Trong nhà bê tông cốt thép thường cấu tạo của nút khung là nút cứng, nút cứng làm tăng bậc 
siêu tĩnh của khung làm giảm momen nội lực gây ra cho dầm và cột, giảm chuyển vị ngang của 
khung. Tùy thuộc vào thành phần vật liệu mà nút khung có cường độ giới hạn và khả năng chịu lực 
khác nhau, khi lực gây ra do động đất càng lớn thì nút khung càng nguy hiểm. Nút khung chịu 
momen do các dầm truyền vào nó, dưới tác dụng của những momen này lực trong các thanh cốt thép 
làm nút bị kéo và nén theo 2 phương khác nhau tại đầu trên và đầu dưới của nó. Những lực này cân 
bằng với nhau do ứng suất liên kết được tạo ra giữa bê tông và cốt thép trong vùng nút. Nếu như cột 
nhỏ hay cường độ bê tông của nút thấp thì bê tông không đủ lực dính để giữ cốt thép dẫn đến thanh 
cốt thép bịtrượt trong vùng nút kéo theo dầm bịmất khảnăng chịu tải trọng làm cho khung bịnguy 
hiểm. Mặt khác dưới tác dụng của lực kéo và nén tại đỉnh và đáy của nút làm cho nút bịbiến dạng 
hình học làm cho nút bị biến dạng chiều dài 1 cạnh chéo của nút khung bị kéo giãn ra trong khi cạnh 
còn lại chịu nén lại gần nhau
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
16 trang | 
Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 4557 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích ứng xử của cấu kiện trong công trình chống động đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thì cột không chịu lực động đất ngang truyền qua chúng. Nhưng khi lực này bẻ cong cột 
thì trong cột sẽ phát sinh nội lực. tùy vào độ cứng của cột mà nội lực có thể lớn hoặc nhỏ. Do đó nội 
lực này trong cột còn gọi là lực cứng ( stiffness forces). EJuN =
3) Chấn động phương ngang và phương 
đứng 
181 
ĐẤT 
Hình 4: Dòng truyền lực quán tính do động
đất đi qua các thành phần kết cấu 
Sự dịch chuyển do động đất 
SÀN 
HỆ THỐNG 
TƯỜNG HOẶC CỘT 
MÓNG
LỰC QUÁN
TÍNH
Động đất gây nên chấn động của đất nền theo 
mọi phương dọc theo 2 phương (X và Y) và phương 
đứng Z (hình 3). Vì thế trong quá trình động đất nền 
đất bị chấn động một cách ngẫu nhiên dọc theo X, Y, 
Z. Tất cả các kết cấu đều được thiết kế để chịu được 
tải trọng do trọng lực gây nên (gravity) G bao gồm 
cả trọng kết cấu và tải trọng tác động do sử dụng M). 
G = Mg. trong đó g là gia tốc trọng trường 
ngược chiều với trục Z. Gia tốc theo phương đứng 
trong suốt quá trình chấn động nền cũng không 
được cộng vào hay trừ ra với gia tốc trọng trường. 
Vì các hệ số an toàn trong quá trình thiết kế kết cấu 
thường đủ khả năng chống lại sự chấn động theo 
phương thẳng đứng. 
Tuy nhiên sự chấn động theo phương ngang 
X, Y gây ra mối nguy hiểm. Kết cấu thông thường 
được thiết kế đối với trọng lực nhưng có thể nó 
không thể an toàn khi chịu tác động của chấn động 
theo phương ngang của động đất. Vì thế, cần phải 
thiết kế chống lại tác động theo phương ngang của 
động đất. 
4) Dòng chảy của lực quán tính xuống 
móng 
Dưới sự dịch chuyển theo phương ngang của 
đất nền phát sinh lực quán tính tại vị trí mang khối 
lượng lớn của kết cấu mà thường là tại các tầng. 
Các lực quán tính ngang này sẽ truyền từ sàn qua 
hệ dầm, tường và cột xuống dưới móng và cuối 
cùng là truyền xuống hệ thống đất nền bên dưới 
(hình 4). Vì vậy các thành phần kết cấu như sàn, 
dầm, cột hay tường và các mối nối giữa chúng cần 
được thiết kế an toàn để có thể chịu được lực quán tính này truyền qua chúng. 
Tường và cột là những thành phần then chốt nhất trong việc truyền tải lực quán tính xuống nền. 
Nhưng trong các công trình xây dựng thì dầm được quan tâm thiết kế nhiều thường khỏe hơn 
tường và cột. tường thì tương đối mỏng và thường làm từ vật liệu dòn như khối xây, chúng rất kém 
trong việc chịu lực quán tính theo phương ngang nên dễ bị phá hoại khi xảy ra động đất. Tương tự, 
cho cột bê tông cốt thép thiếu cường độ chịu động đất là một thảm họa. vì trong thực tế nhiều công 
trình bị phá hoại chỉ do một số ít cột bị phá hoại gây ra sự sụp đổ cho toàn bộ công trình. 
Z
Y
X
Hình 3: những phương chính của ngôi nhà
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
5) Ứng xử của khối xây 
ấu khung. 
182 
Hình 6.1: ứng xử của tường xây không cốt thép
khi xảy ra động đất, tường bị đu đưa mất liên
kết, nứt chéo chữ X. 
(b) rung lắc của tường ngăn 
Đu đưa 
Khoảng hở 
Góc chéo 
Lanh tô 
Giằng 
Cửa đi Cửa sổ 
Mái 
Đà 
kiềng 
X-Cracking 
của tường 
ngăn
(c) vết nứt- X phần tường ngăn (cửa) 
Tường (a) các thành phần nhà
Sự phá hoại của khối xây không cốt thép xảy ra 
thường xuyên trong các trận động đất đến nỗi 
được xem như là hiển nhiên. Nhiều quy phạm 
chống động đất đã cấm sử dụng khối xây 
không có cốt thép. Tuy nhiên vì các lý do kinh 
tế khối xây không có cốt thép được sử dụng 
rộng rãi cả cho tường chịu lực nhà thấp tầng và 
cả để chèn trong các kết c
Trong các khối xây thường có các giằng ngang 
để cải thiện khả năng chịu động đất. Những 
giằng ngang này gồm có: giằng chân cột ( đà 
kiềng), giằng cửa, giằng mái. Tuy vậy do trong 
công trình có nhiều cửa, khoảng không trên 
tường đã làm cho tường bị giảm yếu ( hình 5). 
Trong nhà chống động đất tường xây được 
phân thành 3 loại nhỏ là: phần tường lửng dưới 
mái (spandrel masory) phần tường ngăn cửa 
(wall pier masory) và phần tường dưới cửa (sill 
masory) ( hình vẽ) sở dĩ phân chia như vậy vì 
khi xảy ra động đất thì 3 phần tường này có ửng xử khác nhau.Khi xảy động đất lực quán tính làm 
cho phần tường ngăn (cửa) bị mất liên kết với phần tường xây ở trên và dưới. Phần tường này bị đu 
đưa tại điểm góc và tường phát sinh vết nứt dạng chữ X – đây là dạng phá hoại phổ biến trong khối 
xây ( hình 6.1a,b,c). 
Trong các khối xây không cốt thép (hình 6.2) diện tích mặt cắt ngang của tường xây bị giảm yếu tại 
những lỗ cửa, do đó ngôi nhà có thể trượt ngay dưới mái, dưới lanh tô, tại cao trình ngưỡng cửa và 
đôi khi bị trượt ngay tại cao trình đà kiềng. Vị trí của điểm trượt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: 
trọng lượng nhà, lực quán tính sinh ra, diện tích phần cửa và loại khung cửa được sử dụng.
Hình 5 : các thành phần chia nhỏ của 
tường xây trong nhà chống động đất
-
Mái 
Phần tường
dưới mái 
MÔMA
Phần 
tường 
Đất 
Lanh tô
Phần tường
ngăn 
Ngưỡng cửa 
Đà kiềng
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
Hình 6.2: sự trượt ngang xảy ra tại cao trình
ngưỡng cửa trong tường xây không cốt thép.
Móng 
 Mái 
Lực quán tính 
 Mặt trượt 
(a) cốt thép trong khỗi xây làm tường chịu uốn thay
vì chịu dao động của các phần tường. 
Tường chỉ 
bị uốn 
Cốt thép phải được neo từ móng 
đến mặt trên củagiằng mái
Hình 7: ứng xử của khối xây có cốt thép 
(b) cốt thép chịu lực cắt gây trượt tại các vị trí tiếp xúc
của các phần tường (mặt trượt). 
Trong tường xây không cốt thép khả năng bị phá hoại và hư hại là rất cao và dễ gây nguy 
hiểm cho con người và đồ đạc trong nhà. Do khả 
năng liên kết với các phần tường với nhau kém, 
tiết diện tường bị giảm yếu, khả năng chịu dao 
động kém nên tường không cốt thép rất bất lợi 
trong chịu tải trọng động đất. Do đó cần luồn cốt 
thép trong tường để giúp tường tăng khả năng 
chịu tải trọng động đất. Điều này giải thích tại sao 
một số quy phạm trên thế giới cấm sử dụng tường 
xây không cốt thép trong nhà chống động đất ở 
những khu vực có cường độ động đất cao. 
Bố trí cốt thép trong tường xây: • 
Cốt thép trong tường xây phải luồn theo phương thẳng đứng theo cạnh tường và được neo từ 
móng đến mặt trên của giằng mái (hình 7). Khi có cốt thép thì các phần tường thay vì bị đu đưa sẽ 
chịu uốn tránh được sự mất liên kết giữa các phần tường với nhau, cả bức tường cùng làm việc 
chung với nhau giúp cho cả khối xây ổn định và chắc khỏe hơn. Bên cạnh đó cốt thép trong khối xây 
sẽ chị cắt tại những vị trí khối xây có tiết diện nhỏ đặc biệt là phần tường ngăn (cửa)-vị trí yếu nhất 
và dễ bị phá hoại nhất, nhờ vậy mà khả năng chịu tải trọng ngang tăng lên tránh được sự phá hoại 
cắt trong tường xây, ngăn cảng vết nứt (đặc biệt là vết nứt dạng chữ X) phát triển trong khối xây. 
- Tại vị trí cửa khi xảy ra động đất thì khung cửa bị biến dạng (do tường bị dao động) khỏi dạng chữ 
nhật ban đầu thành hình thoi (hình 8). Khi đó có các góc trên các đường chéo bị biến dạng khác 
nhau, 2 góc di chuyển ra xa nhau và 2 góc di chuyển hướng lại gần nhau. 
183 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
184 
Dưới sự tác động biến dạng như vậy 
dẫn đến các vết nứt phát triển tại góc khung 
cửa, vết nứt nhanh chóng phát triển rộng 
trong cả khối xây. vết nứt càng lớn khi kích 
thướt khung cửa (cửa sổ, cửa đi, các dạng lổ 
cửa nói chung) càng lớp. do vậy để tránh phá 
hoại ta đặt cốt thép trong khối xây để chịu 
ứng suất kéo phát sinh khi tường biến dạng 
làm cho khối xây có tính dẻo hơn chịu được 
sự dao động tốt hơnÆ ngăn chặn sự phát triển 
của các vết nứt. 
Tóm lại, các vết nứt thường tập trung 
xung quanh các lỗ cửa. Sự rạn nứt thường 
chạy theo các mạch vữa. tác dụng của cốt 
thép đối với sự tổn hại trong mặt phẳng là làm 
giảm số lượng vết nứt và giảm đáng kể khả 
năng phá hoại. Ở ngoài mặt phẳng, khối xây 
đứng độc lập hay bị tách khỏi bất kỳ một kết 
cấu liền kề nào đều có thể bị phá hoại. Việc 
này sẽ ít có khả năng xảy ra hơn nhiều nếu có 
một mối liên kết cứng ở hai đầu của bức 
tường. Cốt thép tạo thành một khung bao 
quanh là hữu hiệu nhất trong việc chống sập 
đổ hoàn toàn. Tổn hại đối với với khối xây 
thường tập trung quanh các lổ cửa. Việc cần 
làm đối với khối xây không có cốt thép đơn 
giản vào trong các tấm panen. 
Hình 14: vết nứt tại góc cửa của khối xây không 
cốt thep – cần luồn cốt thép để hạn chế nứt. 
(b) không xuất hiện vết nứt trong khối xây có cốt thép 
Lực quán tính do động đất 
Vết nứt
(a) vết nứt tại góc tường xây không có cốt thép gia cường 
Cốt thép
Lanh tô
Giằng 
ngưỡng cửa 
dưới 
Biến dạng 
hình thoi của 
Khung cửa 
Phá hoại trong khối xây - dạng chữ X, đặc biệt tại vị trí cửa sổ. 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
II. PHÂN TÍCH ỨNG XỬ CỦA KẾT CẤU KHUNG BÊ TÔNG CỐT THÉP 
1) Nhà bê tông cốt thép 
Hình 9: Minh họa – nội lực do lực ngang gây ra tăng
dần xuống chân cột, tường. 
TẦ
N
G
5
4
3
2
1
Lực tổng
Bê tông cốt thép (RC) là vật liệu 
phổ biến nhất hiện nay, RC có thể 
được đúc nhiều hình dạng khác nhau 
theo mong muốn của người thiết kế. 
Cấu kiện đặc trưng của RC trong nhà 
là: dầm, sàn nằm theo phương ngang 
nhà, cột, tường theo phương đứng 
được đỡ bởi hệ thống móng và truyền 
tải trọng xuống nền đất. Một hệ thống 
gồm dầm liên kết với cột gọi là khung 
bê tông cốt thép mà hiện nay đang sử 
dụng phổ biển trong mọi công trình 
dân dụng. Khung RC là kết cấu chính 
chịu tải trọng động đất. Chấn động do 
động đất làm phát sinh ra lực quán 
tính cho ngôi nhà, lực này tỉ lệ với 
khối lượng. đối với nhà thì khối lượng tập trung ở cao trình của sàn nên lực quán tính phát sinh và 
phát triển chủ yếu là tại cao trình sàn. Những lực này truyền qua dầm, sàn xuống tường, cột và cuối 
cùng xuống móng để truyền tải trọng vào nền đất. Lực ngang do động đất gây ra tăng dần theo độ 
giảm chiều cao công trình, tại đỉnh thì lực ngang do động đất gây ra là cực tiểu còn tại chân cột, 
tường tầng trệt thì cực đại (hình 9). 
2) Vai trò của sàn và tường xây 
Trong nhà nhiều tầng có thể dùng hệ 
dầm - sàn hay hệ sàn không dầm. Với 
hệ dầm-sàn nếu dầm bị uốn do tải 
trọng thẳng đứng thì những tấm sàn 
(thường 110-150mm) cũng sẽ uốn 
chung với dầm (Hình 10). Còn khi 
dầm dịch chuyển cùng với cột theo 
phương ngang sàn kéo theo dầm cùng 
chuyển động với nó. Trong hầu hết 
mọi công trình thì biến dạng hình học 
của sàn không đáng kể theo phương 
ngang, vì ứng xử của sàn được xem là 
một tấm cứng tuyệt đối theo phương 
ngang. 
Dưới tác động của lực ngang 
thì cột dịch chuyển theo phương lực 
tác dụng, trong khi tường xây có 
khuynh hướng chống lại sự dịch 
chuyển này bởi vì chúng có trọng 
lượng lớn và bề dày tường lớn cho 
nên tường chịu tác dụng những lực 
ngang khá lớn (hình 11). Bên cạnh đó 
khối xây là loại vật liệu dòn nên dễ 
phát sinh vết nứt và phá hoại. Vì vậy 
vai trò của tường xây giống như “cầu 
chì” trong ngôi nhà; chúng sẽ phát 
185 
Hình 10: Sàn và dầm bị uống chung theo phương đứng
và dịch chuyển kéo theo cột theo phương ngang. 
(a) 
 dịch chuyển theo phương
đứng
(b) dịch chuyển theo phương ngang
Khoảng 
hở
Hình 11: Minh họa -Sự làm việc chung của tường 
 và cột 
Nén 
Nứt 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
Độ cứng của tấm tường có thể được tăng cường bằng mác vữa, các lớp hồ no vữa, có thể làm 
giảm khoảng hở giữa chúng với khung nhà. Tuy vậy nếu một tấm tường được thiết kế không hợp lý 
về chiều cao và chiều dài so với bề dày của nó có thể dẫn đến sự sụp đổ ngoài mặt phằng tường gây 
ra nguy hiểm. Hơn nữa, việc đặt tường không hợp lý có thể gây ra hiện tượng xoắn và giảm yếu 
khung giống như hiện tượng “cột ngắn” (phân tích ở phần sau) 
Ảnh hưởng nội lực của tải trọng động đất • 
Dưới tác dụng của tải trọng trọng lực thẳng đứng ( Tĩnh tải + hoạt tải sử dụng) làm cho dầm bị 
uốn và gây ra sự căng thớ tại các vị trí khác nhau. Thông thường thì dầm bị căng thớ dưới tại giữa 
dầm và căng thớ trên tại 2 đầu dầm (hình 12). Trong khi đó tải trọng động đất tác động theo phương 
ngang làm cho dầm, cột căng thớ ngược lại so với tải trọng thẳng đứng tức là momen uốn do tải 
trọng động đất sinh ra ngược lại so với momen do tải trọng thẳng đứng gây ra cho công trình đặc 
biệt tại 2 đầu của dầm. Độ lớn của momen do động đất gây ra có thể lớn hơn momen do trọng lực 
gây nên dẫn đến đầu dầm bị căng thớ chịu nén khi xảy ra động đất. 
Để an toàn cho công trình thì cột phải được thiết kế khỏe hơn dầm và liên kết dầm cột nên là liên kết 
cứng để khi có động đất thì sự phá hoại bắt đầu ở dầm trước. Khi dầm được thiết kế có nhiều tính 
dẻo ngôi nhà có thể biến dạng lớn và khi phá hoại dầm đạt đến trạng thái dẻo trước cột. Sự phá hoại 
của dầm sẽ chỉ làm công trình hư hại tại một số tầng cụ thể mà không làm phá hoại, sập toàn bộ 
công trình và có thể sửa chữa được sau đó. Còn nếu thiết kế cột yếu hơn dầm thì cột sẽ chịu phá hoại 
cục bộ tại 2 đầu cột (hình 13). Sự phá hoại cục bộ ở cột có thể dẫn đến sự sập đổ của toàn bộ công 
trình cho dù sàn dầm, cột tầng trên không bị phá hoại 
HÌNH ẢNH MINH HỌA 
186 
Hình 12: Sự đổi chiều của momen
do động đất so với trọng lực (tải
Căng thớ dưới 
Momen
(b)
(d)
(a)
(c)
Trọng 
lực
Động đất
Chịu 
Thớ 
Hình 13: So sánh hiệu ứng của 2 phương án 
thiết kế 
 Chuyển 
vị nhỏ 
Sự nguy hiểm 
đều tập trung 
ở một tầng 
Cột yếu- dầm khỏe 
BIỂU ĐỒ NỘI LỰC TRONG KHUNG 
Sự nguy hiểm phân bố 
cho tất cả các tầng 
của công trình 
 Nhà dẻo
có chuyển 
 vị lớn 
Cột khỏe – dầm yếu (a) (b) 
Phá hoại 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
3) Ứng xử và cấu tạo nút khung trong nhà chống động đất: 
Trong nhà bê tông cốt thép thường cấu tạo của nút khung là nút cứng, nút cứng làm tăng bậc 
siêu tĩnh của khung làm giảm momen nội lực gây ra cho dầm và cột, giảm chuyển vị ngang của 
khung. Tùy thuộc vào thành phần vật liệu mà nút khung có cường độ giới hạn và khả năng chịu lực 
khác nhau, khi lực gây ra do động đất càng lớn thì nút khung càng nguy hiểm. Nút khung chịu 
momen do các dầm truyền vào nó, dưới tác dụng của những momen này lực trong các thanh cốt thép 
làm nút bị kéo và nén theo 2 phương khác nhau tại đầu trên và đầu dưới của nó. Những lực này cân 
bằng với nhau do ứng suất liên kết được tạo ra giữa bê tông và cốt thép trong vùng nút. Nếu như cột 
nhỏ hay cường độ bê tông của nút thấp thì bê tông không đủ lực dính để giữ cốt thép dẫn đến thanh 
cốt thép bị trượt trong vùng nút kéo theo dầm bị mất khả năng chịu tải trọng làm cho khung bị nguy 
hiểm. Mặt khác dưới tác dụng của lực kéo và nén tại đỉnh và đáy của nút làm cho nút bị biến dạng 
hình học làm cho nút bị biến dạng chiều dài 1 cạnh chéo của nút khung bị kéo giãn ra trong khi cạnh 
còn lại chịu nén lại gần nhau. Trong trường hợp đó nếu như thiết kế cột không đủ yêu cầu thì bê 
tông trong nút bị nứt theo phương cạnh chéo ( hình 14). 
Hình 15: cốt đai trong nút – cấu tạo cốt đai 1350
để giảm khả năng tuột trong khi làm việc. 
Cốt đai kín 
Dầm
Cột
10d≥ 
135º
187 
• Cấu tạo cốt thép cho nút khung: 
Vấn đề nứt chéo của bê tông trong nút có thể giải quyết bằng 2 cách đó là tăng tiết diện cột để tăng 
lực dính giữa bê tông và cốt thép; giảm khoảng cách cốt đai tại nút (hình 15). 
Các cốt đai giúp cho bê tông không bị biến dạng ra ngoài phạm vi nút và cũng tăng khả năng 
chịu cắt, vì vậy ngăn cản vết nứt xuất hiện. Tuy nhiên việc này gây ra khá nhiều phiền hà trong thi 
công. Trong đề tài này không đề cập đến vấn đề tính toán cốt đai và yêu cầu cốt đai thiết kế vấn đề 
này được quy định cụ thể trong TCVN 375-2006 hoặc quy phạm các nước khác. Đối với TCVN thì 
khoảng cách giữa các cốt đai nút: a 150mm. Hầu hết quy phạm đề nghị đảo chiều móc của các cốt 
đai xung quanh thép cột nhằm tăng cường khả năng chống biến dạng của cốt đai. 
≤
• Neo cốt thép dầm 
Sự dính bám cốt thép dầm trong vùng nút được cải thiện bằng cách sử dụng cột có tiết diện có tiết 
diện đủ lớn. theo ACI thì cạnh của tiết diện cột 20dmax của cốt thép dọc trong dầm. Theo TC Ấn 
Độ thì cạnh cột 300 khi đỡ dầm dài hơn 5m hoặc khi cột cao hơn 4m. 
≥
≥
Về vấn đề dính bám giữa bê tông và cốt thép Tại mục 5.6.2.2 TCVN 375-2006 qui định: 
hình 14: lực kéo và nén trong nút gây ra 2 vấn đề
nguy hiểm như trên- mối nguy hiểm không thể
sửa chửa trong các trận động đất mạnh. 
Lực dính 
giữa bê 
tông và cốt 
thép
Cạnh chịu 
nén 
Chịu kéo
Mất khả năng dính bám
giữa bê tông và cốt thép.
Sự biến dạng của
nút gây ra nứt chéo
trong bê tông 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
188 
(Các thông số được kí hiệu trong mục này của quy phạm ) 
Nếu chiều cao cột không thỏa mãn các biểu thức trên thì có 3 cách giải quyết như hình sau: 
dầm (bản) có thể kéo thêm 1 đoạn công xôn ngắn a) 
b) có thể sử dụng các thanh cốt thép có phình ở đầu neo hoặc bản neo được 
hàn vào đầu mút của các thanh cốt thép. 
c) có thể kéo dài móc uốn thêm một đoạn có chiều dài tối thiểu bằng 10dbl và 
cốt thép ngang cần được bố trí dày dọc theo phần kéo dài đó. 
Trong nút các thanh cốt thép dầm ( ở trên và ở dưới) cần phải đi xuyên qua cột mà không có 
bất kỳ một sự gián đoạn nào trong phạm vi nút, hơn nữa các thanh cốt thép này phải được đặt ở 
khoảng trong của các thanh cột mà không phải bị uốn (hình 16, 17). 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
189 
Hình 17: cốt thép trong cột chống động đất– khoảng 
cách cốt đai nhỏ và bẻ móc 1350 được yêu cầu 
trong thiết kế cũng như TCVN 375-2006. 
Cốt đai với 2 đầu 
bẻ cong 135° giúp 
cho nó không bị hở 
trong các trận 
động đất mạnh 
 10d 
135°
(a)
(b)
Phá hoại cắt 
Khoảng cách lớn
của cốt đai và
không bẻ móc
1350 ở 2 đầu gây
nên phá hoại dòn.
(2001 Bhuj) 
Cốt đai với 2 
đầu bẻ cong 
4) Phân tích ứng xử của cột ngắn dưới tác động của động đất 
a. Các dạng cột ngắn trong công trình 
Cột ngắn là những cột mà trong công trình chúng có chiều dài ngắn hơn những cột khác trong phạm 
vi của một tầng (có thể là 1 tầng trong nhà, hay có thể là phần dưới cùng của nhà trên mái dốc). Sự 
ngắn hơn của chúng có thể do kích thướt hình học thực tế trong tầng đó (như phần cột trên mái dốc), 
hoặc có thể đó là đoạn chiều cao trong đó cột được chia nhỏ do các bộ phần khác như tường xây 
hoặc dầm, sàn (hình 18). 
• Những dạng cột ngắn trong công trình: 
 CỘT NGẮN
ĐẤT NỀN 
Hình 16: cấu tạo cốt thép dầm hợp lý tại 
nút 
Thiết kế không tốt 
Những thanh cốt thép dầm bị uốn 
cong trong nút khung không đủ 
khả năng chịu kéo 
Các thanh cốt thép dầm nằm 
trong thanh cốt thép cột và 
chạy thẳng 
(b)thiết kế tốt
Dầm
(c) 
Phá hoại cắt của 
nút BTCT ở 
Cộ
MexicoCity(1985); 
 khi các thanh CT 
dầm vượt ra ngoài 
CT cột 
Dầm
t
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
b. Ứng xử của cột ngắn: 
Trước hết ta xét ảnh hưởng của chiều cao cột với lực cắt phát sinh do chuyển vị ngang Δ=1 
Hình 18: Vị trí cột ngắn trong công trình 
Cột 
bình
Cột 
ngắn
Tầng
lửng
Cột cao
Đất dốc 
(b
(a
Dựa vào bảng so sánh ta thấy khi cột có chiều cao thông thường h (chiều cao tầng) thì lực cắt 
chưa thể gây ra nguy hiểm cho cột, nhưng khi xảy ra động đất do chuyển vị tăng lên làm phát sinh 
lực cắt lớn đặc biệt là đối với các cột ngắn như trong trường hợp các ví dụ trên. Khi cột có chiều dài 
giảm dần thì lực cắt trong cột tăng lên rất nhanh, với cột có l=0.6h thì lực cắt tăng lên 4.6 lần, với 
l=0.4h thì lực cắt tăng lên đến 15 lần. Động đất làm cho các ngôi nhà có chuyển vị ngang rất lớn ( 
hầu như lớn nhất trong các loại tải trọng), lực cắt trong cột tỉ lệ thuận với chuyển vị ngang nên khi 
chuyển vị ngang lớn sẽ phát sinh trong cột lực cắt tăng một cách đột biến. Nếu trong tính toán chưa 
xét đến hiện tượng cột ngắn thì điều này rất nguy hiểm cho công trình khi có động đất xảy ra vì khi 
đó nguy cơ cấu kiện bị phá hoại cắt là rất cao. Do vậy khi thiết kế cần phải xem xét kỹ lưỡng vấn đề 
này. 
+ Xét các cột tại vị trí có tầng lửng, dưới tác dụng của động đất chuyển vị khung tại vị trí các tầng là 
như nhau (ta quan niệm sàn tuyệt đối cứng trong mặt phẳng nằm ngang) làm các cột ở tầng này có 
cùng chuyển vị ngang Δ (hình 19). 
Hình 19: cùng chuyển vị giống nhau nhưng cột ngắn 
phải chịu tác động nặng hơn do lực cắt gây ra. 
Cột ngắn chịu tác
động lớn của
động đất 
Cột bình 
thường bị tác 
động lực ngang 
nhỏ hơn
D
ài
N
gắ
n 
Δ Δ
Nhưng do cột tại vị trí tầng lửng 
bị chia làm đôi chiều dài hiệu quả của cột 
bị thu ngắn lại so với cột bình thường ( 
không có tầng lửng) dẫn đến lực cắt sinh 
ra trong trong cột ngắn do tỉ lệ nghịch với 
chiều dài nên làm gia tăng giá trị lực cắt 
lên nhiều lần, nếu khi h =0.5H thì lực cắt 
trong cột ngắn gấp 8 lần trong cột bình 
thường (H) từ đó dẫn đến phá hoại trong 
cột ngắn, trong khi cột dài vẫn có thể bình 
thường. Phá hoại cột rất nguy hiểm đối 
với công trình có thể làm sập toàn bộ 
công trình nếu cường độ động đất mạnh. 
Ứng xử này cũng giống như khi nhà xây 
dựng trên nền đất dốc vậy các cột trên mái dốc có chiều dài khác nhau dọc theo mái dốc của địa 
hình. phá hoại dạng này có đặc trưng là cấu kiện có vết nứt hình X- đặc trưng phá hoại cắt. 
190 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
Một vị trí đặc biệt khác trong công trình 
xảy ra hiệu ứng cột ngắn là tại những phần tường 
chừa trống dùng để lắp cửa sổ chiều cao tường thấp 
hơn chiều cao của cột 1 khoảng nào đó (hình 20). 
Khi sàn dịch chuyển theo phương ngang bởi động 
đất thì đầu trên cột nói chung đều chuyển vị cùng 1 
đại lượng giống nhau, nhưng vì độ cứng tường 
ngăn cản chuyển vị theo phương ngang của phần 
dưới tường làm cho phần cột ngắn phải dịch 
chuyển 1 lượng như trên chỉ trên 1 đoạn cột rất 
ngắn do vậy nó có xu hướng chống lại chuyển vị 
ngang của toàn bộ công trình dẫn đến bị tác động 
nặng nề do chuyển vị ngang của công trình Æ tại vị 
trí cột ngắn dễ bị tổn thương, phá hoại- một dạng 
phá hoại do
Cửa sổ
Cột 
bình 
Chiều 
cao 
tường 
chừa
Cột 
ngắn 
Hình 20: hiệu ứng cột ngắn trong nhà bê
tông cốt thép – vị trí tiềm ẩn nguy hiểm vì
thường quan niệm tường là thành phấn phi
kết cấu
Phần 
cột bị 
khống 
chế dịch 
chuyển
 lực cắt. 
 Đây là vị trí cần hết sức lưu ý trong thiết kế nhà chống động đất vì thường khi thiết kế ta 
xem tường là thành phần phi kết cấu không được kể đến trong quá trình tính toán chuyển vị khung. 
Minh họa phá hoại của hiệu ứng cột ngắn trong thực tế: 
191 
 Adapazaro-Turkey (1999) 
Hiệu ứng cột ngắn 
tại vị trí đặt cửa sổ 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
192 
Hướng giải quyết hiệu ứng cột ngắn: 
- Để không xảy ra hiện tượng cột ngắn thì trong các ngôi 
nhà phải được thiết kế kiến trúc tránh để xảy ra hiện tượng 
này. 
- Sự hình thành cột ngắn do tường xây không nên cho phép 
xảy ra hoặc nếu có thì cần phải hạn chế và cần phải tạo 1 
khoảng hở đủ để tách rời giữa cột và tường ( hình 17). Bề 
rộng khoảng hở này do tính toán chuyển vị của cột quyết 
định và được trám bằng vật liệu dẻo để tách rời 2 bộ phận 
cột và tường. 
- Lực cắt trong cột ngắn lớn ta có thể giải quyết bằng cách 
tăng tiết diện hoặc thiết kế tường chống cắt. 
- Vì ứng suất cắt trong cột ngắn là rất lớn, cần bố trí cốt đai 
để gia cường cho cột, các cốt đai trong thiết kế chống 
động đất đặt rất dày. 
Hình 21: phần chiều cao cột có thể
uốn được đã bị giới hạn bởi tường xây
– hiệu ứng cột ngắn nguy hiểm nhất
khi chiều cao khoảng hở nhỏ 
Cột ngắn 
giữa lanh 
tô và cửa
Tường chống cắt 
- Theo TCVN 275-2006 qui định cốt đai bố trí cho cột như sau: (hình 22,23) 
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
193 
Hình 22: cấu tạo cốt thép để khống chế hiệu ứng
cột ngắn xảy ra ( các khoảng cách xem hình bên). 
Cột ngắn 
Tầng lửng
Chiều dài phụ 
thuộc ĐK cốt 
dọc (hình bên) 
SÀN
B
ố 
tr
í c
ốt
 đ
ai
 d
ày
 c
hỉ
 tạ
i 2
 đ
ầu
 c
ột
. 
Cột bình thường 
B
ố 
tr
í 
cố
t 
đa
i 
để
 c
hị
u 
lự
c
cắ
t 
do
 h
iệ
u 
ứ
ng
 c
ột
 n
gắ
n
gâ
y 
ra
 (t
oà
n 
cộ
t) 
Hình 23 : cấu tạo cốt đai cột theo
TCVN 375-2006 
Phần nối 
cốt thép 
(phần giữa 
cột)
hc 
lc
lc/4 
lc/4 
Chiều dài đoạn nối 
50d 
Khoảng cách cốt đai≤ (D/2, 150)
Khoảng cách 
cốt đai ≤ hc/2
Max(1.5hc, lc/6, 600 mm) 
Khoảng cách cốt đai:
Min( b0/2; 175; 8dbL
Max(1.5hc, lc/6, 600 mm) 
Dầm 
Dầm 
Khoảng cách cốt 
đai ≤ hc/2 
Khoảng cách cốt đai:
Min( b0/2; 175; 8dbL
Kyû yeáu Hoäi nghò Sinh vieân NCKH 2007 
III. CÁC GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘNG ĐẤT 
Nguyên ly thiết kế nhà chống động đất 
thông thường là cố gắng làm cho ngôi nhà 
không bị sập dưới chấn động của các trận động 
đất mạnh, nhưng có thể các thành phần phi kết 
cấu trong ngôi nhà (cửa kiếng, đồ đạt, máy 
móc) và các bộ phận kết cấu khác có thể bị hư 
hại nặng. Nhưng đối với 1 số công trình quan 
trọng liên quan đến đời sống xã hội nói chung 
như bệnh viện, trạm cứu hỏa, khu quân sự - 
quốc phòng nếu bị hư hại thì không thể hoạt 
động được sau. 
Hình 24 Hệ thống - Base Isolation. 
Nhà trên những con lăn không ma sát 
Tấm đệm dẻo nối giữa nhà và móng công trình- 
làm giảm chấn động cho nhà 
Nhà đặt trực tiếp trên nền đất 
Base Isolated 
Building 
Nếu khoảng cách giữa
nhà và tường của hố
móng nh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Phan tich ung xu cau kien trong CT chong dong dat.pdf