Tình hình kê khai thuế GTGT qua 3 năm 2003 – 2005 của các DNNQN cũng chỉ đạt khoảng 90% số doanh nghiệp phải kê khai. Chất lượng kê khai có nâng lên so với các năm trước đây, song vẫn còn tình trạng khai dấu doanh số hoặc châm kê khai doanh số, nhất là các ngành kinh doanh vàng bạc, xăng dầu, đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngành xay xát lương thực thường dấu doanh số gia công; đối với ngành kinh doanh xe gắn máy thì thường ra hóa đơn thấp hơn giá thanh toán; một số doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp chỉ kê khai doanh số bán chịu khi được thu tiền, chỉ có các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủy sản là kê khai sát đúng với tình hình kinh doanh.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3002 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện để đảm bảo nguồn thu được ổn định và tăng thu cho ngân sách.
Hệ thống chính sách thuế từng bước hoàn thiện, thuế suất thuế GTGT từ 4 mức giảm xuống còn 3 mức làm việc tính toán đơn giản hơn trước trong nộp thuế.
Đã hình thành một hệ thống quản lý thuế thống nhất cả nước, ngày càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt. Công tác quản lý thuế được chuyển từng bước từ chế độ chuyên quản lý khép kín sang chế độ người nộp thuế tự tính, tự khai và tự nộp thuế. Cơ chế này đã đề cao nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế trước pháp luật.
Cơ sở vật chất tại Cục Thuế tương đối đầy đủ, tạo điều kiện thoải mái, năng suất làm việc cao. Trang bị hệ thống máy tính, tạo điều kiện ứng dụng tốt công nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế.
Tại Cục Thuế thành lập được phòng hổ trợ tuyên truyền đối tượng nộp thuế, qua đó giúp tuyên truyền, giáo dục và nâng cao ý thức của đối tượng nộp thuế giúp cho việc thu thuế được dễ dàng và thuận lợi hơn.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh, đồng thời cộng thêm sự cố gắng của các cơ sở SXKD trong việc khắc phục khó khăn, giữ vững thị phần, duy trì nhịp độ phát triển SXKD, giúp nguồn thu được ổn định và giữ vững .
2. Khó khăn:
Tình hình chấp hành kê khai thuế, nộp thuế đúng thời hạn còn thấp.
Việc xử lý công nghệ thông tin vào quản lý thuế vẫn còn ở mức độ thấp. Trình độ cán bộ sử dụng máy tính ở các Chi cục Thuế còn chưa cao làm cho việc truyền tải những thông tin về thuế chậm.
Chưa có một tờ báo viết riêng về thuế nhằm hướng dẫn, trả lời những vướng mắc của đối tượng nộp thuế trong tỉnh và những đối tượng có quan tâm, phân tích những tác động của thuế, sự cần thiết của thuế đối với địa phương cũng như trong cả nước. Dư luận rộng rãi chưa lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Người tiêu dùng chưa có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ. Điều đó làm trở ngại trong công tác quản lý doanh số bán của các đơn vị, gây khó khăn cho cán bộ thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế.
Các CSKD chưa có thói quen thanh toán qua ngân hàng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc xác minh chi phí, doanh thu, thuế GTGT đầu ra, đầu vào,... tạo cơ hội cho cho các đối tượng nộp thuế gian lận trong ghi chép các số liệu trên hóa đơn, chứng từ sổ sách kế toán.
Tình hình kinh tế phát triển ngày càng đa dạng phong phú về loại hình, về quy mô hoạt động, nạn buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận hoá đơn GTGT ngày một tinh vi hơn
Thời tiết chuyển biến xấu gây ảnh hưởng đến tình hình nộp thuế của các hộ SX nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Các DN, hộ cá thể tự nghỉ, giải thể còn chậm trễ trong việc lập hồ sơ , làm ảnh hưỏng đến tiến độ thu nộp, xác định chính xác số phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Cơ sở để xác định đúng mức thuế của các DN còn hạn chế do việc thu thập thông tin từ các ngành chức năng, các tổ chức kinh tế - xã hội, đồng thời việc nắm bắt giá cả, tình hình biến động của thị trường còn nhiều bất cập……
3. Phương hướng thu thuế trong thời gian tới tại cục thuế :
Phấn dấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước hàng năm do Trung ương và Tỉnh giao cho ngành thuế toàn Tỉnh. Thu ngân sách toàn tỉnh giai đoạn 2006 – 2010 bình quân tăng 16% trên năm.
Tập trung quản lý các DN và hộ KD cá thể.
Tăng cường công tác tuyên truyền hướng dẫn chi tiết đối tượng nộp thuế, nhất là tại các Chi Cục Thuế làm cho các đối tương nộp thuế thông hiểu và thi hành tốt chính sách pháp luật
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý kịp thời các hành vi gian lận thuế . Đẩy mạnh công tác hậu kiểm.
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thanh tra, kiểm tra tại Cơ sở sản xuất kinh doanh, thanh tra nội bộ ngành, củng cố lại bộ máy thanh tra toàn ngành đảm bảo nâng cao số lượng và chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra.
Giải quyết kịp thời các hồ sơ thuế còn tồn đọng.
CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TẠI
CỤC THUẾ TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003 – 2005
I. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC TẾ TRONG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TẠI CỤC THUẾ TỈNH TRÀ VINH NĂM 2003 – 2005:
1. Phân tích Công tác quản lý đối tượng nộp thuế:
Theo quy định của Bộ Tài Chính và Tổng Cục Thuế thì các đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ sẽ do Cục Thuế trực tiếp quản lý thu thuế, còn đối với các đối tượng là hộ kinh doanh cá thể nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp sẽ do các Chi Cục Thuế trực tiếp quản lý thu thuế. Để thực hiện tốt công tác chỉ đạo quản lý thu hộ cá thể, Tổng Cục Thuế quy định phòng dự toán và tổng hơp giúp Cục Trưởng tổng hợp số liệu quản lý hộ cá thể của các huyện, thị.
Bảng 4: TỔNG HỢP ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ GTGT QUA 3 NĂM 2003 – 2005 Ở CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đơn vị tính: Doanh nghiệp
SỐ TT
THÀNH PHẦN KINH TẾ
DOANH NGHIỆP
CHÊNH LỆCH
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2004/2003
Năm 2005/2004
Số
%
Số
%
I
DNNN TW
22
23
30
1
4,55
7
30,43
II
DNNN Tỉnh
24
30
39
6
25,00
9
30,00
III
DN NQD
357
536
705
179
50,14
169
31,53
1
DN tư nhân
253
366
493
113
44,66
127
34,70
2
Cty.TNHH
53
97
123
44
83,02
26
26,80
3
Cty cổ phần
4
20
32
16
400,00
12
60,00
4
HTX,Quỹ TD
47
53
57
6
12,77
4
7,55
IV
Hộ cá thể
7.195
7.228
7.125
33
0,46
-103
-1,43
(Nguồn:Phòng dự toán và tổng hợp)
Qua bảng 4 ta thấy các đối tượng nộp thuế ở mọi thành phần kinh tế qua ba năm đều tăng, riêng chỉ có thành phần kinh tế hộ kinh doanh cá thể là có số hộ tăng, giảm qua các năm không đều nhau. Cụ thể từng thành phần kinh tế như sau:
1.1. Thành phần kinh tế DNNN TW: Số lượng các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này tăng qua các năm cụ thể là: năm 2003 Cục Thuế quản lý 22 đối tượng nộp thuế, sang 2004 tăng lên 1 đối tượng tương đương tăng 4,55% so với năm 2003, đến năm 2005 tăng lên 7 đối tượng tương đương tăng 30,43% so với năm 2004. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do đơn vị này mở thêm chi nhánh ở các Huyện, Thị xã .
1.2. Thành phần kinh tế DNNN địa phương: số lượng doanh nghiệp ở thành phần kinh tế này tăng tương đối đều qua các năm: năm 2003 Cục Thuế quản lý thu thuế đối với 24 đối tượng, sang năm 2004 là 30 đối tượng tăng 6 đối tượng tương đương tăng 25% so với năm 2003, đến năm 2005 tăng lên 9 đối tuợng tương đương tăng 30% so với năm 2004. Nguyên nhân của sự gia tăng này cũng là do các đơn vị này mở thêm chi nhánh ỏ các Huyện, Thị xã ( cụ thể là mở thêm chi nhánh Công ty thủy sản ở huyện Duyên Hải và Công ty Trà bắc….) cộng thêm việc thành lập một số doanh nghiệp theo quyết định của UBND tỉnh.
Nhìn chung vì đây là thành phần kinh tế DNNN nên số doanh nghiệp nộp thuế tại Cục Thuế rất phù hợp số đăng ký tại Sở kế hoạch đầu tư. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này đều chấp hành đăng ký thuế để cấp mã số thuế đúng theo quy định. Tất cả các doanh nghiệp các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh đều được Cục Thuế quản lý chặt chẽ.
1.3. Thành phần kinh tế DNNQD: hàng năm số lượng doanh nghiệp này tặng lên rất cao, cụ thể là: năm 2003 chỉ có 357 doanh nghiệp, sang năm 2004 lên đến 536 doanh nghiệp tăng về số tuyệt đối là 179 doanh nghiệp tương đương tăng 50,14% so với năm 2003, qua năm 2005 tăng thêm 169 doanh nghiệp tương đương tăng 31,53% s với năm 2004. Trong đó số tăng nhiều là doanh nghiệp tư nhân (một phần do một số hộ kinh doanh ở các ngành nghề hoạt động kinh doanh thuận lợi nên chuyển lên thành lập doanh nghiệp tư nhân), riêng công ty TNHH và công công ty cổ phần cũng có xu hướng tăng lên. Theo thống kê của phòng dự toán và tổng hợp thì năm 1999 chỉ có 5 công ty TNHH, chưa có công ty cổ phần thì đến năm 2005 đã có đến 123 công ty TNHH và 32 công ty cổ phần.
Riêng hợp tác xã và quỹ tín dụng cũng có xu hướng tăng: năm 2003 Cục Thuế quản lý 32 hợp tác xã, 15 quỹ tín dụng, sang năm 2004 tăng lên 38 hợp tác xã (tăng 12,77% so với năm 2003), đến năm 2005 có đến 41 hợp tác xã và 16 quỹ tín dụng (tăng 7,57% so với 2004).
Nhìn chung sự gia tăng của các DNNQD qua các năm là do hiện nay kinh tế đất nước ngày một phát triển, tình hình chính trị của đất nước ổn định, cơ sở hạ tầng và đời sống nhân dân ngày một nâng cao, luật doanh nghiệp được sửa đổi ngày một thông thoáng, cộng thêm nhiều chính sách ưu đãi của tỉnh nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư kinh doanh…. tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh, phát triển ngày càng nhiều. Số lượng doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế DNNQD được Cục thuế quản lý chặt chẽ phù hợp với số doanh nghiệp đăng ký tại Sở kế hoạch và đầu tư.
1.4. Thành phần kinh tế hộ kinh doanh cá thể:
Để thấy rõ hơn số hộ kinh doanh cá thể do các Chi Cục Thuế quản lý qua các năm, ta lập bảng sau:
Bảng 5: TỔNG HỢP ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ GTGT KHU VƯC HỘ KINH DOANH CÁ THỂ THEO ĐỊA BÀN HUYỆN, THỊ XÃ
Đơn vị tính: Hộ
Số TT
Địa Bàn
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
CHÊNH LỆCH
Năm 2004/2003
Năm 2005/2004
Số
%
Số
%
1
Thị Xã Trà Vinh
1.863
1.939
1.996
76
4,08
57
2,94
2
Trà Cú
880
918
897
38
4,32
-21
-2,29
3
Cầu Ngang
595
568
723
-27
-4,54
155
27,29
4
Châu Thành
629
620
581
-9
-1,43
-39
-6,29
5
Duyên Hải
607
567
584
-40
-6,59
17
3,00
6
Tiểu Cần
775
896
912
121
15,61
16
1,79
7
Cầu Kè
742
643
630
-99
-13,34
-13
-2,02
8
Càng Long
1.104
1.076
1.602
-28
-2,55
526
48,88
Tổng cộng
7.195
7.228
7.125
33
0,46
-103
-1,43
(Nguồn: Phòng dự toán và tổng hợp)
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy số hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng, giảm không ổn định và không đồng đều giữa các huyện, thị qua các năm. Tuy năm 2004 số hộ có tăng lên 33 hộ tương đương tăng 0,46% so với năm 2003, nhưng sang năm 2005 chỉ còn 7.125 hộ giảm 103 hộ tương đương giảm 1,43% so với năm 2004, so với 2003 vẫn giảm gần 1%. Các huyện có số hộ tương đối giảm qua các năm là: Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Cầu Kè, các huyện, thị còn lại có số hộ tương đối tăng qua các năm. Nguyên nhân của sự tăng, giảm của các hộ là do một số hộ được thành lập mới và một số hộ kinh doanh thuận lợi chuyển lên thành lập doanh nghiệp, cũng như một số hộ kinh doanh (làm ăn) thua lỗ dẫn đến việc giải thể, phá sản….
Theo thống kê của phòng dự toán và tổng hợp thì hàng năm số hộ mà các Chi Cục quản lý thu thuế GTGT chỉ đạt khoảng 73% so với số hộ đã lập môn bài, còn so với hộ đã được cấp mã số thuế thì chỉ đạt khoảng 64%. Nguyên nhân là do:
Số hộ đã lập môn bài nhưng có thu nhập thấp (dưới mức lương tối thiểu của cán bộ công chức Nhà nước 290.000 đồng/ tháng năm 2003 và lên 350.000 đồng/ tháng năm 2005) thuộc diện đối tượng không chịu thuế GTGT nên không lập bộ thu thuế GTGT.
Số hộ lập bộ môn bài thấp hơn số hộ đã cấp mã số thuế và cấp đăng ký kinh doanh là do cùng một hộ nhưng có nhiều giấy phép kinh doanh và nhiều mã số thuế (mã số thuế cấp trùng); số hộ đã nghỉ kinh doanh qua các năm nhưng cơ quan dăng ký kinh doanh không xóa danh sách làm chênh lệch rất lớn so với hộ đã quản lý thuế GTGT.
Một nguyên nhân quan trong khác là số hộ kinh doanh vãng lai, kinh doanh thời vụ, sáng, tối có đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký cấp mã số thuế, cơ quan thuế chỉ thu được thuế môn bài còn thuế GTGT thu được phản ánh lên bộ phụ không đưa vào bộ chính thuế
Như vậy công tác quản lý đối tượng nộp thuế GTGT ở Cục Thuế tỉnh Trà Vinh được thực hiện khá tốt, nhất là ở thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh, riêng khu vực kinh tế hộ cá thể còn dấu hiệu bỏ sót hộ, do đó cần tăng cường các biện pháp hơn nữa nhằm chống thất thu về hộ.
2. Phân tích công tác kiểm tra tờ khai thuế GTGT:
Theo quy định của luật thuế GTGT thì các đối tượng nộp thuế GTGT theo kê khai từ số liệu trên sổ sách kế toán phải nộp tờ khai thuế GTGT hàng tháng chậm nhất là không quá ngày 10 của tháng sau. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng đối tượng nộp thuế nộp chậm tờ khai dẫn đến cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp. Tình hình kiểm tra tờ khai thuế từ năm 2003 – 2005 tại Cục Thuế như sau:
2.1. Đối với thành phần kinh tế DNNN:
Khi thuế GTGT được áp dụng (năm 1999) thì tình hình kê khai thuế GTGT của các DNNN đạt rất thấp so với thuế doanh thu 1998. Nhưng sau một số lần sửa đổi, đặc biệt là lần sửa đổi bổ sung luật thuế GTGT năm 2003 và sự huớng dẫn, tuyên truyền giáo dục về luật thuế thì tình hình kê khai thuế GTGT có nhiều tiến bộ cả về chấp hành thời hạn nộp tờ khai và chất lượng của số liệu phản ánh trên tờ khai càng phù hợp với tình hình kinh doanh của các đơn vị nộp thuế.
Ngoài ra DNNN cũng là thành phần kinh tế mà có số thuế kê khai âm cao nhất so với các thành phần kinh tế khác, tập trung chủ yếu là các công ty thương mại có hàng xuất khẩu (điển hình là: Công ty thủy sản, Công ty thương mại xuất nhập khẩu, Công ty trà bắc). Do đó đòi hỏi Cục Thuế đặc biệt chú trọng đến những Công ty này để tạo điều kiện cho việc thu nộp thuế và hoàn thuế được thuận lợi hơn.
2.2. Đối với thành phần kinh tế DNNQD:
Tình hình kê khai thuế GTGT qua 3 năm 2003 – 2005 của các DNNQN cũng chỉ đạt khoảng 90% số doanh nghiệp phải kê khai. Chất lượng kê khai có nâng lên so với các năm trước đây, song vẫn còn tình trạng khai dấu doanh số hoặc châm kê khai doanh số, nhất là các ngành kinh doanh vàng bạc, xăng dầu, đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngành xay xát lương thực thường dấu doanh số gia công; đối với ngành kinh doanh xe gắn máy thì thường ra hóa đơn thấp hơn giá thanh toán; một số doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp chỉ kê khai doanh số bán chịu khi được thu tiền, chỉ có các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủy sản là kê khai sát đúng với tình hình kinh doanh.
(Nguồn: Bảng tổng kết thu ngân sách Nhà nước năm 2005 tại Cục Thuế tỉnh Trà Vinh)
2.3. Đối với khu vực hộ kinh doanh cá thể:
Theo quy định thì các hộ cá thể kinh doanh có quy mô tương đối lớn phải thực hiện sổ sách kế toán để nộp thuế theo kê khai hàng tháng, cụ thể là những hộ có môn bài bậc 1 và bậc 2 phải nộp thuế theo kê khai. Tuy nhiên tình hình kê khai thuế của các hộ trên địa bàn huyện, thị xã còn gặp nhiều bất cập về chất lượng tờ khai cũng như về công tác quản lý hộ kê khai: Có hộ kinh doanh phát triển đi lên, thực hiện kê khai thuế GTGT hàng tháng nhưng số kê khai lại thấp hơn số mức thuế khoán trước đây và thấp hơn hộ kinh doanh cùng ngành nghề nộp thuế khoán ổn định hàng tháng, việc kê khai khống, kê khai dấu doanh số diễn ra thường xuyên.
Phân tích tình hình quản lý và thực hiện số sách, hóa đơn chứng từ:
Về phía Cục Thuế:
Đã tổ chức thực hiện tốt việc niêm yết công khai thủ tục mua bán hóa đơn tại cơ quan thuế đúng theo chỉ đạo của Tổng Cục Thuế.
Thực hiện tốt công tác cấp phát, quản lý hóa đơn, ấn chỉ đúng theo quy trình quy định của Tổng Cục Thuế; đồng thời hàng năm đều triển khai thực hiện công tác kiểm kê hóa đơn của các đối tượng nộp thuế, các đơn vị sử dụng hóa đơn đúng theo định kỳ quy định. Ngoài ra còn thực hiện kiểm kê đột xuất theo chỉ đạo của Tổng Cục Thuế.
Về phía đối tượng nộp thuế:
Đối với các DNNN nhìn chung đều thực hiện chế độ kế toán doanh nghiệp, tuy nhiên việc chấp hành nguyên tắc về chế độ kế toán ở một số doanh nghiệp còn chưa nghiêm cụ thể là việc hạch toán các khoản chi phí và bảng kê chứng từ đầu vào chưa sát với thực tế kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ cá thể, việc sử dụng hóa đơn bước đầu đa số các doanh nghiệp và hộ còn nhiều lung túng, song qua một thời gian sử dụng đã quen dần và thực hiện cơ bản tốt chế độ hóa đơn, nhưng cũng gặp không ít trường hợp vi phạm, chủ yếu là vi phạm về chế độ báo cáo hóa đơn chứng từ chưa đúng theo quy định như: số liệu ghi trên hoá đơn GTGT giữa các liên không đồng nhất, thiếu các dữ liệu cần thiết, ghi không rõ ràng như tên hàng hoá, tên khách hàng, mã số thuế người mua, người bán.....Điều này đòi hỏi Cục Thuế phải kiểm tra, hướng dẫn đối tượng nộp thuế chặt chẽ hơn nữa để tránh xảy ra những trưòng hợp vi phạm không đáng kể.
Thể hiện qua biểu đồ sau:
0
50.000
100.000
150.000
Triệu
đồng
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
KH
TH
Hình 1: BIỂU ĐỒ THỰC HIỆN THU THUẾ GTGT SO VỚI KẾ HOẠCH
1.1. Đối với DNNN TW:
Số thuế GTGT thu từ DNNN TW hàng năm đều tăng cao hơn so với kế hoạch. Tuy nhiên riêng năm 2005 mặc dù đã thành lập thêm 7 doanh nghiệp nhưng số nộp lại giảm đi 14,24% so với kế hoạch nguyên nhân là do việc thay đổi cách phân bố thuế của Bưu điện theo doanh thu nên đã làm giảm số thuế GTGT phải nộp tại tỉnh lúc đầu so với dự toán, nhưng so với cùng kỳ năm 2004 vẫn tăng về số tuyệt đối là 1.607 triệu tương đương tăng 8,7%. Điều đó chứng tỏ rằng số thu thuế GTGT từ Bưu điện hàng năm chiếm phần rất lớn trong tổng số thu thuế GTGT từ DNNN TW. Ngoài ra còn có 2 đơn vị có số thuế GTGT nộp lớn đó là: Điện lực Trà Vinh, Công ty mía đường , số doanh nghiệp còn lại có số nộp không đáng kể.
1.2. Đối với DNNN Tỉnh (địa phương):
Tuy số thu thuế GTGT đều tăng qua các năm nhưng số này đạt rất thấp, chỉ có năm 2003 là thu được 5.944 triệu vượt kế hoạch 1,69% do năm này có một số hoạt động khá tốt như Công ty cấp thoát nước, Công ty xây lắp láng, Công ty tư vấn xây dựng tổng hợp, đặc biệt là Công ty xây dựng cơ bản trúng thầu nhiều công trình trọng điểm của tỉnh. Hai năm 2004 và 2005 không hoàn thành kế hoạch giao, nhưng số thu thuế GTGT ở năm 2005 so với cùng kỳ 2004 vẫn tăng 1.480 triệu tương đương tăng 31,36%. Điều này cần phải xem xét lại việc giao kế hoạch sao cho phù hợp với tiến độ phát triển của thành phần kinh tế này, trong khi những năm tới có xu hướng là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này sẽ giảm do việc sáp nhập, cổ phần hóa để giúp các doanh nghiệp này làm ăn hiệu quả hơn.
Trong số 15 doanh nghiệp trọng điểm có kế hoạch thu hàng năm thì có 6 doanh nghiệp luôn hoàn thành kế hoạch là: Công ty xây lắp láng, công ty phát triển điện nông thôn, Công ty tư vấn xây dựng tổng hợp, Công ty sách và thiết bị trường học, Công ty du lịch, Công ty khai thác công trình thủy lợi. Các doanh nghiệp còn lại có số thu luôn thấp hơn mức kế hoạch giao như là: Công ty dược và vật tư tế, Công ty Giống và Dịch vụ kĩ thuật nông nghiệp, Công ty khai thác và dịch vụ thủy sản, Công ty thủy sản cửu long, đặc biệt là công ty chế biến dừa chỉ hoàn thành được thuế môn bài. ( nguồn: Phòng dự toán và tổng hợp)
1.3. Công ty xổ số kiến thiết:
Xổ số kiến thiết là nguồn thu có tính chất và đặc thù riêng trong khu vực kinh tế quốc doanh. Do mới thành lập từ năm 1992 trên cơ sở tách ra từ Công ty xổ số kiến thiết cửu long, chính vì vậy gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh vừa phải tìm kiếm thị trường, vừa phải mở rộng mạng lưới đại lý, vừa phải củng cố tổ chức đi vào hoạt động. Song từ năm 1992 đến nay doanh số phát hành, doanh thu tiêu thụ không ngừng tăng lên qua các năm, tuy số thuế thu từ hoạt động này có năm không hoàn thành kế hoạch giao ( cụ thể năm 2004 chỉ đạt 87,78% so với kế hoạch) nhưng số nộp vẫn tăng qua các năm. Đây là đơn vị có số thuế GTGT nộp vào Ngân sách nhà nước cao nhất trong tổng số thuế GTGT thu từ các thành phần kinh tế. Tuy nhiên đây là hoạt động dịch vụ mang tính giải trí, nếu quá đặt nặng nguồn thu từ hoạt động này sẽ không có cơ sở vững chắc so với nguồn thu từ hoạt động sản xuất và các dịch vụ khác.
1.4. Đối với DNNQD:
Số thu từ thuế GTGT từ năm 2003 – 2005 đều hoàn thành vượt múc kế hoạch giao,cụ thể năm 2003 đạt 21.148 triệu tăng 37,06% so với kế hoạch, năm 2004 tiếp tục tăng 53,82% so với kế hoạch, so với cùng kỳ 2003 tăng 12.924 triệu tương đương tăng 61,11%, sang năm 2005 tăng 35,75% so với kế hoạch, so với cùng kỳ 2004 tăng 49,13% . Số thu từ thành phần kinh tế DNNQD chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủy sản, chế biến lương thực. Mặc dù trong những năm qua các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nhất là giá cả của một số nguyên liệu đầu vào tăng cao, dịch bệnh tôm, dịch cúm gia cầm tái phát… nhưng với sự nổ lực phấn đấu của các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất kinh doanh và chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nên số thuế GTGT thu từ các doanh nghiệp này trong 3 năm qua đạt khá cao.
Ngoài ra đạt được kết quả như nêu trên là do tình hình kinh doanh mặt hàng xe gắn máy, điện tử, kinh doanh lúa gạo có bước phát triển khá, và việc mua sắm và tiêu dùng của người dân trong 3 năm trở lại đây có xu hướng tăng cao. Bên cạnh đó còn do mức độ giao kế hoạch quá thấp so với thực tế kinh doanh của các doanh nghiệp, vì vậy cần phải xem xét lại nhằm đảm bảo mức kế hoạch phù hợp với thực tế hơn.
1.5. Hộ kinh doanh cá thể:
So với các thành phần kinh tế khác thì khu vực kinh doanh hộ cá thể có mức hoàn thành kế hoạch rất thấp, thậm chí có năm không hoàn thành kế hoạch ( năm 2003 đạt 91,91% so kế hoạch), năm hoàn thành mức kế hoạch thu thuế GTGT cao nhất là năm 2004 ( tăng hơn so với kế hoạch đề ra là 11,03%) và được xem là năm hoàn thành kế hoạch thu thuế GTGT cao nhất từ năm 1992 đến nay.
Tuy nhiên số thu từ khu vực này thường không ổn định, song việc xét giao kế hoạch đối với khu vực này hàng năm là rất khó do đây là khu vực do các Chi Cục Thuế huyện, thị xã quản lý và đặc biệt là đa số cá hộ kinh doanh nhỏ lẻ, do đó việc thành lập, giải thể, nghỉ kinh doanh là chuyện xảy ra thường xuyên, làm cho các Chi Cục Thuế rất khó khăn trong việc quản lý vì vậy việc bỏ soát hộ trong quản lý thu thuế là khó tránh khỏi, gây nên khó xác định chính xác được kế hoạch thu cho khu vực này.
2. Phân tích kết quả thu thuế GTGT theo địa bàn Huyện, Thị xã:
Để thấy rõ được số thuế GTGT thu theo địa bàn huyện, thị xã ở các hộ kinh doanh cá thể do các Chi Cục Thuế trực thuộc quản lý ta lập bảng sau:
Kết quả thu thuế GTGT khu vực kinh doanh hộ cá thể do các Chi Cục Thuế quản lý trong năm 2003 thu được 12.808 triệu, đạt 91,91% so kế hoạch giao, năm 2004 thu được 17.052 triệu đạt 111,03% so kế hoạch, so với cùng kỳ 2003 tăng 4.245 triệu tương đương tăng 33,15%, sang năm 2005 thu được 18.572 triệu đạt 100,05% so kế hoạch, so cùng kỳ 2004 tăng 8,91%. Trong đó năm 2003 là năm có số huyện, thị xã không hoàn thành mức kế hoạch đề ra cao nhất, riêng chỉ có huyện Duyên Hải do là huyện có nhiều hộ kinh doanh mặt hàng thủy hải sản có bước phát triển đi lên, số lượng giao dịch mua bán mặt hàng này nhiều nên số thuế GTGT thu từ địa bàn này cũng rất cao, nhưng mức kế hoạch thu thuế GTGT đặt ra cho huyện này hàng năm vẫn còn rất thấp chưa sát với thực tế kinh doanh
Hai năm 2004 và 2005 các huyện, thị đều có số thu thuế GTGT hoàn thành và vượt mức kế hoach giao, chỉ có hai huyện là: Cầu Ngang và Cầu Kè luôn có số thu không hoàn thành kế hoạch giao hàng năm, vì vậy Cục Thuế cần quan tâm thúc đẩy nguồn thu của hai huyện này nhiều hơn nữa để góp phần thực hiện chỉ tiêu chung về thu ngân sách khu vực hộ kinh doanh cá thể
Qua bảng 7 ta thấy số thu thuế GTGT từ khu vực hộ kinh doanh cá thể nhiều nhất là ở: Thị xã Trà Vinh và huyện Càng Long do đây là nơi có vị trí địa lý và giao thông thuận lợi đồng thời có số lượng người dân mua sắm và tiêu dùng nhiều nên giúp cho nhiều hộ có điều kiện kinh doanh phát triển đi lên đảm bảo số thuế nộp vào ngân sách Nhà nước hàng năm đều tăng.
Để thấy rõ hơn mức độ hoàn thành kế hoạch thu thuế GTGT của khu vực hộ kinh doanh hộ cá thể, ta nhìn biểu đồ sau:
Hình 2: KẾT QUẢ THỰC HIỆN THU THUẾ GTGT KHU VỰC HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy mức độ tăng trưởng về thuế GTGT của khu vực hộ kinh doanh cá thể là chưa tương xứng so với các báo cáo về tỷ lệ tăng trưởng hộ cá thể, do đó cần có biện pháp tích cực hơn nhằm khai thác tốt nguồn thu từ khu vực kinh doanh này.
3. Phân tích về tổng số thuế nộp qua 3 năm 2003 – 2005 ở các thành phần kinh tế:
Để biết rõ về tổng số thuế mà từng thành phần kinh tế nộp vào NSNN qua 3 năm 2003 – 2005, ta lập bảng sau:
Bảng 8: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU THUẾ QUA 3 NĂM 2003 – 2005
Đơn vị tính: Triệu đồng
THÀNH PHẦN KINH TẾ
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
CHÊNH LỆCH
Năm 2004/2003
Năm 2005/2004
Số
%
Số
%
DNNN TW
14.186
18.845
20.469
4.659
32,84
1.624
8,62
DNNN TỈNH
9.711
10.563
12.951
852
8,77
2.388
22,61
XSKT
80.000
110.003
135.059
30.003
37,50
25.056
22,78
DNNQD
27.671
39.786
57.556
12.115
43,78
17.770
44,66
HỘ CÁTHỂ
47.523
53.369
55.014
5.846
12,30
1.645
3,08
Tổng cộng
179.091
232.566
281.049
53.475
29,86
48.483
20,85
(Nguồn: Phòng Dự Toán và Tổng Hợp)
Qua bảng 8 ta thấy: tình hình thu thuế ở các thành phần kinh tế ở các năm qua đều tăng, cụ thể là năm 2003 thu được 179.091 triệu, sang năm 2004 thu được 232.566 triệu tăng 53.475 triệu tương đương tăng 29,86% so với năm 2003, đến năm 2005 thu được 281.049 tăng 48.483 triệu tương đương tăng 20,85% so với năm 2004.
Riêng đối với Công ty XSKT nếu xét về thuế GTGT thì năm 2004 số thu từ công ty này giảm hơn so với năm 2003 về số tuyệt đối là 4.025 triệu tương đương giảm 9,3%. Còn đối với tổng số thu từ hoạt động này thì năm 2004 tăng cao hơn so với năm 2003 là 30.003 triệu tương đương tăng 37,5%, nguyên nhân là do năm 2004 thực hiện quyết định của Chính Phủ về việc không thu sử dụng vốn ngân sách đối với hoạt động XSKT mà tiến hành thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hoạt động này, nên làm cho số thu từ Công ty XSKT tăng lên đáng kể.
Còn nếu so với tốc độ tăng trưởng của đối tượng nộp thuế qua các năm (bảng 4) thì tốc độ tăng trưởng về ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng tại Cục Thuế Tỉnh Trà Vinh.doc