MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.Khái niệm đầu tư
2.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.Cơ sở hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài
II. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Đối với nước đi đầu tư
2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
III. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Môi trường chính trị
2. Môi trường kinh tế
3 . Môi trường văn hoá - xã hội
4. Môi trường pháp lý
IV. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Các hình thức phổ biến
2. Các hình thức tạỡƠÁ
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định.
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
* Hợp đồng xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT) : là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật (như cầu đường, sân bay, bến cảng … tại Việt Nam) trong một khoảng thời gian nhất định. Với hình thức này, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ khoản tiền nào.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao- kinh doanh (BTO) : với hình thức này, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà dầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong thời gian nhất định để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
* Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) : với hình thức này, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
* Đầu tư vào Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các doanh nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và phải theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp trong khu chế xuất được hưởng chế độ ưu đãi như nhau : trong khu chế xuất áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Tuy nhiên các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được điều chỉnh theo luật khác nhau : các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghệp Việt Nam thì theo Luật doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế ở Việt Nam mới chỉ thấy chủ yếu là ba hình thức BBC, JVC và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các dự án kêu gọi đầu tư theo các hình thức khác như BOT, BTO … đang được xúc tiến và hy vọng sẽ hấp dẫn và thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài.
V. Xu hướng vận động của FDI :
- Hầu hết FDI được thực hiện trong những khu vực có tương đối nhiều vốn của thế giới ( trong khối OECD ). Như vậy dòng FDI lạI không chảy từ nơI nhiều vốn sang nơI hiếm vốn mà lạI chảy chủ yếu trong khu vực các nước 0công nghiệp phát triển. Vì mục đích của đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận nên tiền vốn chỉ chảy đến nơI nào có khả năng làm cho đồng tiền sinh sôI nảy nở thêm chứ không chảy đến nơI làm cho chúng cạn kiệt đi. Vì thế, các nước công nghiệp phát triển ( thuộc khối OECD ) là nơI có môI trường đầu tư tốt, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, quay vòng nhanh và ít rủi ro. Những nước nghèo, tuy thiếu vốn nhưng lạI sử dụng vốn kém hiệu quả, kinh doanh nhỏ, manh mún khó chen chân vào thị trường thế giới. Bỏ vốn vào các nước này, rủi ro lớn nên kém hấp dẫn. Vì vậy nếu ở đầu thế kỷ, trên 70% vốn đầu tư đổ vào các nước chậm và đang phát triển, thì sau chiến tranh thế giới thứ 2 khu vực Tây Âu là nơI thu hút nhiều vốn đầu tư nhất. Ngày nay 80% tổng vốn FDI hướng vào các nước tư bản phát triển. Hiện nay, Mỹ trở thành nước nhập khẩu tư bản lớn nhất thế giới và Mỹ cũng trở thành con nợ lớn nhất thế giới, tính đến cuối năm 1991 nợ nước ngoàI của Mỹ lên đến 670 tỷ USD.
- FDI chủ yếu được thực hiện trong nộ bộ khu vực. Do những ưu thế về khoảng cách địa lý vầ các diều kiện tương đồng, nên FDI chủ yếu được thực hiện giữa các nước trong cùng khu vực. Chẳng hạn, các nước NICs là các chủ đầu tư lớn ở các nước trong khu vực Châu á - TháI Bình Dương, nhất là vùng Đông Nam á.
- Có sự thay đổi lớn trong trong tương quan lực lượng giữa các nước chủ đầu tư quốc tế. Nếu ở đầu thế kỷ 20 Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Hà Lan là những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu vốn ra nước ngoàI thì đến giữa thế kỷ, Mỹ nhảy lên đứng đầu thế giới về khối lượng tư bản đầu tư ra nước ngoàI, sau đó đến Anh và Pháp. Còn từ thập niên 70 trở về đây Nhật Bản, CHLB Đức vươn lên vượt qua Anh, Pháp trong lĩnh vực xuất khẩu vốn đầu tư và đe doạ vị trí số 1 của Mỹ. Đến thập kỷ 90 Nhật Bản đã vượt lên chiếm vị trí hàng đầu sau đó đến Pháp và đẩy Mỹ xuống hàng thứ 3 trong xuất khẩu FDI cả về khối lượng lẫn tỷ trọng.
Trong những năm gần đây, trong hàng ngũ các chủ đầu tư của thế giới đã xuất hiện một số nước đang phát triển có tốc độ đâù tư ra ngoài khá cao. Tuy rằng, lượng FDI của các chủ mới này chỉ chiếm khoảng 2% tổng số vố đầu tư quốc tế nhưng nó đạI diện cho xu thế đI lên. Nổi bật trong số đó là các nước NICs ở Châu á.
- Lĩnh vực đầu tư cũng có những thay đổi sâu sắc. ở đầu thế kỷ, các nước đầu tư ra ngoài thường hướng vào các lĩnh vực truyền thống như khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển nông nghiệp và một số ngành chế biến nông sản – chủ yếu là hướng vào các ngành cần nhiều lao động để khai thác nhân công rẻ và nguồn tàI nguyên thiên nhiên ở các nước này. Ngày nay, lĩnh vực đầu tư đã có những thay đổi sâu sắc. Các chủ đầu tư thường tập trung vào lĩnh vực dịch vụ chủ yếu là thương mạI và tàI chính. Số còn lạI của tư bản xuất khẩu chủ yếu tập trung vào các ngành có hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao như nghành đIện tử, chế tạo ô tô… Riêng đối với các nước chậm phát triển, các chủ đầu tư thường hướng vào:
+ Các dự án vừa và nhỏ, những ngành nhanh thu hồi vốn để giảm tới mức tối đa sự rủi ro.
+ Các dự án cho phép lợi dụng triệt để các điều kiện ưu đãI mà các nước tiếp nhận đầu tư dành cho họ
+ Các ngành khai thác tàI nguyên chiến lược như quặng sắt, than, dầu mỏ…
+ Các ngành có thị trường tiêu thụ ngay tạI nước sở tại.
+ Các ngành sử dụng nhiều nhân công và khó cơ giới hoá.
- Đông á và Đông Nam á trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoàI vì khu vực này nằm trong vùng kinh tế phát triển năng động nhất thế giới trong những năm gần đây. Mặt khác, khu vực này có nhiều hấp dẫn với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, môI trường đầu tư ngày càng được cảI thiện và so với các nước phát triển thì khu vực này có mức độ cạnh tranh thấp hơn.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoàI của các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 1988- 2001:
I. Khái quát chung về ASEAN và quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN:
1 . Khái quát về hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ( viết tắt là ASEAN).
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á -ASEAN thành lập tại Bangkok năm 1967 gồm 6 nước thành viên: Brunây, Indonêxia, Malayxia, Philipin, Singapo và Thái Lan với mục tiêu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá trong khu vực, tăng cường sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau về hoà bình và ổn định khu vực. Ngày 28 tháng 7 năm 1995 Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên chính thức của ASEAN. Mới đây tháng 4 năm 1999 tại Hà Nội đã tổ chức kết nạp Vương quốc Campuchia làm thành viên đầy đủ của ASEAN, hoàn thành ý tưởng về một ASEAN gồm tất cả 10 quốc gia khu vực.
Khu vực ASEAN được coi là khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao và duy trì trong một thời gian dài. Tỷ trọng của ASEAN trong GDP thế giới đã tăng từ 2,4 % vào năm 1970 lên trên 5 % năm 1995 và đạt 5,7 % năm 2000. Vị trí của ASEAN trong thương mại quốc tế tăng liên tục: từ 1,8 % trong xuất khẩu và 2,2 % trong nhập khẩu của thế giới tăng lên tương ứng 6,1 % và 4 % năm 1995 và năm 2000 là 8 % trong xuất khẩu và 6 % trong nhập khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá và phát triển kinh tế của ASEAN. Năm 1979, chỉ có 4 % đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước phát triển là chảy vào các nước ASEAN. Con số này đã tăng lên 10,9 % năm 1980, 22,8 % năm 1995 và 26,6 % năm 2000.
Tuy nhiên, sau hai năm cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra, nền kinh tế ASEAN suy thoái trầm trọng. Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng phát triển Châu á ( ADB ), tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của ASEAN năm 1998 là -6,9 %, mức thấp nhất trong 30 năm qua. Đặc biệt, điều nghịch lý xảy ra đối với nhóm các nước ASEAN vốn trước đây được coi là những nền kinh tế năng động nhất lại chính là những nước có tốc độ tăng trưởng thấp nhất hiện nay. Chỉ xét riêng năm 1998, tốc độ tăng trưởng của Inđônêxia là -15,3 %, Thái Lan là -0,8 %, Xingapo và Philipin là -0,2 %. Tiếp đến là những thành viên khác, tuy không rơi vào tình trạng tồi tệ nhưng so với năm 1997, tốc độ tăng trưởng cũng giảm sút đáng kế như Myanma là 6 %, Brunây là 4,5 % và Lào là 6,9 % và Việt nam là 6,5 %. Sự giảm sút về tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN liên quan đến sự giảm sút của các chỉ số kinh tế cơ bản khác. Sang năm 1999, kinh tế ASEAN đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu phục hồi dù vẫn còn mờ nhạt. Tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan năm 1999 sẽ ở mức -0,2 %, Philipin là 2,6%, Malayxia là -0,1 %, Xingapo là 1,9 %, Inđônênxia là -5 %. Tỷ lệ lạm phát ở Inđônêxia sẽ giảm từ 70 % xuống 15 %, TỡƠÁ 7 ð¿ ừ bjbjUU ˜ 7| 7| ” ` ÿÿ ÿÿ ÿÿ l X X X X °
: : : : $ ỡƠÁ 7 ð¿ ừ bjbjUU ˜ 7| 7| ” ` ÿÿ ÿÿ ÿÿ l X X X X °
: : : : $ ợc nâng lên cao hơn. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với ASEAN, nếu năm 1990 mới đạt 871,5 triệu USD thì năm 1996 đã lên tới 4651,1 triệu USD bằng 533,7 % tức là bình quân mỗi năm tăng 32,2 %. Về xuất khẩu, tổng kim ngạch của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới được 339,4 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 1677,7 triệu USD bằng 494,3 % tức là bình quân mỗi năm tăng 30,5 %. Về nhập khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam vào ASEAN nếu năm 1990 mới đạt 532,1 triệu USD thì đến năm 1996 đã đạt 2973,4 triệu USD bằng 558,8 %, bình quân mỗi năm tăng 33,2 %. Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam với khối lượng lớn và chiếm tỷ trọng khá so với tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nước ta. Tính hết năm 1997, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam 376 dự án, với tổng vốn đăng ký là 8687,3 triệu USD, chiếm 16,4 % tổng số dự án và 27,5 % tổng số vốn đăng ký đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Bình quân vốn đăng ký của một dự án là 23,1 triệu USD, cao gấp rưỡi mức bình quân chung 14,2 triệu USD. ASEAN có 5 nước nằm trong danh sách 20 nước và khu vực trên thế giới có qui mô đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Việt Nam, trong đó Singapo là nước đứng đầu cả khối và đứng đầu thế giới. Như vậy ASEAN là bạn hàng lớn và là chủ đầu tư quan trọng của Việt Nam, góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng khá cao của Việt Nam trong thời gian qua. Cho dù cuộc khủng hoảng đã gây nhiều tác hại song nó sẽ dịu đi, các nước ASEAN sẽ phục hồi và tăng trưởng với nhịp độ không còn như trước nhưng sẽ bền vững hơn.
3. Khu vực AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA được các nước ASEAN thoả thuận thành lập tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư ( 1992) ở Singapo. AFTA có ba mục tiêu chủ yếu như sau:
+ Thực hiện tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong nội bộ khu vực.
+ Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN bằng việc tạo dựng ASEAN thành một thị trường thống nhất và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
+ Làm cho ASEAN thích ứng với các xu hướng và các điều kiện quốc tế thường xuyên biến đổi.
Tham gia AFTA, các nước thành viên sẽ có hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao hơn, khả năng thâm nhập sâu hơn vào thị trường thế giới. Mặt khác, liên kết kinh tế khu vực sẽ làm tăng đầu tư nội bộ các nước ASEAN cũng như đầu tư nước ngoài vào khu vực. Mức độ hấp dẫn đối với đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên, các chi nhánh hiện có của họ trong khu vực sẽ có cơ hội bành trướng nhanh chóng sang các thành viên khác.
II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN vào Việt Nam giai đoạn 1988 - 2001:
1. Giai đoạn 1988-1995(Trước khi Việt nam gia nhập vào ASEAN):
Vào những năm 80 quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN mới được thiết lập trở lại chủ yếu là quan hệ thương mại. Sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1997, các nước ASEAN mới tham gia đầu tư tuy còn dè dặt. Trừ Singapo và Malayxia, các nước còn lại tham gia vào những lĩnh vực chưa phải là những lĩnh vực được ưu tiên. Các dự án thường nhỏ cả về qui mô và chậm về tiến độ.
Với việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/1987, dòng vốn đầu tư quốc tế từ nhiều khu vực, dưới nhiều hình thức đã chảy mạnh vào thị trường Việt Nam. Điều đó dẫn đến việc Việt Nam trở thành một thị trường đầu tư hấp dẫn cả về qui mô cả về lợi thế so sánh khác như lao động và tài nguyên...
Nhiều quốc gia ASEAN đã có vị trí đáng kể trong số 10 quốc gia và lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Tính đến tháng 1/1995, Singapo đứng vào hàng thứ ba và là quốc gia ASEAN có tổng dự án và vốn lớn nhất trong đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Việt Nam. Các nhà đầu tư Singapo có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, 29 dự án công nghiệp, 1 dự án thăm dò, khai thác dầu khí, 11 dự án nông - lâm - ngư, 14 dự án xây dựng khách sạn, 8 dự án giao thông, bưu điện, còn lại là các lĩnh vực khác. Singapo chủ yếu đầu tư vào một số địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Sông Bé, số còn lại triển khai trên 18 tỉnh, thành khác. Ngoài 6 dự án giải thể do hoạt động không có hiệu quả, còn lại 98 dự án với số vốn đăng ký 1,37 tỷ USD, chủ yếu là hình thức liên doanh 84 %, hình thức đầu tư 100 % vốn nước ngoài chiếm 10 %, còn lại là hình thức hợp doanh 6 %. Gần 60 dự án triển khai, đưa 180 triệu USD vào thực hiện, chiếm 12 % tổn vốn đăng ký, tạo việc làm cho 7 ngàn lao động. Các dự án của Singapo có tỷ suất bình quân xấp xỉ 14,5 triệu USD cho một dự án, số dự án đã cấp giấy phép có vốn đầu tư lớn tăng dần theo từng năm. Nếu năm 1990 và 1991chỉ có hai dự án lớn ở thành phố Hồ Chí Minh thì từ năm 1992 đến tháng 6/1995, số dự án đã tăng theo cấp số nhân, chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê và sân golf. Có thể kể ra như: Khách sạn Chains Caravelle vốn đầu tư 23,3 triệu USD, khách sạn Amara Saigon vốn đầu tư 30,11 triệu USD, liên doanh Đại Dương vồn đầu tư 45 triệu USD, trung tâm Mê Linh vốn đầu tư 35,72 triệu USD. Tại Hà Nội xuất hiện nhiều dự án có vốn đầu tư lớn như: Tháp trung tâm Hà Nội - HASIN International - vốn đầu tư 33,2 triệu USD, khách sạn và căn hộ cho thuê tại số 3 phố Phó Đức Chính vốn đầu tư xấp xỉ 50 triệu USD, Trấn Sông Hồng vốn đầu tư 25 triệu USD, vườn Hoàng gia - Quảng Bá vốn đầu tư trên 50 triệu USD. Số dự án trên khi đi vào hoạt động sẽ không chỉ góp phần làm thay đổi bộ mặt của riêng từng thành phố, mà còn góp phần cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong 5 tháng đầu năm 1995 số dự án và vốn đầu tư được cấp giấy phép tăng gấp đôi so với 6 tháng đầu năm 1994. Các công trình của Singapo đầu tư hầu hết vào các lĩnh vực của nền kinh tế Việt nam nhưng lớn nhất là vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn, nhà ở và văn phòng cho thuê. Riêng lĩnh vực này có 33 dự án với tổng vốn đầu tư 965 triệu USD, chiếm 27 % tổng số dự án và 51 % tổng vốn đầu tư của Singapo tại Việt Nam. Nhìn chung các dự án đầu tư của Singapo vào lĩnh vực khách sạn - du lịch đều triển khai khá nhanh và có hiệu quả. Tuy nhiên cũng có một số dự án còn vướng mắc trong khâu thủ tục như liên doanh Phú Thọ Enterprise ( Thành phố Hồ Chí Minh ) hoặc tiến độ triển khai chậm như dự án Trấn Sông Hồng.
Malayxia là nước đứng thứ hai trong khối ASEAN đầu tư vào Việt nam với 43 dự án vốn đăng ký là 607,23 triệu USD. Họ chú trọng đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế Việt nam với 23 dự án ( chiếm 53 % so vơi tổng số dự án được cấp giấy phép ) Malayxia chỉ có 5 dự án đầu tư khách sạn với số vốn đăng ký trên 108 triệu USD, 5 dự án trong nông nghiệp với vốn đăng ký trên 6 triệu USD còn lại là các dự án trong ngành dịch vụ, giao thông, bưu điện ... Vốn đầu tư của Malayxia chủ yếu đầu tư vào tỉnh Đồng Nai, trên 256 triệu USD với 6 dự án. Nhìn chung các dự án hoạt động đều tốt, số dự án đi vào sản xuất kinh doanh đã có doanh thu 15 triệu USD đem lại công việc cho gần 900 lao động.
Thái Lan có 64 dự án, vốn đăng ký xấp xỉ 300 triệu USD. Các dự án của Thái Lan đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Nhìn chung các dự án này có vốn đầu tư nhỏ, suất đầu tư bình quân cho một dự án là 4 triệu USD, chỉ có một vài dự án có vốn đầu tư lớn như sân golf Kings Valley tại Hà Tây vốn đầu tư 21,875 triệu USD, khách sạn SAS tại Hà Nội vốn đầu tư 42,75 triệu USD. Không kể một số dự án nuôi tôm hết thời hạn hoạt động không có hiệu quả đã bị thu hồi giấy phép trước thời hạn, chiếm tỷ lệ 25 % chủ yếu trong lĩnh vực khai thác, chế biến hải sản. So với cùng kỳ năm 1994, 5 tháng đầu năm 1995 số dự án của Thái Lan bị giảm hơn 50 %, vốn đầu tư giảm gần 78 %. Các dự án đi vào sản xuất đã đem lại doanh thu là 25 triệu USD, tạo việc làm cho1600 lao động.
Inđônêxia là nước đứng thứ tư trong các nước ASEAN đầu tư tại Việt Nam. Trong 9 dự án đang hoạt động tính đến thời điểm tháng 5/1995, trong lĩnh vực công nghiệp có 3 dự án, 2 dự án chế biến gỗ và trồng hoa, còn lại là 4 dự án xây dựng khách sạn, dịch vụ, giao thông vận tải và ngân hàng. Nhìn chung các dự án triển khai “ trục trặc “ do nhiều nguyên nhân như thay đổi cơ chế xuất khẩu gỗ làm dự án chế biến gỗ tại Đắc Lắc ngừng hoạt động. Trong tổng vốn đăng ký 112 triệu USD, Inđônêxia đã đưa vào 25 triệu USD chiếm khoảng 22%, tạo việc làm cho 300 lao động.
Philipin là nước đứng cuối trong số các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam, đã có 13 dự án với vốn đầu tư 74 triệu USD được cấp giấy phép. Chỉ có 2 dự án có vốn đầu tư lớn là liên doanh sản xuất ôtô Hoà Bình 33 triệu USD và dự án United Pharma 7,5 triệu USD. Số dự án còn lại có số vố đầu tư nhỏ, chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp.
Hầu hết các quốc gia đều đã ký với Việt Nam các hiệp định về xóa bỏ sự cấm đoán về đầu tư vào Việt Nam, hiệp định tránh đánh thuế hai lần và hiệp định bảo hộ đầu tư...Tuy nhiên phần lớn các dự án đầu tư của họ đều tập trung vào các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến nông - lâm hải sản, khách sạn và du lịch ... vì mục đích khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có và lao động rẻ của Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN sang các nước kém phát triển hơn theo logic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu. Các nước ASEAN dù là nền kinh tế hàng đầu trong khu vực như Singapo vẫn không thể vượt trội hơn các đối thủ có nhiều điểm tương đồng của “ công nghệ á Đông “ ở từng nấc phát triển cao hơn như Nhật Bản, NIES Đông á. Trong điều kiện quốc tế cho phép thực hiện “ mô hình phát triển rút ngắn “, Việt Nam không thể chỉ tiếp nhận các công nghệ trung bình mà Việt Nam còn tiếp nhận những công nghệ tiên tiến mà các quốc gia ASEAN chưa có hoặc chưa đủ mạnh. Do đó, tuy có vị trí đáng kể trong cơ cấu đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam các quốc gia ASEAN thời kỳ này vẫn phải nhường chỗ cho các nhà đầu tư Châu Âu, Nhật Bản ...
Nhìn chung đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ nay vẫn mang tính chất tiếp cận, thăm dò hợp theo khả năng vốn có hơn là việc hoạch định các chiến lược đầu tư lớn, cụ thể và mang tính dài hạn.
2. Giai đoạn 1995- 2001 ( Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN):
Nếu tính đến đầu năm 1990, các nước ASEAN mới đầu tư được hơn 16 dự án với số vốn 35 triệu USD, thì sang năm 1991 đã tăng được 28 dự án với số vốn 186 triệu USD.Tính đến tháng 2 năm 1992 số dự án đã tăng lên gấp hai lần so với năm 1991 và đạt tổng số vốn 218 triệu USD. Trong hai năm tiếp theo số dự án và số vốn đầu tư của các nước ASEAN vẫn tiếp tục tăng lên với 147 dự án với tổng vốn đầu tư 1260 triệu USD đến cuối tháng 4 năm 1994.
Nhưng chỉ sau khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội ASEAN năm 1995, đầu tư trực tiếp của các nước này vào Việt Nam đã tăng vọt lên tới 244 dự án với số vốn đầu tư 3265 triệu USD vào đầu năm 1996, chiếm 14% tổng số dự án và 17,9 % tổng FDI của cả nước. Đến cuối năm 1996 các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt nam 292 dự án với tổng vốn đầu tư 4666 triệu USD. Đến tháng 04 năm 2000 đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN đã lên tới 417 dự án với vốn đầu tư 9,33 tỉ USD, tăng gấp 3,2 lần so với thời điẻm trước khi gia nhập ASEAN.
Sau đây là tổng số dự án đầu tư đang hoạt động tại việt Nam ( tính từ 1/1/1989 đến 2001 ).
( Đơn vị: triệu USD)
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Khối lượng
35
186
218
3100
1260
4668
8630
9517
Thiếu
9500
9330
Số dự án
16
28
56
Thiếu
147
292
362
377
396
422
457
Nguồn: Bộ kế hoạch va Đầu tư, thang 10/1998 và Vietnam Investment Riview, N0 448(2000). Báo Đầu tư 12/2001
+ Singapo hiện vẫn đang là nước dẫn đầu về số dự án đầu tư: 235 dự án, và cũng dẫn đầu về khối lượng vốn đầu tư. Từ khi bãi bỏ lệnh cấm đầu tư vào Việt nam từ năm 1991 đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt nam đã tăng lên nhanh chóng. Chỉ sau đó hai năm Singapore đã đứng vào hàng ngũ 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam với tổng số vốn lên tới 225,3 triệu USD.
Năm 1998 , vốn đầu tư của Singapore đã 6.4 tỉ USD và trở thành nước dẫn đầu trong số các quốc gia đầu tư vào Viêt nam.
Singapore tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, chế xuất nông - lâm sản, khách sạn và du lịch, đặc biệt từ năm 1996 trở lại đây các dự án của Singapo đã đầu tư vào lĩnh vực máy tính, hàng điện tử, sản xuất ôtô và linh kiện phụ tùng ôtô.
+. Malayxia là nước đứng thứ 3 trong năm nước ASEAN đâù tư trực tiếp vào Việt nam với 70 dự án.
Hiện có 2 dự án lớn nhất trong số 14 dự án có vốn đầu tư 100 % vốn nước ngoài đó là dự án Hualon Corporation Việt Nam, kéo sợi, dệt và nhuộm vải Đồng Nai với số vốn đầu tư 428 triệu USD, hiện nay đã góp vốn 20 % và đã có doanh thu từ cuối năm 1996, tiếp đến là dự án sản xuất dây điện và cáp điện thông tin với số vốn đầu tư 93,8 triệu USD, 4 dự án đã có doanh thu, đạt hiệu quả cao, 8 dự án còn lại tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến hải sản, thực phẩm ...
Trong 37 dự án liên doanh đã có 14 dự án đi vào sỡ bjbjUU ˜ 7| 7| ” ` ÿÿ ÿÿ ÿÿ l X X X X °
: : : : $ ỡƠÁ 7 ð¿ ừ bjbjUU ˜ 7| 7| ” ` ÿÿ ÿÿ ÿÿ l X X X X °
: : : : $ quả còn lại 11 dự án tập trung vào chăn nuôi, cây trồng, chế biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, lắp ráp hàng điện tử, máy tính ... 13 dự án với số vốn nhỏ hơn 5 triệu USD tập trung vào chế biến hoa quả, chế tác kim loại và trồng hoa xuất khẩu...
Trong 45 dự án liên doanh, 19 dự án có số vốn đầu tư trên 5 triệu USD, các dự án này tập trung vào khai thác dầu khí, khai thác vàng và chế tác đá quí, số dự án còn lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, khách sạn ( 60 % dự án).
3 dự án hợp doanh tập trung vào sản xuất giống ngô lai, băng hình và sản phẩm điện cơ với tổng số vốn của 3 dự án là 2,17 triệu USD.
+ Philipin.
Hiện có 8 dự án đầu tư 100 % vốn nước ngoài, trong đó 3/8 dự án tập trung vào chế biến hàng thủ công mỹ nghệ và sản xuất mây tre đan với tổng vốn đầu tư 9,425 triệu USD. Một dự án 7,5 triệu USD đầu tư cho ngành dược tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong 8 Dự án này có tới 6/8 dự án được thực hiện tại Khánh hoà và thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có một dự án về thiết bị giặt được thực hiện tại Hà nội.
Dự án liên doanh hiện có 8 dự án trong đó có 3 dự án có vốn đầu tư trên 50 triệu USD là dự án sản xuất ôtô Hoà bình với số vốn đâù tư 580 triệu USD, dự án khách sạn đại lộ Kim liên - Hà Nội - với số vốn đầu tư 71,9 triệu USD, dự án chế biến đường ở Ninh bình với số vốn đầu tư 60 triệu USD, 40 % dự án còn lại tập trung vào du lịch - khách sạn và chế biến thực phẩm.
+ Inđônêxia có tổng số 13 dự án.
Trong đó có 4 dự án 100 % vốn nước ngoài. Dự án lớn nhất với số vốn 52,6 triệu USD đầu tư sản xuất phim Fuji và máy ảnh.
Trong 8 dự án liên doanh có 2 dự án có số vốn trên 50 triệu USD là liên doanh Hotel Horison và dự án xí nghiệp liên hợp thực phẩm Vũng tàu. 3/8 dự án thuộc dự án liên doanh đầu tư vào sản xuất, còn lại tập trung vào vận chuyển tầu biển và vận chuyển hành khách, dịch vụ ngân hàng và khách sạn.
Một dự án hợp doanh với số vốn đầu tư 27 triệu USD ở Quảng Ninh về khai thác than.
+ Brunây có 1 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn 10 triệu USD, đứng cuối cùng trong các nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100067.doc