Trong tháng 2/2007, lượng máy in Canon xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt gần 86 nghìn chiếc, kim ngạch đạt gần 4 triệu USD; đơn giá trung bình là 46,6 USD/chiếc (FOB), giảm nhẹ so với tháng 1/2007. Kim ngạch xuất khẩu máy in sang thị trường Singapore đạt hơn 4,9 triệu USD với 95,196 chiếc. Hầu hết các lô hàng máy in xuất khẩu sang thị trường này đều qua cảng Hải Phòng, đơn giá trung bình cho sản phẩm máy in Canon là 42,43 USD/chiếc(FOB), máy in laze P1089 là 67,02 USD/chiếc(FOB). Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hà Lan và Trung Quốc trong tháng này cũng giảm so với tháng 1/2007, tuy vậy kim ngạch của Hà Lan vẫn đạt 4,5 triệu USD và Trung Quốc đạt 3,8 triệu USD.
Cùng với máy in, bảng mạch cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu bảng mạch đạt 35,5 triệu USD; giảm 25,8% so với tháng 1/2007. Thái Lan là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 21,16 triệu USD, giảm 33,7% so với tháng 1/2007; tiếp theo là thị trường Philippin đạt 10,9 triệu USD, giảm 16,3% so với tháng 1/2007. Đặc biệt trong tháng này, bảng mạch đã xuất khẩu sang thị trường Trung Phi, kim ngạch mới đạt trên 6,1 nghìn USD, nhưng đây là một dấu hiệu khả quan trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng điện tử - máy tính của nước ta
66 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1984 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích tình hình xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triệu USD, tăng 35,2% so với tháng 1/2006. Trong đó, xuất khẩu trong tháng 1/2007 đạt 110,3 triệu USD; nhập khẩu đạt 139,9 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là mặt hàng máy in (58,3 triệu USD chiếm 53% kim ngạch xuất khẩu) và chủ yếu là từ các khu công nghiệp xuất sản phẩn ra nước ngoài; bảng mạch các loại (44,3 triệu USD chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Máy in chủ yếu xuất khẩu đi Mỹ: 17,4 triệu USD; Hà Lan: 9,8 triệu USD; Singapore: 7,3 triệu USD; Phần Lan: 2,7 triệu USD; Canada: 2,6 triệu USD. Bảng mạch chủ yếu sang Thái Lan: 28,3 triệu USD; Philippin: 12,2 triệu USD và Nhật Bản 3,4 triệu USD
Tháng 2/2007, máy in, bảng mạch, ti vi... vẫn là những mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm 2006, trong đó máy in có kim ngạch xuất khẩu cao nhất đạt hơn 102 triệu USD, chiếm 37,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của 2 tháng đầu năm 2007. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong tháng 2/2007 chỉ đạt hơn 120 triệu USD, giảm 28,5% so với tháng 1/2007.
Theo số liệu thống kê tháng 2/2007, lượng máy in xuất khẩu đạt khoảng 835,661 chiếc với kim ngạch đạt trên 45,07 triệu USD, là mặt hàng điện tử có kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong tháng 2/2007. Trong đó máy in phun các loại xuất được 409.940 chiếc đạt trên 20 triệu USD, máy in Canon xuất được 320.259 chiếc, đạt 16,8 triệu USD. Thị trường xuất khẩu máy in nhiều nhất trong tháng vẫn là Mỹ với tổng trị giá lên tới 12,4 triệu USD, chủ yếu vẫn là máy in Canon và máy in phun các loại. Kim ngạch xuất khẩu của máy in phun sang thị trường Mỹ đạt trên 7,1 triệu USD; trong đó đơn giá trung bình của máy in phun Canon là 44,28 USD/chiếc (FOB), máy in phun loại khác là 55,65 USD/chiếc (FOB).
Trong tháng 2/2007, lượng máy in Canon xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt gần 86 nghìn chiếc, kim ngạch đạt gần 4 triệu USD; đơn giá trung bình là 46,6 USD/chiếc (FOB), giảm nhẹ so với tháng 1/2007. Kim ngạch xuất khẩu máy in sang thị trường Singapore đạt hơn 4,9 triệu USD với 95,196 chiếc. Hầu hết các lô hàng máy in xuất khẩu sang thị trường này đều qua cảng Hải Phòng, đơn giá trung bình cho sản phẩm máy in Canon là 42,43 USD/chiếc(FOB), máy in laze P1089 là 67,02 USD/chiếc(FOB). Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hà Lan và Trung Quốc trong tháng này cũng giảm so với tháng 1/2007, tuy vậy kim ngạch của Hà Lan vẫn đạt 4,5 triệu USD và Trung Quốc đạt 3,8 triệu USD.
Cùng với máy in, bảng mạch cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu bảng mạch đạt 35,5 triệu USD; giảm 25,8% so với tháng 1/2007. Thái Lan là thị trường lớn nhất với kim ngạch đạt 21,16 triệu USD, giảm 33,7% so với tháng 1/2007; tiếp theo là thị trường Philippin đạt 10,9 triệu USD, giảm 16,3% so với tháng 1/2007. Đặc biệt trong tháng này, bảng mạch đã xuất khẩu sang thị trường Trung Phi, kim ngạch mới đạt trên 6,1 nghìn USD, nhưng đây là một dấu hiệu khả quan trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu hàng điện tử - máy tính của nước ta.
2.6.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu:
Cơ cấu hàng xuất khẩu tháng 1/2007
Về mặt hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng là máy in và bảng mạch các loại. Kim ngạch xuất khẩu của máy in đạt 58,3 triệu USD, chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, máy in xuất khẩu sang Mỹ đạt 17,4 triệu USD; Hà Lan đạt 9,8 triệu USD; Singapore đạt 7,3 triệu USD;... Đứng thứ hai là kim ngạch xuất khẩu của bảng mạch, đạt 44,3 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Thái Lan đạt 28,3 triệu USD; Philippin đạt 12,2 triệu USD và Nhật Bản đạt 3,4 triệu USD.
Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực tháng 7 năm 2007:
Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 7/2007 đạt 126,6 triệu USD tăng 8,9% so với tháng 6/2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt 801 triệu USD. Tỷ trọng 3 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất (máy in, bảng mạch và linh kiện vi tính) trong tháng chiếm đến 97% tổng kim ngạch xuất khẩu các thiết bị tin học xuất khẩu cả nước.
Mục tiêu đến năm 2010 ngành công nghiệp điện tử Việt Nam sẽ đạt doanh số khoảng 4-6 tỷ USD và kim ngạch xuất khẩu đạt 3-5 tỷ USD, đạt tốc độ tăng trưởng 2-30%/năm.
Đồng thời, ngành công nghiệp điện tử cũng sẽ hoàn thành nhiệm vụ tạo khoảng 300.000 việc làm.
Ngoài ra, cơ cấu của ngành này cũng được thay đổi cho phù hợp với sở trường của Việt Nam và thích ứng một cách tốt nhất với môi trường hội nhập sâu rộng.
Theo đó, sẽ tiến hành chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển điện tử chuyên dùng, bao gồm sản xuất sản phẩm, linh kiện, phụ tùng và sản phẩm phụ trợ cho các lĩnh vực tin học, viễn thông, điện tử y tế, điện tử công nghiệp, cơ điện tử, đo lường, tự động hóa.
2.6.3 Thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu gồm trên 30 thị trường xuất khẩu; trong đó, 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất bằng khoảng 86,6% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thái Lan vẫn là thị trường lớn nhất về xuất khẩu với kim ngạch trong tháng đạt 29,6 triệu USD và đã chiếm 26,8% kim ngạch xuất khẩu. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này là bảng mạch các loại (28,3 triệu USD) và linh kiện vi tính (1,3 triệu USD). Tháng 7/2007 kim ngạch xuất khẩu sang Thái Lan đạt 32,2 triệu USD, tăng 17,1% so với tháng trước và đã chiếm 25,5% kim ngạch xuất khẩu thiết bị tin học trong tháng sang tất cả các thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này từ đầu năm đến hết tháng 7 đạt 178,5 triệu USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Thái Lan là bảng mạch các loại (28,2 triệu USD) và linh kiện vi tính (3,8 triệu USD).
Thị trường Mỹ luôn đứng thứ 2 về thị trường xuất khẩu; trong tháng 1 xuất khẩu sang thị trường này đạt 18 triệu USD chiếm 16,3% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này là mặt hàng máy in (17,4 triệu USD). Xuất khẩu trong tháng 7/2007 sang Mỹ đạt 16,8 triệu USD, tăng 34,4% so với tháng trước nâng tổng kim ngạch xuất khẩu thiết bị tin học sang thị trường này 7 tháng đầu năm đạt 116,5 triệu USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này là máy in (15,1 triệu USD) và đã chiếm 89,9% kim ngạch.
Sau Nhật Bản, hàn Quốc là quốc gia có kim ngạch nhập khẩu dây, cáp điện từ Việt Nam lớn thứ hai. Tuy nhiên, tổng giá trị nhập khẩu từ Việt Nam chiếm tỉ trọng rất nhỏ, năm 2001 đạt 5,3 triệu USD, bằng 3,3% tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm cùng loại của Nhật Bản từ thị trường Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu dây, cáp điện của Việt Nam sang Hàn Quốc lại giảm liên tục trong giai đoạn 2001-2006, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam liên tục tăng mạnh trong giai đoạn này. Năm 2001, tổng kim ngạch xuất khẩu dây, cáp điện của Việt Nam là 154 triệu USD, trong đó, xuất sang Hàn Quốc đạt 4,3 triệu USD, chiếm 2,8%, năm 2003 các con số tương ứng là 263,1 triệu USD, 3,7 triệu USD; 1,4%; năm 2005 là 523 triệu USD; 2,125 triệu USD; 0,41%, năm 2006 là 744,8 triệu USD, 8,63 triệu USD; 1,12%. Sáu tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dây cáp và cáp điện của Việt Nam sang Hàn Quốc đã tăng mức kỷ lục so cùng kỳ năm 2006 với 931% (kim ngạch 6 tháng đầu năm 2007 đạt 17,7 triệu USD, trong khi đó mức cùng kỳ năm 2006 là 1,9 triệu USD). Điều này cho thấy, mặc dù kim ngạch xuất khẩu dây cáp và cáp điện của Việt Nam sang Hàn Quốc vẫn còn thấp nhưng lại đạt mức tăng trưởng quá cao, đây sẽ là đà phát triển trong thời gian tới.
Thị trường Hà Lan: trong tháng 7/2007, xuất khẩu tới Hà Lan đạt 18,6 triệu USD, tăng 10,7% so với tháng trước và đã chiếm 14,7% kim ngạch xuất khẩu thiết bị tin học trong tháng sang tất cả các thị trường. Mặt hàng chủ yếu xuất sang thị trường này là máy in (18,1 triệu USD) và đã chiếm 97,3% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này.
Xuất khẩu sang thị trường EU đạt 26,03 triệu USD, tăng 3,5% so với tháng 12/2006; sang thị trường Trung Quốc tăng 27,3%. Một số sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc là loa, máy in, linh kiện sản xuất loa...
Bên cạnh đó cũng có một số thị trường có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như Singapore tăng 30,01%, Hồng Kông tăng 34,5%, Australia tăng 38,4%....
Biểu đồ : Thị trường xuất khẩu tháng 7 năm 2007:
2.6.4 Thuận lợi và khó khăn:
2.6.4.1 Thuận lợi:
Gia nhập WTO, công nghệ thông tin-truyền thông Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thâm nhập thị trường thế giới. Dự báo, đến năm 2010, xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm của Việt Nam đạt từ 3-5 tỷ USD.
2.6.4.2 Khó khăn:
- Khi chính thức là thành viên của WTO, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghệ thông tin của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với sản phẩm cùng loại nhập khẩu giá rẻ, chủ yếu từ các nước trong khu vực ASEAN và Trung Quốc. Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải cắt, giảm thuế nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp, trong đó có máy tính, các thiết bị kỹ thuật số và các loại linh kiện điện tử. Ngoài ra, các rào cản phi thuế quan khác đối với các nhà cung cấp dịch vụ cũng phải được gỡ bỏ (bao gồm cả dịch vụ sản xuất phần mềm). Bên cạnh đó, khi là thành viên của WTO, Việt Nam cũng sẽ tham gia Hiệp ước Công nghệ thông tin. Những nội dung cam kết cơ bản của Việt Nam khi tham gia hiệp ước là sẽ giảm mức thuế này theo lộ trình cắt giảm xuống 0% đối với 330 sản phẩm công nghệ thông tin, trong vòng 5 năm đối với các sản phẩm phần cứng, thiết bị ngoại vi, linh phụ kiện điện tử và 7 năm đối với các sản phẩm như điện thoại, cáp viễn thông (trừ cáp biển). Gia nhập WTO, hàng rào bảo hộ của Nhà nước đối với công nghệ điện tử (CNĐT) sẽ phải gỡ bỏ, trong khi các nước trong khu vực CNĐT của họ phần lớn mạnh hơn ta. Chúng ta vừa may và không may là nằm giữa trung tâm CNĐT thế giới. Thế giới người ta gọi vòng cung Đông Á là vòng cung công nghệ điện tử chiếm khoảng 2/3 sản lượng CNĐT toàn cầu. Trong khi đó CNĐT các nước trong khu vực người ta đều đi trước ta, Việt Nam là chỗ trũng nhất, nếu như một “cái ao” mà bỏ đi các hàng rào, thì có chỗ trũng là bị thách thức nhiều nhất. Đây là một thách thức rất lớn đối với CNĐT Việt Nam.
- Doanh nghiệp điện tử Việt Nam tuy đã phát triển về số lượng (khoảng 200 DN), nhưng phần lớn là các DN nhỏ, ít vốn, công nghệ sản xuất chưa cao.Trong khi đó, các công ty đa quốc gia đã thống trị toàn cầu từ chuyên môn, công nghệ, đến thiết lập mạng lưới sản xuất và phân phối, khống chế thị trường toàn cầu. Một số DN Việt Nam tìm được đối tác để gia công hàng XK nhưng lại không đủ vốn và công nghệ để sản xuất nên đành phải chuyển giao sang cho DN có vốn đầu tư nước ngoài. Một nguyên nhân nữa khiến năng lực cạnh tranh của hàng điện tử Việt Nam bị yếu: Trong khi ngành công nghiệp sản xuất linh kiện còn chưa phát triển thì thuế nhập khẩu linh kiện để sản xuất của ta lại quá cao. Vì thế, hàng Việt Nam cạnh tranh về giá ở thị trường trong nước còn khó, chưa nói gì đến cạnh tranh ở nước ngoài.
2.7 GẠO:
2.7.1 Kim ngạch xuất khẩu:
Gạo là sản phẩm chủ yếu của nền nông nghiệp Việt Nam. Không phải chỉ vài năm gần đây nước ta mới có gạo xuất khẩu, mà thực tế gạo Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới hàng trăm năm nay. Ngay từ năm 1880, các tỉnh Nam Bộ đã xuất khẩu 284.000 tấn gạo, năm 1884 Bắc Bộ xuất 5.376 tấn. Trong thời kỳ từ năm 1926 đến năm 1936 Việt Nam đã xuất 8,2 triệu tấn gạo. Năm 1960 các tỉnh miền Nam xuất 340.000 tấn. Nhưng thời gian sau đó, chiến tranh liên miên, dân số phát triển quá nhanh, đất canh tác lại hạn chế, nhà nước chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng đối với nông nghiệp, cho nên Việt Nam trong nhiều năm liên tục phải nhập khẩu gạo từ năm 1976 đến năm 1988. Từ năm 1989 nhờ có chính sách lương thực đúng đắn mà tình hình sản xuất và thương mại về lương thực, thực phẩm có sự thay đổi lớn. Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta chuyển sang xuất khẩu gạo.
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 1997 – 8/2007
Năm
Số lượng (nghìn tấn)
Kim ngạch (triệu USD)
1997
3.575
899
1998
3.730
1.024
1999
4.550
1.035
2000
3.476
667
2001
3.550
588
2002
3.241
726
2003
3.892
721
2004
4.055
941
2005
5.202
1.150
2006
4.647
1.270
8 tháng đầu 2007
3.592
1.154
(Nguồn: Agro.info)
Từ năm 2001, nhà nước bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo và không qui định đầu mối xuất khẩu gạo. Cơ chế mới này tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi mang tính bình đẳng giúp cho hoạt động xuất khẩu gạo tăng trưởng ổn định. Năm 2005, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng kỷ lục cả về khối lượng lẫn kim ngạch. Năm 2006, xuất khẩu gạo cả nước chỉ đạt khoảng 4,7 triệu tấn gạo đạt kim ngạch gần 1,3 tỷ USD, không đạt chỉ tiêu 5 triệu tấn đề ra. Nguyên nhân chính là do dịch bệnh gây mất mùa ở phía Nam khiến Chính phủ phải tạm ngưng xuất khẩu trong tháng cuối năm. Mặc dù chỉ mới được xuất khẩu gạo trở lại từ tháng 2 năm nay nhưng các doanh nghiệp đã nhanh chóng ký kết được các hợp đồng xuất khẩu hơn 3 triệu tấn gạo (chỉ tiêu xuất khẩu gạo năm nay từ 4 - 4,5 triệu tấn) với mức giá cao nhất trong nhiều năm nay. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu 4,7 triệu tấn gạo đem về gần 1,3 tỉ USD thì 8 tháng đầu năm 2007 tuy mới xuất khẩu 3,6 triệu tấn gạo nhưng đã đem về 1,15 tỉ USD. Điều này cho thấy đây là năm mà giá gạo xuất khẩu đạt mức cao.
Về xu hướng, giá gạo trong nước cũng như thế giới vẫn tiếp tục tăng lên bởi hàng loạt các lý do: Thứ nhất là do diện tích trồng lúa ở VN đang bị thu hẹp lại bởi tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá... Thứ hai là hiệu quả của việc trồng lúa không cao, nên người nông dân bỏ canh tác, việc này đã diễn ra ở các vùng đồng bằng các tỉnh phía bắc. Thứ ba là tỉ lệ tăng dân số hàng năm của mỗi quốc gia đều đang cần nguồn lương thực, trong lúc nguồn cung không tăng. Thứ tư là yếu tố thiên tai, bão lụt thất thường, nhất là trong tình trạng khí hậu toàn cầu đang nóng lên như hiện nay đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động gieo trồng lương thực và tác động lớn đến giá lương thực. Và vấn đề thứ năm là điều rất mới, đó là trên thế giới bắt đầu xuất hiện công nghệ chế biến cồn từ ngô (bắp) và sắn (khoai mì) để làm nhiên liệu dùng cho động cơ. Việc sử dụng công nghệ khoa học này dùng một lượng sắn, ngô rất lớn sẽ ảnh hưởng đến tình hình lương thực toàn cầu. Dự báo có thể ngay trong năm tới, giá sắn lát và ngô sẽ tăng khoảng trên 100%.
2.7.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu:
Gạo 5% tấm, 25% tấm, 15% tấm… tiếp tục là những chủng loại xuất khẩu nhiều nhất của nước ta trong năm 2006. So với năm 2005, xuất khẩu gạo 5% tấm và 15% tấm tăng lần lượt về lượng là 13,10% và 5,91%; về trị giá là 17,12% và 4,85%; chủ yếu xuất sang các thị trường Malaysia, Angola, Bờ Biển Ngà, Cuba, Indonexia, Philipine. Ngược lại, xuất khẩu gạo 25% đã giảm 9,50% về lượng và giảm 5,89% về trị giá so với năm 2005.
Trong năm 2006, bên cạnh việc xuất khẩu một số chủng loại như gạo tám, gạo 35% tấm, gạo thơm 100% tấm… có mức tăng trưởng khá cao, thì xuất khẩu các loại như gạo giống Nhật 5% tấm, gạo lứt, gạo 10% tấm lại giảm so năm 2005.
Chủng loại gạo xuất khẩu trong năm 2006
Chủng loại
Năm 2006
So với năm 2005
Lượng (tấn)
Trị giá (USD)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Gạo 5% tấm
1.567.535
410.989.013
13,10
17,12
Gạo 25% tấm
1.322.833
369.360.849
-9,50
-5,89
Gạo 15% tấm
1.314.061
363.537.289
5,91
4,85
Gạo 100% tấm
75.696
15.826.093
-58,52
-58,46
Gạo 10% tấm
68.688
19.005.308
-65,65
-67,13
Gạo 20% tấm
66.401
17.796.727
36,71
50,03
Gạo nếp 10% tấm
65.250
25.696.103
8,94
63,62
Gạo thơm 5% tấm
38.481
12.474.986
-9,92
-4,65
Gạo tám
17.897
3.740.888
2.104,04
1.695,96
Gạo 35% tấm
8.789
2.083.548
796,84
781,89
Gạo nếp 5% tấm
4.633
1.792.657
-40,64
-19,96
Gạo nếp 15% tấm
3.902
1.368.983
-24,30
5,83
Gạo 2% tấm
3.779
1.214.619
48,14
60,28
Gạo thơm 2% tấm
1.892
645.525
89,20
122,59
Gạo giống Nhật 5% tấm
1.431
901.728
-92,39
54,77
Gạo nếp 100% tấm
1.290
490.700
-19,47
32,95
Gạo thơm 100% tấm
1.124
302.130
732,59
768,94
Gạo lứt
631
233.833
-88,58
-84,58
Gạo 3% tấm
221
60.680
215,71
149,71
(Nguồn: Agro.info)
2.7.3 Thị trường xuất khẩu:
Philippine, Malaysia, Cuba, Indonexia và Bờ Biển Ngà lần lượt là năm thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất trong năm 2006 của nước ta. Riêng xuất khẩu tới Philippin đã đạt hơn 1,5 triệu tấn, gần bằng 1/3 trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, và cao hơn hẳn (gấp 3 lần) so với khối lượng xuất khẩu tới thị trường lớn tiếp theo là Malaixia. Tuy nhiên, giá xuất khẩu tới Philippin trong năm qua không được cao, trong khi khối lượng xuất khẩu tăng 15% so với năm 2005 thì kim ngạch thu được lại giảm hơn 7%. Trong khi đó, xuất khẩu sang Indonexia đạt mức tăng trưởng cao, tăng tới 245,8% về lượng và tăng tới 283,1% về trị giá so năm 2005. Ngược lại, xuất khẩu sang Bờ Biển Ngà lại giảm 35,3% về lượng và giảm 31,7% về trị giá so năm 2005..
Ngoài ra, xuất khẩu gạo của ta trong năm 2006 sang một số thị trường như Thổ Nhĩ Kỳ, Irắc, Đài Loan, Georgia, Litva, Mỹ… cũng tăng mạnh. Ngược lại, xuất khẩu sang Etiôpia, Hà Lan, Xenegan, Modambic… lại giảm khá mạnh so năm 2005.
Thị trường xuất khẩu gạo năm 2006
Thị trường
Năm 2006
So 2005
Lượng (tấn)
Trị giá (USD)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Philippine
1.509.854
429.249.075
14,97
-7,15
Malaixia
504.622
139.550.798
11,59
19,92
Cuba
453.100
131.240.402
6,89
-4,37
Inđônêxia
339.830
104.616.910
245,81
283,10
Bờ Biển Ngà
213.550
53.114.867
-35,32
-31,70
Angola
181.708
47.547.856
-10,83
-11,30
Nhật Bản
165.222
43.095.581
-16,06
-19,33
Ghana
115.718
28.538.890
63,11
64,33
Nam Phi
104.653
24.907.944
-58,58
-56,56
Singapore
103.151
26.753.028
147,97
154,87
Irắc
90.900
25.172.600
1.198
1.338
Tanzania
87.102
22.105.233
6,49
12,11
Cônggô
72.860
18.498.818
19,69
29,75
Kenya
64.683
15.415.608
-17,13
-15,55
Nga
61.639
17.359.426
3,17
14,87
(Nguồn: Agro.info)
Xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2007 không đạt chỉ tiêu bởi nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN bị giảm kim ngạch tăng trưởng. Đầu tiên phải kể đến gạo. Trong 6 tháng đầu năm, gạo VN xuất khẩu đã giảm 5% về giá trị, 18% về lượng so với năm 2006. Hầu hết các thị trường chính của gạo VN đều bị giảm mạnh, cụ thể: Nga (giảm 75%), Cuba (giảm 67%), Nam Phi (giảm 58%), Nhật Bản (giảm 52%), Philippines (giảm 44%), Trung Quốc (giảm 40%). Gây thất vọng không kém là xuất khẩu giày dép, một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực lâu năm của VN nhưng tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này chỉ đạt 11%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 21%.
Nguyên nhân của sự mất "phong độ" này là do các vụ kiện chống bán phá giá khiến cho thị trường EU, thị trường chính chiếm tới gần 80% trong tổng kim ngạch toàn ngành giảm xuống chỉ còn khoảng 50 - 60%.
2.7.4 Khó khăn:
Bên cạnh niềm vui, nhìn vào ngành gạo Việt Nam vẫn còn canh cánh những nỗi lo. Đó là, tuy Việt Nam xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, nhưng chỉ xếp thứ 3, thứ 4, nếu xét về giá trị xuất khẩu. Việt Nam phải bán gạo rẻ vì hệ thống chế biến và tiếp thị yếu. Mặt khác, tuy nông dân Việt Nam đã đạt mức kỷ lục về năng suất, sản lượng lúa và lợi nhuận tính theo ha, song do hầu hết nông dân đều trồng lúa trên diện tích nhỏ nên không thể thoát nghèo - nếu chỉ trồng lúa. Một nghịch lý đáng chú ý lâu nay là nhiều doanh nghiệp nước ngoài mua gạo, cà phê, chè, ca cao, tiêu, điều của Việt Nam chế biến lại bán giá cao gấp nhiều lần.
Một khâu yếu khác, cho đến nay trên thương trường quốc tế chưa có thương hiệu hoặc nhãn hiệu gạo nổi tiếng đặc trưng cho gạo Việt Nam. Trong khi, các thương hiệu gạo “hoa nhài – Jasmine”, gạo Basmani đã được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan trên thị trường thế giới.
gạo Việt Nam không được trả giá cao là do “không rặt một thứ, pha trộn tùm lum”. Một trong những lý do quan trọng là người nông dân không kết nối trực tiếp được với doanh nghiệp xuất khẩu. Nông dân chủ yếu bán gạo cho thương lái. Mà thương lái lại không để nguyên hoặc chia từng loại, mua của rất nhiều nơi về trộn lại với nhau rồi mới bán. Thêm vào đó Việt Nam chưa có những công ty có năng lực lớn thực sự. Chẳng hạn tầm cỡ như công ty xuất khẩu gạo V ở nước mình, không có nhiều nhà máy, khi ký hợp đồng thì rải ra thu gom nhiều nơi, gạo không cùng giống, chất lượng không đồng nhất là vậy.
2.8 CAO SU:
2.8.1 Kim ngạch xuất khẩu:
Sản lượng cao su xuất khẩu
(Nguồn: thời báo kinh tế Việt Nam)
Theo số liệu thống kê, lượng cao su xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2007 đạt khoảng 291 ngàn tấn, kim ngạch đạt 547 triệu USD, tổng kim ngạch tăng 6% do giá cao su xuất khẩu trung bình 6 tháng đầu năm nay cao hơn cùng kỳ này năm 2006 là 6%
Trong tháng 6/2007, xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 60 ngàn tấn, kim ngạch đạt 121 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng co su xuất khẩu tăng 5%, nhưng kim ngạch chỉ tăng 3%, nguyên nhân do giá cao su xuất khẩu gần đây giảm so với năm 2006, trên 30 USD/tấn.
Theo dự báo của Hội các nước sản xuất cao su thiên nhiên, sản lượng cao su thế giới năm 2007 sẽ tăng 3,08% lên 9,36 triệu tấn. Tổng tiêu thụ cao su tăng 4,7% đạt 22,2 triệu tấn. Mặt khác giá dầu thế giới luôn trong tình trạng bất ổn và trong xu thế tăng giá. Giá cao su thế giới có thể biến động, khi tăng, khi giảm nhưng nhìn chung luôn vững ở mức cao.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong tháng 7/2007 Việt Nam xuất khẩu được khoảng 60 ngàn tấn cao su các loại, đạt kim ngạch trên 123 triệu USD, tăng 12,23% về lượng và tăng 12,27% về trị giá so với tháng trước nhưng lại giảm 8,5% về lượng và giảm 13,76% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Lượng cao su xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2007 đạt khoảng 344 ngàn tấn, kim ngạch đạt 658 triệu USD, giảm 4% về lượng nhưng kim ngạch đạt xấp xỉ cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu cao su Việt Nam dự báo sẽ tăng 7-10%, đạt 750.000-780.000 tấn trong năm 2007, trong đó 250.000 tấn được nhập khẩu rồi tái xuất, so với 236.000 tấn năm 2006.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, Việt Nam sẽ tăng sản lượng cao su nguyên liệu – dùng để sản xuất lốp xe và giày dép – lên 700.000 tấn trong vòng 3 năm, so với 540.000 tấn năm 2006, tức là tăng 30% từ nay tới năm 2010.
Trong bối cảnh nhu cầu cao su nguyên liệu tăng trên toàn cầu, miền Trung – Tây Nguyên có kế hoạch tăng gấp đôi diện tích trồng cao su lên 220.000ha vào năm 2010. Khu vực này gồm 5 tỉnh, hiện đã có 116.000ha cao su. Việt Nam, có kế hoạch trồng 100.000ha cao su vào năm 2010 ở 4 tỉnh Đắklắk, Gia Lai, Kon Tum và Đắc Nông. Việt Nam hiện có tổng cộng 490.700ha cao su. Mục tiêu của Việt Nam là tăng sản lượng mủ thêm 13% lên 700.000 tấn vào năm 2010, so với 620.000 tấn dự kiến của năm 2007.
2.8.2 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu:
Hầu hết các mặt hàng cao su xuất khẩu trong năm 2006 đều tăng khá như xuất khẩu cao su khối SVR 3L tăng 13,91% về lượng và tăng 51,51% về trị giá so với năm 2005. Giá xuất khẩu trung bình đạt 1.954 USD/tấn, tăng 33% (tăng 485 USD/tấn) so với giá xuất khẩu trung bình năm 2005. Đáng chú ý trong năm 2006, giá xuất khẩu trung bình cao su khối SVR 3L sang thị trường Mêhicô tăng rất mạnh, tăng tới 1.050 USD/tấn so với giá xuất khẩu trung bình năm 2005, đạt 2.530 USD/tấn. Ngoài ra, giá xuất khẩu mặt hàng này sang một số thị trường khác đạt khá cao như giá xuất khẩu sang Malaysia đạt 2.107 USD/tấn, tăng 47,7%; sang Nga đạt 2.106 USD/tấn, tăng 45,5%; tới Tây Ban Nha đạt 2.065 USD/tấn, tăng 43,7% và sang Nhật Bản đạt 2.018 USD/tấn, tăng 35,7% so với giá xuất khẩu trung bình năm 2005.
Xuất khẩu mủ cao su Latex cũng tăng 52,2% về lượng và tăng 103,7% về trị giá so với năm 2005, đạt 84,92 ngàn tấn với trị giá 105,916 triệu USD. Mủ cao su Latex được xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc và Đức. Giá xuất khẩu trung bình đạt 1.247 USD/tấn, tăng 33,85% so với giá xuất khẩu trung bình năm 2005.
Trong 6 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu cao su SVR10 giảm 4,04 về lượng và giảm 0,06% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2006. Giá xuất khẩu trung bình loại cao su này sang thị trường Nhật Bản đạt giá cao nhất với 2.028 USD/tấn, tăng 38 USD/tấn; tiếp đến giá xuất sang Đài Loan đạt 1.961 USD/tấn, tăng 199 USD/tấn; giá xuất sang Hàn Quốc cũng đạt 1.930 USD/tấn, tăng 89 USD/tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá xuất khẩu lọai cao su này sang thị trường Trung Quốc luôn thấp hơn các thị trường trên từ 150-200 USD/tấn, chỉ ở mức 1.798 USD/tấn.
Trong 6 tháng đầu năm 2007, xuất khẩu cao su SVR3L chỉ tăng 5,85% về lượng và tăng 8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2006, đạt 112,6 ngàn tấn với trị giá 227,86 triệu USD. Loại cao su này được xuất sang 55 thị trường. Trong đó xuất sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm tới 67% tổng lượng cao su SVR3L xuất khẩu của cả nước, đạt trên 75,5 ngàn tấn, với trị giá 151,6 triệu USD, tăng 4% về lượng và tăng 4,63% về trị giá so với cùng kỳ năm 2006. Giá xuất sang Trung Quốc đạt 2.007 USD/tấn, tăng 12 USD/tấn; xuất sang Đài Loan đạt trên 7 ngàn tấn, với giá xuất đạt 2.054 USD/tấn, tăng 158 USD/tấn; xuất sang Nga đạt trên 4 ngàn tấn, giá xuất đạt 2.078 USD/tấn, giảm 48 USD/tấn so với giá xuất khẩu trung bình cùng kỳ năm trước.
2.8.3 Thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam năm 2006
Thị trường
Năm 2006
So với 2005
Lượng (tấn)
Trị giá (ngàn $)
Lượng (%)
Trị giá (%)
Trung Quốc
469.975
851.379
27,1
63,98
Hàn Quốc
32.324
50.768
11,26
58,31
Đức
30.066
58.606
45,12
103,73
Đài Loan
22.429
44.580
-0,4
37,22
Nga
20.475
41.858
6,87
55,29
Mỹ
17.36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình xuất khẩu của việt nam.doc