Đề tài Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu- TSC)

Ngày 04/10/2007, Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã chứng khoán TSC) đã chính thức đưa 8.312.915 cổ phiếu, tương đương với tổng giá trị chứng khoán niêm yết là 83.129.150.000 đồng, lên niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE). Đây là cổ phiếu thứ 116 có mặt tại sàn HoSE.

Tại ngày giao dịch đầu tiên trên HoSE, cơ cấu sở hữu tại TSC chỉ có 20,89% (1,73 triệu cổ phiếu) thuộc sở hữu của các cổ đông ngoài công ty; 1,85 triệu cổ phiếu thuộc cán bộ công nhân viên và một số cổ đông đặc biệt; 4,73 triệu cổ phiếu còn lại (chiếm gần 57%) do Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) nắm giữ. Đây hứa hẹn là cổ phiếu thuộc loại “hàng hiếm" trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Quả thật như vậy, nhìn vào đồ thị 4 và Phụ lục số 1 ta thấy, ngay trong phiên giao dịch đầu tiên, chỉ có 9.890 cổ phiếu TSC được chuyển nhượng ở mức giá kịch trần 48.000 đồng/cổ phiếu (theo như tính toán HOSE trước đó, giá tham chiếu trong ngày giao dịch đầu tiên của TSC là 40.000 đồng, biên độ dao động giá trong ngày giao dịch đầu tiên là 20% so với giá tham chiếu).

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2623 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu- TSC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh phân bón là từ năm 2006 giá cả trên thị trường thế giới biến động liên tục, khoảng cách giữa giá thế giới và giá tiêu thụ nội địa không theo quy luật thuận chiều. Đối với xuất khẩu gạo: đây là mặt hàng có rủi ro cao do gạo được xuất khẩu theo quy định riêng của Nhà nước. Nguyên tắc hàng đầu trong điều hành là an ninh lương thực và hầu như năm nào cũng có sự thay đổi trong chính sách, như: hạn chế, tạm ngưng, cấm xuất khẩu. Sự thay đổi chính sách trong điều hành xuất khẩu lương thực luôn ảnh hưởng đến giá lương thực trong nước, tồn đọng hàng hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động, kết quả kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, gạo Việt Nam chưa có thương hiệu, hàng giá trị gia tăng còn ít nên tuy số lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá trị không cao. Nhu cầu sử dụng phân bón của bà con nông dân giảm, sản xuất phân bón trong nước ngày càng phát triển, số công ty tham gia nhập khẩu và kinh doanh phân bón ngày càng nhiều làm cho tính chất cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. 3.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUA CÁC NĂM 2005, 2006, 2007 Trong suốt thời gian qua, Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật nông nghiệp Cần Thơ luôn là đơn vị kinh doanh có hiệu quả, dẫn đầu về hiệu quả sản xuất kinh doanh và luôn nằm 1 trong 5 vị trí các công ty có doanh số nhập khẩu phân bón lớn nhất Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan, trong năm 2006 tổng lượng phân bón nhập khẩu vào nước ta là 3.118.785 tấn các loại, với tổng trị giá là 687.419.217 USD. Năm 2006 có tới 310 công ty thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia nhập khẩu phân bón (năm 2005 là 256 doanh nghiệp) nhưng chỉ có 142 công ty có kim ngạch nhập khẩu từ 100 ngàn USD trở lên. Trong năm 2006, tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của TSC là 36.224.222 USD, chiếm 7,68% kim ngạch của nhóm 21 doanh nghiệp có kim ngạch nhập khẩu cao và bằng 5,27% tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón năm 2006 của cả nước. Công ty luôn luôn hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước giao (khi còn là DNNN) và khi chuyển sang Công ty cổ phần, Công ty vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, hoàn thành vượt mức kế hoạch do Đại hội đồng cổ đông giao cho, dưới đây là những chỉ tiêu chủ yếu của Công ty thực hiện được trong 3 năm qua. Bảng 1: Tình hình hoạt động kinh doanh qua các năm 2005, 2006, 2007 ĐVT: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007   Tổng doanh thu    879.702  1.138.957  1.376.645   Các khoản giảm trừ   - -  1.555    Doanh thu thuần    879.702   1.138.957   1.375.090    Giá vốn hàng bán    854.703   1.098.513   1.252.296    Lợi nhuận gộp    24.999  40.444  122.794   Thu nhập hoạt động tài chính    10.650   13.664   9.853    Chi phí hoạt động tài chính    15.768   18.091   17.720       Trong đó: lãi vay phải trả    14.181   15.966   17.632    Chi phí bán hàng    13.885   23.114   27.471    Chi phí quản lý công ty   6.494   4.819   9.056    Lợi nhuận thuần từ HĐKD    (498)  8.084  78.399   Thu nhập khác    14.098   6.369   2.332    Chi phí khác    291   767   760    Lợi nhuận khác    13.807   5.602   1.572    Tổng lợi nhuận trước thuế    13.309  13.686  79.971   Thuế TNDN phải nộp    452  1.238  11.329   Lợi nhuận sau thuế    12.857   12.448   68.642  (Nguồn: Báo cáo kết quả Hoạt động kinh doanh của TSC qua 3 năm) Doanh thu của công ty có sự tăng trưởng khá, năm 2006 tăng 29,5% so năm 2005. Theo đó, trong năm 2007 Công ty đã đạt 1.375,09 tỷ đồng doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, bằng 105,78% kế hoạch do HĐQT đã đề ra, tăng 20,8% so với năm 2006 tương đương tăng 236,493 tỷ đồng. Nếu tính riêng năm 2006 Công ty đã thực hiện mua vào 225.871,112 tấn phân bón và 38.198,222 tấn gạo, bán ra 233.877,5 tấn phân bón và 38.198,222 tấn gạo, đạt doanh thu thuần về hoạt động kinh doanh là 1.138,957 tỷ đồng. Với lực lượng cán bộ nhân viên của Công ty là 40 người, điều này đã chứng minh cho thấy TSC đã bố trí lao động hợp lý và sử dụng lao động có hiệu quả. Bên cạnh đó, có thể khẳng định rằng Công ty có chi phí kinh doanh thấp nhất so với các công ty kinh doanh khác cùng ngành hàng, chính điều đó đã làm cho hoạt động của Công ty có tính cạnh tranh cao. Chẳng hạn năm 2006, với doanh số 1.138.957.424.523 đồng, Công ty đã thu về lợi nhuận trước thuế là 13.686.268.974 đồng, bằng 1,2% doanh thu thuần và bằng 19,93% vốn điều lệ; trong khi đó một đơn vị khác kinh doanh cùng ngành hàng với doanh thu thuần đạt được trên 2.100 tỷ đồng nhưng chỉ thu về lợi nhuận trước thuế gần 1,9 tỷ đồng bằng 0,088% trên doanh thu và bằng 5,56% vốn chủ sở hữu. Tương tự năm 2007 tổng lợi nhuận sau thuế năm 2007 Công ty đạt 71,051 tỷ đồng, bằng 202,7% kế hoạch lợi nhuận năm 2007, tăng 422,05% so với năm 2006 tương đương tăng 57,441 tỷ đồng. Qua bảng số liệu ta thấy được rằng tổng lợi nhuận trước thuế ngoài việc được hình thành từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh, còn có một khoản lợi nhuận khác góp vào đó là lợi nhuận của hoạt động bất thường ngoài hoạt động kinh doanh của công ty, tuy nhiên khoản thu nhập này giảm qua các năm, thấy rằng hoạt động kinh doanh ngày càng hiệu quả dựa vào ngành nghề kinh doanh chính. Lợi nhuận Công ty tăng không điều trong 3 năm, tăng cao nhất trong năm 2007, thấp nhất năm 2005. Nhất là lợi nhuận góp tăng mạnh trong năm 2006 và năm 2007, năm 2006 thì tăng lên 61,8% so với năm 2005, năm 2007 thì tăng lên gấp 3 lần so với năm 2006, cho thấy tình hình kinh doanh của công ty ngày càng tốt lên. Tổng lợi nhuận sau thuế năm 2007 Công ty đạt 71,051 tỷ đồng, bằng 202,7% kế hoạch lợi nhuận năm 2007, tăng 422,05% so với năm 2006 tương đương tăng 57,441 tỷ đồng. Công ty phân phối lợi nhuận năm 2007 như sau: trích lập quỹ dự trữ 15% số tiền là 10,658 tỷ đồng; trích quỹ khen thưởng phúc lợi 2,333 tỷ đồng; chi trả cổ tức bằng tiền mặt với tỷ lệ 40% số tiền là 33,252 tỷ đồng; thưởng cho Tổng Giám đốc 5% lợi nhuận sau thuế do TSC vượt kế hoạch số tiền là 1,814 tỷ đồng; số còn lại trích lập quỹ đầu tư phát triển là 22,994 tỷ đồng. Từ kết quả trên ta thấy công ty luôn quan tâm đến các khu vực sản xuất, kinh doanh. Thời gian qua công ty thường xuyên tổ chức lại cơ sở sản xuất, đội ngũ nhân viên, nâng cao chất lượng quản ký điều hành đối với xí nghiệp và đơn vị trực thuộc, cải tiến cơ chế khoán chi phí, tiền lương, tiền thưởng trên doanh thu, để kích thích tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên và có chính sách ưu đãi đối với công nhân viên chức có năng lực.Qua khái quát kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh TSC trong 3 năm 2005, 2006, 2007 ta nhận thấy xí nghiệp không ngừng cố gắng phấn đấu trong sản xuất kinh doanh, hướng mạnh ra thị trường nhằm tăng lợi nhuận. Biểu hiện cho việc kinh doanh ngày càng tiến triển thuận lợi là sự tăng nhanh về tổng doanh thu, lợi nhuận, tổng quỹ lương và số thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên. Nhận xét: Qua phân tích ta thấy tuy ở năm 2005 tuy lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị âm nhưng lợi nhuận này lại đạt dương rất cao ở năm 2006 và năm 2007. Đây là dấu hiệu cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty có xu hướng phát triển tốt. Nhìn một cách tổng quát, ta thấy trong cả 3 năm chi phí tài chính đều lớn, nguyên nhân chính là do chi phí lãi vay quá lớn dẫn đến chi phí tài chính lớn. Sở dĩ như vậy là do chưa xử lý xong công nợ tồn đọng cũ, công ty bị chiếm dụng vốn kéo dài dẫn đến tình trạng thiếu vốn trong kinh doanh nên công ty phải vay ngân hàng một khoản vốn lớn để đảm bảo cung cấp đủ vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Cũng chính điều này đã dẫn đến lợi nhuận chung của toàn công ty thấp vào năm 2005 và năm 2006 . Tuy nhiên, công ty đã khắc phục dần tình trạng này ở năm 2007. Đây là kết quả của sự cố gắng rất lớn của toàn thể công ty dù trong kinh doanh công ty đã gặp không ít khó khăn nhưng Ban Giám đốc đã chỉ đạo tập thể cán bộ công nhân viên công ty ra sức phấn đấu tìm mọi biện pháp tiết kiệm chi phí để đem lại doanh thu cao nhất cho đơn vị. Bên cạnh đó, các hoạt động khác ngoài hoạt động kinh doanh cũng đem lại cho công ty những khoản lợi nhuận khá cao trong 3 năm qua. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm qua là có hiệu quả ngày càng cao. Vì vậy, để tiếp tục nâng cao hiệu quả trong kinh doanh thì công ty cần có nhiều biện pháp tích cực hơn nữa trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn trong kinh doanh để có thể khắc phục tình trạng thiếu vốn, hạn chế bớt việc vay vốn ngân hàng. Đồng thời công ty cần phải tăng cường kiểm soát chặt chẽ các loại chi phí, mạnh dạn cắt giảm đối với những chi phí không cần thiết để tiết kiệm chi phí, bên cạnh đó công ty cũng phải tích cực thực hiện các biện pháp làm tăng doanh thu nhằm đưa hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng có hiệu quả hơn 3.3. PHÂN TÍCH CÁC CHỈ SỐ TÀI CHÍNH CỦA TSC 3.3.1 Chỉ tiêu hiệu quả Bảng 2: Các chỉ số tài chinh dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh Đơn vị tính: % Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Lợi nhuận gộp/ Doanh thu 2,8 3,6 8,9 EBIT / Doanh thu 3,1 2,6 7,1 Lợi nhuận trước thuế/ Doanh thu 1,5 1,2 5,8 Lợi nhuận sau thuế/ Doanh thu 1,5 1,1 5,0 ROA 3,6 3,9 15,0 ROE 16,1 15,0 43,8 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt kinh doanh TSC qua 3 năm) * Đối với tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu: Năm 2004 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,5 đồng lợi nhuận trước thuế, năm 2006 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,2 đồng là lợi nhuận trước thuế (giảm so với năm 2003 là 0,3 đồng), và năm 2007 trong 100 đồng doanh thu có 5,8 đồng lợi nhuận trước thuế (tăng 4,6 đồng so với năm 2006) * Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu: Năm 2005 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,5 đồng là lợi nhuận sau thuế, năm 2006 trong 100 đồng doanh thu thì có 1,1 đồng lợi nhuận sau thuế (giảm 0,4 đồng so với năm 2005) và năm 2007 trong 100 đồng doanh thu thì có 5 đồng lợi nhuận sau thuế (tăng 3,9 đồng so với năm 2006). Xét khoản doanh thu thuần qua 3 năm đều tăng nhưng giá vốn cũng tăng theo làm cho các tỷ lệ biến động phức tạp. Nguyên nhân là do năm 2006, năm 2007 giá cả phân bón thế giới tăng đột biến. Đồng thời chi phí sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng,…cũng đồng loạt tăng. Về phần công ty thì liên tục đầu tư máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng và những thiết bị mới đưa vào sử dụng chưa tạo hiệu quả cao nên làm cho tỷ lệ này có chiều hướng giảm xuống. * Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA): Tương tự như tỷ suất trên ta thấy được cứ 100 đồng tài sản sinh ra 3,6 đồng lợi nhuận sau thuế vào năm 2005; 3,9 đồng vào năm 2006 và sinh ra 15 đồng lợi nhuận vào năm 2007. Các tỷ số vừa tính được đã thể hiện các kết quả rất khả quan. Cả lợi nhuận trước và sau thuế đều tăng trưởng cao qua các năm trong khi giá trị tài sản năm sau giảm thấp hơn năm trước. Điều này cho thấy việc sử dụng vốn của xí nghiệp đã mang lại hiệu quả cao và cần phát huy hơn nữa để có thể bù đắp cho những vấn đề khác. * Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Với kết quả tính toán trên ta thấy rằng các tỷ suất qua các năm đều tăng. Năm 2005 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì tạo ra 16,1 đồng lợi nhuận, năm 2006 cứ 100 đồng tạo ra 15 đồng lợi nhuận và năm 2007 trong 100 đồng vốn bỏ ra thì thu được 43,8 đồng lợi nhuận. Đây là biểu hiện tốt của công ty cho thấy hiệu quả sử dụng vốn ngày một tăng. 3.3.2. Phân tích Dupont Phân tích khả năng sinh lời qua chỉ số Dupont thực chất chính là phân tích khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, đây là tiêu chuẩn phổ biến nhất người ta dùng để đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Việc phân tích dựa vào chỉ số Dupont sẽ giúp ta kết hợp đánh giá tổng hợp khả năng sinh lời của doanh nghiệp, đồng thời giúp ta đề xuất những biện pháp để gia tăng suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. Sử dụng phương trình Dupont ở mục 2.2.2.2 ta có kết quả bảng tính như sau: Bảng 3: Phân tích mô hình phương trình Dupont Đơn vị tính : % Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Mức lợi nhuận trên doanh thu (a) 1,5 1,1 5,0 Tỷ số luân chuyển tài sản có (b) 244,3 359,6 301,3 Hệ số vốn tự có (c) 450,6 381,9 291,5 ROE = (a) x (b) x (c) 16,1 15,0 43,8 Trong năm 2007 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu có thể tạo ra 43,8 đồng lợi nhuận, so với năm 2006 thì đã tăng 28,8 đồng. Nguyên nhân tăng là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng, công tysử dụng vốn hiệu quả hơn và giảm sử dụng nợ. Giai đoạn từ 2005 – 2006 tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, cụ thể là năm 2005 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu thì đem lại 16,1 đồng lợi nhuận, năm 2006 cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đem lại 15 đồng lợi nhuận (giảm 1,1 đồng so với năm 2005). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm, đồng thời hệ số quay vòng vốn cũng giảm. Như vậy, qua quá trình phân tích ta thấy các năm 2005, 2007 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của công ty tốt hơn nhiều so với năm 2006 và tốt nhất là vào năm 2007. Tuy nhiên từ sau năm 2006 hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu có chiều hướng giảm, do đó trong những năm tới công ty cần phải nâng dần hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu lên bằng cách nâng số vòng quay vốn và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Chỉ tiêu quản lý Bảng 4: Các chỉ tiêu quản lý Đơn vị tính: vòng Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Vòng quay khoản phải thu - - 9.0 Vòng quay hàng tồn kho 4,5 8,1 6,2 Chu kỳ tiền mặt 80,5 44,8 98,9 Vòng quay tổng tài sản 2,4 3,6 3,0 (Nguồn: Bảng cân đối kế toán qua 3 năm) Kết quả bảng số liệu trên cho thấy vòng quay khoản phải thu là khá cao ở năm 2007. Năm 2007 số vòng quay khoản phải thu là 9 vòng điều này thể hiện khả năng thu hồi các khoản phải thu của công ty là khá nhanh. Đây là biểu hiện tốt cho thấy công ty đã cố gắng thu hồi các khoản nợ, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vòng quay hàng tồn kho: chỉ tiêu này chỉ rõ hàng hóa tồn kho được thanh toán trong kỳ phân tích và sự luân chuyển này thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hóa đã bán với khối lượng hàng hóa còn tồn trong kho. Năm 2005 vòng luân chuyển là 4,5 đồng nghĩa là trung bình hàng tòn kho mua về bán ra được 4,5 lần trong một năm. Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho năm 2007 lớn hơn năm 2005 là 1,7 vòng và nhỏ hơn năm 2006 là 1,9 vòng. Nghĩa là tốc độ quay vòng hàng tồn kho ngày càng cao, nhưng không điều qua các năm, cụ thể: + Công ty hoạt động đạt hiệu quả trong việc nhập khẩu, sản xuất, sự trữ hàng tồn kho và bán hàng. + Công ty đã giảm được lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ. + Rút ngắn được chu kỳ liên quan đến việc chuyển đổi hàng tồn kho thành tiền mặt. + Giảm bớt nguy cơ để hàng dự trữ trở thành hàng ứ đọng. Vòng quay tổng tài sản: Việc sử dụng tài sản có hiệu quả hay không cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Chỉ tiêu số vòng quay tài sản phản ánh một đồng vốn tài trong kỳ tham gia tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Từ bảng số liệu ta thấy vòng quay tài sản có tốc độ tăng liên tục qua 3 năm nhưng không đồng đều, chẳng những thế mà số vòng quay còn rất cao. Nếu năm 2005 số vòng quay tài sán vốn là 2,4 vòng thì đến năm 2006 đã tăng lên 3,6 vòng. Qua đó ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định năm sau luôn cao hơn năm trước. Điều này có nghĩa là công tác quản lý, sử dụng tài sản cố định của công ty ngày càng hợp lý và có hiệu quả hơn. Đây là kết quả rất đáng phấn khởi. Hệ số thanh toán Bảng 5: Các hệ số thanh toán Đơn vị tính: lần Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Thanh toán hiện tại 1,2 1,3 1,4 Thanh toán nhanh 0,5 0,7 0,7 (Nguồn: Bảng Cân đối kế tóan TSC qua 3 năm) Tỷ lệ thanh toán hiện hành thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn, thể hiện khả năng chuyển đổi thành tiền của vốn lưu động. Hệ số thanh toán được cải thiện qua các năm, Trong năm 2005, hệ số thanh toán là 1,2 nhưng sang năm 2006 là 1,3 và đến năm 2007 hệ số này là 1,4. Điều này chứng tỏ công ty cải thiện được tình hình sản xuất kinh doanh giảm tình trạng bị chiếm dụng vốn, chủ động hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh Tỷ số khả năng thanh toán nhanh sẽ cho biết khả năng thanh toán thật sự của xí nghiệp và được tính toán trên các tài sản lưu động có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán cần thiết. Theo số liệu tính toán bên trên ta nhận thấy rằng 3 năm qua công ty TSC có khả năng thanh toán nhanh rất tốt và qua các năm khả năng thanh toán của xí nghiệp có dấu hiệu tăng lên. 3.3.5 Chỉ tiêu trên cổ phần Bảng 6: Các chỉ tiêu trên vốn cổ phần Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính 2005 2006 2007 P/E Lần - - 11,3(*) EPS Đồng 1.947,5 1.812,7 8.257,3 Doanh Thu/ cổ phiếu Đồng 133.251,8 165.859,5 165.416,1 Book Value Đồng 12.076,3 12.075 18.836,3 Cổ phiếu lưu hành Cổ phiếu 6.601.800 6.867.000 8.312.915 Cổ tức % 19,21% 18,84% 40% Mệnh giá Đồng 10.000 10.000 10.000 Ghi chú: (*) Số liệu lấy ngày 31/12/2007, giá thị trường của TSC là 54.000 đồng - P/E (Price/Earnings Ratio) là hệ số giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập mà nó mang lại. Đây là một trong những chỉ số phổ biến được niêm yết trên thị trường chứng khoán, trước hết biểu hiện mức giá nhà đầu tư sẵn sàng bỏ ra cho một đồng lời thu được từ cổ phiếu đó. Ở mã cổ phiếu TSC thì là P/E = 11,3 có nghĩa nhà đầu tư chịu bỏ ra 11,3 đồng để thu được 1 đồng lãi từ cổ phiếu này. Tuy nhiên, ý nghĩa quan trọng của P/E là phản ánh kỳ vọng của thị trường về sự tăng trưởng cổ phiếu trong tương lai hơn là kết quả làm ăn đã qua. Người ta so sánh P/E của các công ty cùng ngành, nếu chỉ số P/E của một công ty nào cao hơn mức bình quân, có nghĩa thị trường kỳ vọng công ty này sẽ ăn nên làm ra trong thời gian tới. Một công ty có chỉ số P/E càng cao thì kỳ vọng của thị trường vào lợi nhuận của công ty càng cao, do đó thu hút được càng nhiều các nhà đầu tư. Còn ngược lại khi họ ít hoặc không kỳ vọng vào khả năng sinh lời lớn của công ty thì mức giá họ sẵn sàng bỏ ra khi mua cổ phiếu thấp, dẫn đến chỉ số P/E thấp, biểu hiện giá cổ phiếu này đang trên xu hướng giảm. Chỉ số P/E nên dùng để quyết định mua hay không mua một loại cổ phiếu chỉ sau khi đã đối chiếu giữa các công ty cùng ngành và quan trọng là sau khi đã theo dõi xu hướng chỉ số này trong một thời gian tương đối dài. Quay lại với TSC ta thấy P/E = 11,3 vào ngày 31/12/2007 là rất thấp và hấp dẫn với tỷ lệ cổ tức được trả cho kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 là 40%. Theo đó là kế hoạch chi trả cổ tức trong các năm tới cũng rất cao. - Theo Nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên của Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông Nghiệp Cần Thơ (Mã CK: TSC), lợi nhuận được phân phối của Công ty trong năm 2007 ở mức hơn 71 tỷ đồng. Trong đó, hơn 33,2 tỷ được dùng để chia cổ tức bằng tiền mặt cho các cổ đông với tỷ lệ 4.000 đồng/mệnh giá. Trong năm 2008, Công ty phấn đấu đạt doanh thu thuần ở mức 1.500 tỷ đồng và lợi nhuận được phân phối đạt mức hơn 75,2 tỷ đồng. Ta thấy tỷ lệ chi trả cổ tức của TSC là hấp dẫn so với các cổ phiếu niêm yết trên sàn HoSE. Chương 4 PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CỔ PHIẾU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VẬT TƯ KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP CẦN THƠ 4.1 TÌNH HÌNH GIAO DỊCH CỔ PHIẾU TSC KỂ TỪ KHI NIÊM YẾT TRÊN HOSE 4.1.1 Khối lượng khớp lệnh giao dịch Dựa vào số liệu thống kê ở Phụ lục 1 và việc xử lý số liệu do phần mềm Metastock thực hiện sẽ cho ta những kết quả phân tích được thể hiện ở các biểu đồ sau đây: Khi đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả của cổ phiếu qua các phiên, ta có nhiều phương pháp và chỉ số phân tích khác nhau. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương lai không chỉ phụ thuộc vào giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có khối lượng giao dịch trong ngày. Do đó vấn đề về phân tích khối lượng giao dịch trên thị trường của cổ phiếu TSC sẽ được đề cập trong phần này. Đồ thị 4: Khối lượng giao dịch TSC qua các phiên Ngày 04/10/2007, Công ty Cổ phần Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã chứng khoán TSC) đã chính thức đưa 8.312.915 cổ phiếu, tương đương với tổng giá trị chứng khoán niêm yết là 83.129.150.000 đồng, lên niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE). Đây là cổ phiếu thứ 116 có mặt tại sàn HoSE. Tại ngày giao dịch đầu tiên trên HoSE, cơ cấu sở hữu tại TSC chỉ có 20,89% (1,73 triệu cổ phiếu) thuộc sở hữu của các cổ đông ngoài công ty; 1,85 triệu cổ phiếu thuộc cán bộ công nhân viên và một số cổ đông đặc biệt; 4,73 triệu cổ phiếu còn lại (chiếm gần 57%) do Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) nắm giữ. Đây hứa hẹn là cổ phiếu thuộc loại “hàng hiếm" trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Quả thật như vậy, nhìn vào đồ thị 4 và Phụ lục số 1 ta thấy, ngay trong phiên giao dịch đầu tiên, chỉ có 9.890 cổ phiếu TSC được chuyển nhượng ở mức giá kịch trần 48.000 đồng/cổ phiếu (theo như tính toán HOSE trước đó, giá tham chiếu trong ngày giao dịch đầu tiên của TSC là 40.000 đồng, biên độ dao động giá trong ngày giao dịch đầu tiên là 20% so với giá tham chiếu). Nhận thấy trong thời qua khối lượng giao dịch có hai thời điểm rất đặc biệt tại điểm số (1) và (2) ở đồ thị 4. Tại hai điểm này tên đồ thị đã nói lên khi giá đang ở đỉnh điểm thì những người nắm giữ cổ phiếu TSC trước khi lên sàn HOSE thì họ bắt đầu bán ra để hiện thực hóa lợi nhuận của mình (ngoại trừ những đối tượng không được phép bán theo quy định của Luật Chứng khoán). Khối lượng giao dịch các phiên khá lớn và không đều đặn trong các tháng qua kể từ ngày khi niêm yết. Như vậy có thể thấy mặc dù cổ phiếu này giảm giá khá mạnh trong thời gian gần đây do tác động chung của thị trường nhưng khối lượng bán ra không ồ ạt mà khá đều đặn chứng tỏ nhiều người muốn bán nhưng không phải là bán tống bán tháo mà họ bán nhưng vẫn với hy vọng giá sẽ hồi phục nên bán ra với khối lượng vừa phải. Trong tình hình như vậy nếu cổ phiếu này hồi phục thì nhừng người đã bán cổ phiếu này sẽ tìm cách mua lại để gỡ lại khoản thua lỗ những người khác cũng sẽ rất muốn mua cổ phiếu này vì nghĩ là nó đã giảm giá khá nhiều nên có lẽ nó khá rẻ để mua. Như vậy nếu TSC tăng giá trở lại thì nó sẽ tăng rất nhanh và có thể khôi phục lại ở một mức giá khá cao. Hiện tại nhà đầu tư vẫn cầm chừng đối với cổ phiếu này chưa giám khẳng định về xu hướng sắp tới của nó. Tóm lại theo phân tích tại các thời điểm giá cổ phiếu đang ở đỉnh điểm thì khối luợng giao dịch cũng rất lớn như ở điểm số (1) và (2) trên đồ thị 4, do đó đây cũng là một dấu hiệu để nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu TSC có thể phản ứng kịp thời với thị trường để hiện thực hóa lợi nhuận của mình. Theo nhận định thì cổ phiếu TSC sẽ ngừng giảm giá và đảo chiều tăng giá trong thời gian không xa sắp tới và khi tăng giá nó sẽ tăng giá rất nhanh và đạt mức hồi phục khá cao. Trong điều kiện thị trường như hiện nay thì sự hồi phục của TSC sẽ không nhanh và được mặc dù xét riêng nó thì hoàn toàn có thể nhưng phải luôn nhớ là thị xu thế chung của thị trường luôn có tác động mạnh đến từng cổ phiếu trên thị trường. Giá khớp lệnh qua các phiên giao dịch Ý nghĩa của việc phân tích giá và khối luợng giao dịch cổ phiếu qua các phiên như sau: - Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít, phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường khan hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, khi những người nắm giữ cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra của họ gặp đúng nhu cầu hàng của phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ hãm lãi hoặc giảm giá. Một trường hợp khác là phe mua vào cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy hiểm nên họ chấm dứt việc mua vào, lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến. - Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường bị coi rẻ. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một số nhà đầu tư cảm thấy được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung bán ra lớn trên thị trường khiến cho khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm giá chậm lại hoặc tăng giá. Một trường hợp khác là phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng cung giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến. - Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng. Lúc này không dễ đoán trước được điều gì. - Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi xu thế trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục và thường xuyên các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác. Đồ thị 5: Giá khớp lệnh của TSC qua các phiên giao dịch Trở lại với cổ phiếu TSC, trong 2 phiên giao dịch đầu tiên, có nhiều nhà đầu tư quyết tâm mua cổ phiếu mới lên sàn là TSC nhưng không được. Ngày đầu tiên giao dịch (4/10/2007), khối lượng đặt mua TSC lên tới 6,5 triệu đơn vị cổ phiếu, trong khi khối lượng bán chỉ 9.890 cổ phiếu, khớp lệnh với giá 48.000 đồng, tăng trần 20% so với giá tham chiếu. Trong ngày 5-10, các nhà đầu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích và đánh giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Vật tư kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (mã cổ phiếu- TSC).doc
Tài liệu liên quan