phát do nhu cầu sản xuất và dịch vụ (gọi chung là Tổng Thu Nhập Quốc Dân GDP) tăng trong khi tỉ lệ thất nghiệp còn thấp. Còn gọi là Phillips Curve - đường cong Phillips. Nói cách khác là khi nhu cầu kinh tế tăng mà thị trường lao động bị hạn chế sẽ gây lạm phát. • Lạm phát do đột biến giá cả (Cost-push inflation).Giá cả một số nguyên vật liệu trọng yếu, ví dụ giá dầu hoả, tăng cao bất thường có thể đưa đến lạm phát vì hiện tượng dây chuyền, các mặt hàng khác sẽ tăng theo.
• Lạm phát sẵn có tự nhiên (Built-in inflation).Lạm phát sẵn có, liên quan đến hiện tượng “vòng xoắn giá/lương” (price/wage spiral) nghĩa là hiện tượng công nhân luôn luôn muốn được trả lương cao hơn (dĩ nhiên rồi), chủ bắt buộc phải trả thêm vì không tìm đâu ra công nhân nữa, kinh tế phát triển nên ai cũng có công ăn việc làm cả rồi. Người chủ muốn chuyển chi phí phụ trội này qua người tiêu thụ nên tăng giá sản phẩm lên. Công nhân, đồng thời là người tiêu thụ, thấy giá lên lại đòi lương cao hơn nữa. Cái vòng luẩn quẩn này cuối cùng gây ra lạm phát. Cả ba dạng này có thể cộng hưởng và tạo ra mức lạm phát hiện hành của nền kinh tế của một quốc gia. Tác hại của lạm phát đối với kinh tế
Đối với các quốc gia đang phát triển, tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định (negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng trưởng kinh tế. Ví dụ theo World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4% nhưng tỉ lệ lạm phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4% nhưng đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy được gì. Tiêu chuẩn đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện pháp ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê liệt dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại tệ mạnh để tránh lạm phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền kinh tế.
Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã chuyển qua dạng xã hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình 3 bước:
Lạm phát
Giảm phát
Suy thoái kinh tế
Thất nghiệp
Là tình trạng người trong lực lượng lao động không tìm được việc làm. Có 2 loại thất nghiệp:
Thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp chu kỳ.
Sự mất mát kinh tế vĩ mô do nạn thất nghiệp gây ra là sản lượng hàng hóa và dịch vụ bị giảm sút. Luật Okun giả thiết rằng cứ 1% thất nghiệp sẽ làm giả sút 2% sản lượng. Cái giá mà con người phải trả cho thất nghiệp không chỉ bao gồm các mất mát tài chính ngoài ra còn bao gồm cả những sự trả giá về tâm lý, thể chất và xã hội.
Muốn giảm thất nghiệp chu kỳ cần áp dụng chính sách chống suy thoái, muốn giảm thất nghiệp tự nhiên cần phải tạo thuận lợi cho người lao động trong quá trình tìm viêc.
Luôn luôn có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp nhưng không có sự đánh đổi trong dài hạn.
Chương 4: Chính sách tài chính
Chính sách tài chính là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi chi tiêu hoặc thuế để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Chính sách tài chính bao gồm 2 công cụ là chi tiêu và thuế.
Thất bại vĩ mô xảy ra khi các mức chi tiêu mong muốn không bằng với giá trị sản xuất ở điều kiện làm việc đầy đủ gây ra thất nghiệp và lạm phát. Việc chi tiêu của người tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoài thu nhập và thu nhập hiện có. Việc tiết kiệm của người tiêu dùng biểu hiện bằng sự rò rỉ của luồng luân chuyển. Đó là nhừng luồng tiền không quay lại thị trường sản phẩm, thuế và nhập khẩu cũng làm rò rỉ tiền ra khỏi nền kinh tế. Những khoản rò rỉ đó được bù lại bằng các khoản đầu tư, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu. Mất cân bằng trong chi tiêu sẽ gây ra lạm phát và thất nghiệp, không có sự điều chỉnh tự động nào để trở lại mức việc làm đầy đủ.
Chính sách thuế của chính phủ không trực tiếp tác động lên tổng cầu, nó gián tiếp làm thay đổi tổng cầu thông qua việc làm thay đổi hành vi của khu vực tư nhân. Khi chính phủ thay đổi thuế thì tác động đầu tiên của nó là làm thay đổi thu nhập sử dụng của mọi người.
Theo lý thuyết Keynes, nền kinh tế không thể tự cân bằng và ổn định được chính vì vậy cần có sự can thiệp của chính phủ. Những chính sách tài chính của chính phủ đề cập tới cách dùng thuế và chi tiêu chính phủ như thế nào để đạt được kết quả vĩ mô như mong muốn. Mục tiêu của chính sách tài chính là lấp đầy khoảng cách GDP, khi sử dụng chính sách tài chính thì ngân sách của chính phủ có thể thăng dư, thâ hụt hay cân bằng một cách ngẫu nhiên.Trong thực tế, đôi khi chính sách tài chính sẽ gây ra sự khó khăn trong nền kinh tế chính vì vậy một số nhà kinh tế cho rằng nên sử dụng cơ chế tự ổn định như thuế và trợ cấp để hạn chế phần nào sự biến động của nền kinh tế.
Chương 5: Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ
Tiền: một cách khái quát, là những gì được thừa nhận chung để làm trung gian cho việc mua bán hàng hóa.
Sử dụng tiền: trung gian trao đổi, dự trữ giá trị, đơn vị tính toán
Loại tiền: tiền hàng, tiền pháp lệnh
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đảm nhận chức năng cơ bản trong việc tạo thuận lợi cho việc trao đổi và chuyên môn hóa, do vậy cho phép tăng sản lượng. Ngân hàng trung ương có năng lực tạo ra tiền tệ bằng cách cho vay. Trong việc cấp các khoản vay, ngân hàng tạo nên các khoản tiền gửi giao dịch mới mà chúng sẽ trở thành một phần của cung tiền tệ. Tiềm năng tạo tiền của mỗi ngân hàng đều bị giới hạn bởi các qui định của chính phủ. Ngân hàng TW kiểm soát tiền tệ của mỗi quốc gia bằng 3 công cụ cơ bản đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Theo quan điểm của phái Keynes, nhu cầu về tiền là quan trọng. Nhu cầu này phản ánh mong muốn giữ tiền cho các mục đích giao dịch, đầu tư và dự phòng. Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền tệ quyết định lãi suất cân bằng.
Chính sách tiền tệ là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi cung tiền hoặc lãi suất để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ là chính phủ hoặc ngân hàng TW, nhưng cơ quan thực thi chính sách tiền tệ luôn luôn là ngân hàng TW.
Sự gia tăng cung ứng tiền làm giảm lãi suất cân bằng, ngược lại giảm cung ứng tiền sẽ làm tăng lãi suất cân bằng. Để chính sách tiền tệ phát huy hết tác dụng, lãi suất phải thể hiện được hết những thay đổi trong cung tiền và chi tiêu đầu tư phải phản ứng được với những thay đổi trong lãi suất. Không có điều kiện nào được đảm bảo. Trong tính trạng bẫy thanh khoản, người ta muốn giữ tiền không hạn chế ở mức lãi suất thấp nào đó. Lãi suất sẽ không giảm xuống mức thấp này khi cung tiền tăng cao. Hơn nữa kỳ vọng của nhà đầu tư sẽ làm thay đổi quyết định đầu tư.
Để chống thất nghiệp, chính phủ cũng có thể sử dụng chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này chính phủ phải thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, thông qua việc mua trái phiếu chính phủ, giảm lãi suất chiết khấu hoặc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, họ phải trả giá cho thành công này bằng mức lạm phát cao hơn.
Mặc dù các đòn bẩy tài chính có vẻ ấn tượng nhưng trên thực tế trong nền kinh tế thì không được tốt lắm. Thất nghiệp và lạm phát gia tăng khó có thể thực hiện các chính sách tài chính nêu ra trên lý thuyết. Ở một chừng mực nào đó, sự thất bại của chính sách kinh tế còn phản ánh các nguồn lực khan hiếm và những mục tiêu mang tính cạnh tranh. Ngoài ra còn tồn tại những vấn đề về đo lường, lập kế hoạch và vần đề thực thi.
Chương 6: Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế cho phép mỗi quốc gia chuyên môn hóa trong phạm vi của hiệu quả tương đối, làm tăng sản lượng thế giới. Với mỗi quốc gia, lợi ích thu được từ thương mại phản ánh qua khả năng tiêu thụ vượt quá khả năng sản xuất .
Tỷ giá thương mại sẽ nằm đâu đó giữa chi phí cơ hội của các đối tác buôn bán. Tỷ giá thương mại xác định lợi ích thu được từ thương mại như thế nào. Rõ ràng, một quốc gia chỉ tham gia thương mại khi tỷ giá thương mại tốt hơn đối với các cơ hội trong nước Sự chống lại do tự do hóa thương mại phát sinh từ công nhân và các doanh nghiệp sản xuất cạnh tranh với nhập khẩu,do việc nhập khẩu sẽ là cho công việc ít đi và thu nhập sản xuất trong nước cũng ít đi.
Hàng rào thương mại có nhiều hình thức: hạn ngạch hạn chế số lượng hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu, thuế quan kiềm chế nhập khẩu bằng cách làm cho mọi thứ đắt đỏ lên, các hàng rào phi thuế quan khác cũng làm cho thương mại đắt hơn hoặc tốn thời gian hơn. Các chính sách bảo hộ của chính phủ sẽ tạo ra những tổn thất vô ích cho nền kinh tế, đặc biệt là hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực cho nền kinh tế. Chính sách bảo hộ làm cho các doanh nghiệp trong nước không chịu đổi mới, cải tiến nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó chính sách bảo hộ cũng mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế như: tăng giá hàng hóa làm hạn chế tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ phẩm, bảo hộ các ngành non trẻ trong nước, bảo vệ lao động nội địa. Ngoài ra,một quốc gia cần được bảo hộ nhằm đề phòng các mối quan hệ xấu về chính trị giữa các nước.
Có 3 loại tỷ giá: tỷ giá thả nổi, tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi có quản lý. Trong cơ chế tỷ giá cố định, nếu ngân hàng TW muốn tăng tỷ giá thì phải mua ngoại tệ vào và ngược lại. Tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ tác động đến xuất nhập khẩu hàng hóa, giá hàng hóa trong nước và nợ nước ngoài.
Chương 7: Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng thực. Trong đó tăng trưởng ngắn hạn có thể là do sự gia tăng trong việc sử dụng năng lực sản xuất. Tuy nhiên, trong dài hạn cần phải có sự gia tăng trong bản thân năng lực. Các thước đo cơ bản của tăng trưởng kinh tế là GDP, GNP hoặc các chỉ tiêu bình quân đầu người. Cùng với thời gian, tăng năng suất gắn liền với tăng mức sống.
Tăng trưởng nhanh giúp cho mức sống tăng nhanh nhưng nó cũng tạo ra những tác động khác có hại cho nền kinh tế chính vì vậy, chúng ta cần cân nhắc để tiến tới sự tăng trưởng bền vững. Khó khăn của các nước đang phát triển là vốn đầu tư thấp, dân số tăng nhanh nhưng chất lượng lao động lại kém. Thương mại quốc tế chủ yếu dựa vao nông nghiệp là chính. Các chính sách của chính phủ có thể khuyến khích tăng trưởng kinh tế theo nhiều cách: khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy giáo dục, kiểm soát mức tăng dân số và thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
Các nước kém phát triển đều thiếu lao động có tay nghề cao và trình độ quản lý vốn, công nghệ. Mặc dù tiết kiệm trong nước có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư một vài lĩnh vực nhưng vẫn cần phải có nguồn đầu tư từ nước ngoài. Để đi tìm một ngành chủ lực để phát triển, các nước phải lựa chọn giữa khuyến khích xuất khẩu và thị trường trong nước. Xuất khẩu thu được ngoại tệ nhưng phải đương đầu với nhiều bất ổn. Mặt khác, sản xuất cho thị trường trong nước có thể dẫn tới chi phí cao và nhu cầu hạn hẹp. tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để phát triển kinh tê. Một quốc gia phát triển chậm nhưng một phần nào đó vẫn có thể cải thiện được tình trạng phát triển thấp bằng các chính sách xã hội.
Đánh giá sự phát triển kinh tế được thực hiện theo 3 khía cạnh: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu,các yếu tố xã hội khác. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất cho việc thực hiện mục tiêu phát triển. chuyển dịch cơ cấu kinh tế là dấu hiệu phản ánh sự biến đổi về chất và các chỉ tiêu xã hội chính là mục tiêu cuối cùng cần đạt tới.
Các chỉ số xã hội được thể hiện trên các khía cạnh: mức độ đảm bảo nhu cầu của con người, mức độ nghèo đói và trình độ dân trí.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống hóa một cái nhìn tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô, cụ thể như:
Hạch toán thu nhập quốc dân
Lạm phát- thất nghiệp
Chính sách tài chính
Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ
Thương mại quốc tế
Tăng trưởng kinh tế
Đó là cơ sở giúp cho việc phân tích ở chương 2
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Một trong những yếu tố cơ bản để đánh giá sự ổn định của nền kinh tế là vấn đề lạm phát được tính trên sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng. Theo đánh giá của cục thống kê
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2011
Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Lạm phát của nước ta trong quý I đầu năm nay tăng rất cao,nhưng từ quý 2 tới nay chỉ số giá đều giảm chỉ tăng nhẹ vào tháng 7. Điều này chứng tỏ những chính sách tiền tệ với những điều chỉnh khá linh hoạt của Ngân Hàng nhà nước mà chính phủ áp dụng đã có hiệu quả. Theo dự báo thì CPI của tháng 11 sẽ tăng tương đương với tháng 10. Lạm phát tăng làm cho đời sống của người dân gặp khó khăn hơn, các doanh nghiệp thì lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang cố gắng để không phải rơi vào tình trạng phá sản
Trong điều kiện kinh tế thế giới và VN hiện nay, lạm phát tăng nhanh ở VN có thể giải thích bởi các lý do như:
Thứ nhất, do leo thang giá cả các mặt hàng tiêu dùng. Sự tăng mạnh nhu cầu ở các nước đang phát triển nói chung và VN nói riêng trong khi cung ứng suy giảm do tác động của sự sụt giảm nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, do su thế leo thang của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của đồng USD. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có cán cân thanh toán và dự trữ phụ thuộc nhiều vào đồng đôla, sự mất giá của USD tác động trực tiếp đến giá cả nội địa. Thực tế cho thấy , khi giá đôla giảm đã khiễn cho giá dầu tăng kỷ lục đưa xu thế tăng giá chung ở hầu hết các quốc gia không có chính sách kìm chế giá.
Thứ ba, do hạn chế nguồn tín dụng sản xuất. Những tháng qua, ngân hàng nhà nước liên tục thay đổi lãi suất, yêu cầu ngân hàng nhà nước phải mua lại trái phiếu nhà nước…trên thực tế đây là biện pháp nhằm làm giảm dòng tiền tệ lưu thông và kiềm chế việc tăng giá. Tuy nhiên, việc làm này có hại nhiều hơn là có lợi. Lý do là, khi giảm lãi suất, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ gia tăng rất khó kiểm soát với tỷ giá hối đoái thả nổi như hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng để cho vay vốn đầu tư như vậy lượng tiền vẫn tăng nhanh, lạm phát tăng là điều tất nhiên.
Thứ tư, do trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD
Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010).
Sự ra tăng lạm phát ở VN hiện nay không xuất phát từ việc mất cân đối trong cấu trúc của nền kinh tế, mà là kết quả của sự suy thoái kinh tế toàn cầu và sự tăng giá xăng dầu và các mặt hàng lương thực.
2.2. Nhận xét tác động của lạm phát tới nền kinh tế
2.2.1. Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất
Trước áp lực lạm phát, các doanh nghiệp gặp khó khăn toàn diện trên mọi mặt như: áp lực về giá cả nguyên liệu, tiếp cận nguồn vốn khi nhà nước sắt chặt tiền tệ, sức mua của người dân giảm. đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh tồn tại một cách cầm cự, hoặc thực chất “khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam đóng cửa được rồi”.
2.2.2 Tác động hoạt động của ngân hàng
Lạm phát làm cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng của mình chạy qua ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động. Nhưng nâng bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Cuộc chạy đua lãi suất huy động của các ngân hàng làm cho lãi suất tăng cao lên tới 17-18% năm, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần lãi suất tín dụng, kinh doanh lỗ lớn nhưng vẫn phải thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm phát tăng cao, ngân hàng nhà nước buộc phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
2.2.3 Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân
Nguyên nhân dẫn tới lạm phát tăng cao là do chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục. Làm cho đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là những người có thu nhập thấp, những người làm công ăn lương có mức lương cố định, giá cả tăng cao làm cho chi tiêu trong gia đình tăng lên. Với mức thu nhập hàng tháng của nhiều người bây giờ không đủ trang trải cho cuộc sống, tuy nhà nước đã quyết định tăng lương nhưng mức lương tăng không đủ đáp ứng cho mức tăng giá. Những bà nội chợ sẽ giảm bớt khẩu phần trong mỗi bữa ăn xuống, hạn chế tối đa việc mua sắm cho gia đình, sinh viên gặp khó khăn trong việc tiêu dùng hàng ngày và tiền đóng học phí…. Họ không đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, làm cho người nghèo đã nghèo lại càng nghèo hơn.
Lạm phát cũng có tác động khác nhau tới những người tiêu dụng có thu nhập khác nhau( người có thu nhập cao, người thu nhập thấp) và cách thức chi tiêu cũng khác nhau. Thay vì những người có thu nhập cao khi không lạm phát người ta sẽ nghĩ đến việc mua ô tô, đi du lịch, ăn nhà hàng… nhưng trong tình trạng lạm phát thì người ta lại dốc hết cho ăn uống và một chút cho việc mua sắm quần áo. Tuy nhà nước có chính sách bình ổn giá nhằm giúp những người thu nhập thấp giảm bớt gánh nặng trong việc chi tiêu nhưng thực tế điều đó đã đi ngược, người thu nhập thấp không được hưởng mà những người thu nhập cao lại được hưởng nhiều hơn.
2.3. Một số giải pháp nhằm kiếm chế lạm phát tại Việt Nam
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với chủ chương dân giàu nước mạnh của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, thì vấn đề chống lạm phát và kiềm chế lạm phát ở con số hợp lý luôn là bài toán khó đối với nhà nước ta. Mặc dù trong những năm trở lại đây các biện pháp kiềm chế lạm phát luôn được áp dụng một cách khá hiệu quả nhưng nguy cơ tái lạm phát vẫn ở mức cao. Để kiềm chế và kiểm soát lạm phát có hiệu quả cần áp dụng đồng bộ các biện pháp như: Đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm chi phí sản xuất và lưu thông, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, tăng nguồn vốn dự trữ, tạo sự cân đối trong nền kinh tế,... Đồng thời phải đẩy mạnh cơ chế quản lý của nhà nước trong việc kiểm soát thị trường. Vậy để kiềm chế lạm phát cần thực hiện các giải pháp sau:
Trước mắt, chúng ta nên ổn định giá cả: do sự không công bằng, lo lắng và những mất mát thực tế do lạm phát gây ra thì đây chính là một biện pháp đúng đắn. Mục tiêu này giữ cho tỷ lệ lạm phát và mục tiêu việc làm ở một mức độ phù hợp. Tăng cường giám sát và quản lý việc bình ổn giá cả thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng. Theo dự báo, thị trường hàng hóa các tháng còn lại của năm 2011 có thể diễn biến phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó đáng chú ý là áp lực lạm phát đang nổi lên, nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Tình hình sản xuất kinh doanh tiếp tục khó khăn do mặt bằng lãi suất còn cao, chi phí đầu vào cao... Dự kiến tổng mức bán lẻ năm 2011 tăng khoảng 22% so với năm 2010, đạt 1.880 nghìn tỷ đồng.
Để thực hiện mục tiêu khống chế mức tăng giá năm 2011 khoảng 18%, trong những tháng tới, nhiệm vụ điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường giá cả sẽ còn nặng nề và phức tạp. Vì vậy, Bộ Công thương cho rằng cần triển khai thực hiện các giải pháp như: Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu hàng hóa, giá cả, thị trường; chủ động và linh hoạt có các biện pháp điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường nhằm bảo đảm sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá, góp phần kiềm chế lạm phát.
Bên cạnh đó là tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nội địa để góp phần bình ổn thị trường; phối hợp với Liên minh Hợp tác xã trong việc tiêu thụ hàng hóa công nghiệp và nông nghiệp. Tăng cường kiểm soát thị trường, đảm bảo cung ứng tốt những mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, phân bón, sắt thép, giấy in, xi măng, gạo, dược phẩm...; đồng thời, xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, gian lận thương mại, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thứ hai, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm lượng tiền giấy lưu thông trong nền kinh tế như ngừng việc phát hành tiền. Biện pháp này gọi là đóng băng tiền tệ. Nhà nước không nên phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, mà cần áp dụng các biện pháp như: phát hành trái phiếu chính phủ, tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm của người dân nhằm thu hút lượng lớn tiền nhàn rỗi của dân chúng trong một thời gian ngắn. Kiểm soát chặt chẽ trong việc tăng lãi suất của các ngân hàng, khống chế mức lãi suất vay cố định để các doanh nghiệp có thể vay .
Kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng và đôla, hạn chế việc tự ý tăng giá vàng của các ngân hàng làm cho giá vàng trong nước luôn luôn cao hơn giá vàng trên thế giới, khuyến khích người dân gửi tiết kiệm vàng. Vì nước ta luôn luôn phải nhập khẩu vàng trong khi đó lượng vàng mà người dân giữ là rất lớn, cần có biện pháp để thu hút nguồn vàng từ dân cư để hạn việc nhập khẩu vàng bên cạnh đó cũng thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế.
Thứ ba,thi hành chính sách thắt chặt như tạm hoãn các khoản đầu tư công thay vào đó tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, giúp họ có thể tiếp cận được nguồn vốn vay với lãi suất thấp để đầu tư mở rộng sản xuất và cát giảm chi tiêu chính phủ tới mưc có thể.Các khoản tiền tiết kiệm được chính phủ sẽ sử dụng vào việc trợ giá cho các đơn vị kinh doanh sản xuất cơ bản hoặc tăng lương, tăng trợ cấp an sinh xã hội cho tầng lớp nghèo.
Giải pháp giảm gánh nặng tăng giá cho người có thu nhập thấp: lạm phát tác động đến mọi đời sống trong xã hội nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vẫn là ngời nghèo. Hiện nay, những người có thu nhập thấp đang rất lo lắng vì không biết lạm phát sẽ còn lấy đi của họ bao nhiêu phần thu nhập thực tế nữa, nó còn làm cho cuộc sống của họ ngày càng khó khăn tới mức nào nữa. Và điều này cũng không còn là mối lo của riêng người nghèo nữa, mà nó còn là mối lo của rất nhiều người.
Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo là vấn đề lớn mà nhà nước đang rất quan tâm, để làm tốt điều đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: cải cách lương, học bong cho học sinh dân tộc các trường nội trú, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn giảm thuế nông nghiệp, hỗ trợ vốn vay ưu đãi để người dân phát triển sản xuất…Nhưng để giải quyết hậu quả của lạm phát đối với người nghèo thì cần phải thực hiện những giải pháp cấp bách như:
Tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo: tăng lương cho người lao động để một phần nào đó người lao động chủ động trong việc chi tiêu của mình, bên cạnh đó nhà nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh tế vĩ mô- phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam.docx