Đề tài Phân tích và Đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam

 Đầu tư vào chứng khoán là nhằm trước hết vào mục tiêu lợi nhuận đầu tư ( cổ tức và trái tức). Trái tức thường là cố định trong khi cổ tức thường không cố định. Năm nay doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì cổ tức nhận được nhiều ngược lại thì ít, thậm chí là bằng không. Tuy nhiên, người đầu tư vào cổ phiếu phải đề ra mục tiêu thu cổ tức là bao nhiêu. Mục tiêu này có thể là thấp hoặc cao hơn thực tế, nhưng it ra nó phải được coi là trung bình trong thời gian đầu tư. Một loạt câu hỏi đề ra là trong tình trạng nền kinh tế như thế nào thì cổ tức là thấp nhất, cao nhât, trung bình. Độ ngờ này có thể định nghĩa và đo lường bằng sự phân phối xác suất xảy ra trong từng tình trạng nền kinh tế.

 

doc62 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và Đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế chính trị trên toàn thế giới sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến số tài sản chứng khoán mà bạn đang nắm giữ 3.2.1.2. Nền kinh tế vĩ mô nội địa. Nền kinh tế vĩ mô nội địa là môi trường cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động. Như vậy, bước đầu tiên để dự báo vận động của thị trường là đánh giá tình trạng của nền kinh tế nói chung thông qua một số chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. ● Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tổng sản phẩm quốc nội là chỉ tiêu đo lường tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. GDP tăng trưởng nhanh phản ánh nền kinh tế đang phát triển với nhiều cơ hội để doanh nghiệp có thể lợi dụng để tăng doanh thu. Một chỉ tiêu thông dụng khác cũng phản ánh sức mạnh của nền kinh tế là chỉ tiêu sản lượng công nghiệp. Chỉ tiêu này chủ yếu đo lường khía cạnh sản xuất công nghiệp của nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp. Là tỷ lệ người lao động trong tổng lực lượng lao động chưa tìm được việc làm.Tỷ lệ thất nghiệp đo lường công suất hoạt động của nền kinh tế.Tuy là một yếu tố chỉ liên quan đến công nhân, nhưng người ta có thể thông qua các tỷ lệ sử dụng các yếu tố sản xuất khác để tìm hiểu sâu sắc hơn sức mạnh của nền kinh tế. ●.Tỷ lệ lạm phát. Là tỷ lệ tăng của mức giá chung,tỷ lệ lạm phát cao thường gắn liền với nền kinh tế “ nóng bỏng”, tức là nền kinh tế mà cầu về sản phẩm và dịch vụ đang vượt xa năng lực sản xuất, dẫn đến sức ép về giá, khi nến kinh tế xảy ra lạm phát mọi cơ hội đầu tư đều giảm tính hấp dẫn và do đó xu hướng đầu tư sẽ giảm xuống. ● Thâm thủng ngân sách. Thâm thủng ngân sách của chính phủ là chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu của chính phủ. Khi thu nhập nhỏ hơn chi tiêu thì xảy ra thiếu hụt ngân sách và mọi khoản thiếu hụt ngân sách đêù phải bù đắp bằng đi vay. Những khoản vay lớn của chính phủ có thể khiến lãi suất tăng và do đó làm giảm tính hấp dẫn của các khoản đầu tư. 3.2.1.3. Lãi suất. Lãi suất có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư. Quyết định của bàn chủ yếu phụ thuộc vào quan điểm của bàn đối với lãi suất. Nếu bạn nghĩ rằng lãi suất sẽ giảm, bạn sẽ chốt lại ở mức lãi suất hiện hành bằng cánh đầu tư vào tài khoản tiền gửi có kỳ hạn tương đối dài, hoặc đầu tư vào chứng khoán ngược lại , nếu bạn nghĩ rằng lãi suất sẽ tăng đến một mức nào đó thì bạn lại thay đổi hướng đầu tư từ chứng khoán vào gửi tiết kiệm. Quá trình dự báo lãi suất là một trong những yêu cầu thực hành khó nhất của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thức được các yếu tố cơ bản quyết định đến mức lãi suất là: -Nguồn gửi tiết kiệm của các hộ gia đình. -Nhu cầu vốn để đầu tư vật chất của các doanh nghiệp. -Cung hoặc cầu vốn của chính phủ theo sự điều chỉnh bằng hành động của Ngân hàng. Để có thể nghiên cứu kỹ hơn về các áp lực lãi suất, chúng ta cần phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa. 1 Lãi xuất thực và lãi suất danh nghĩa. Giả sử một năm trước đây ban gửi tiết kiệm 10 triệu đồng, kỳ hạn 1 năm, với lãi suất 10% , như vậy lúc này bạn sẽ thu được 11 triệu đồng. Điều này có thực là bạn lãi 1 triệu đồng hay không? Điều đó phụ thuộc vào những gì bạn có thể mua bằng số tiền đó, so với số tiền đáng lẽ bạn mua được vào năm trước với số tiền đem gửi. Bây giờ chúng ta giả sử tỷ lệ lạm phát của năm ngoái là 6%. Điều này có nghĩa là sức mua của tiền bị giảm 6%/ năm theo nghĩa số hàng hoá mà nó có thể mua được. Do đó một phần tiền lãi được dùng để bù trừ cho sự giảm sút về sức mua của đồng tiền hiện hành. Với lãi suất 10%, sau khi đã trừ đi 6% giảm sức mua đông tiền, còn tỷ lệ tăng thuần về sức mua khoảng 4%. Như vậy chúng ta hiểu lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ tăng trưởng của lượng tiền của bạn; lãi suất thực là tỷ lệ tăng trưởng sức mua của lượng tiền bạn thu được. Nếu gọi R là lãi suất danh nghĩa, r là lãi suất thực, và i là tỷ lệ lạm phát thì chúng ta có: r ~R –i . Nghĩa là lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi phần thiết hại của sức mua do lạm phát. Lãi suất thực là yếu tố tối quan trong trong việc đưa ra quyết định đầu tư vào chứng khoán hay đem tiền vào gửi tiêt kiệm để hưởng lãi. 3.2.1.4. Chính sách của Chính Phủ. Chính Phủ có hai loại công cụ để điều tiết kinh tế vĩ mô nhằm tác động đến cung ,cầu hàng hoá; đó là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính. Chính sách tài chính liên quan đến chi tiêu của chính phủ và các chính sách thuế nhằm mục đích ổn định nền kinh tế. Nguồn thu của Ngân sách chủ yếu là các nguồn thu từ thuế, băng các chính sách tăng thuế hoặc giảm thuế , Chính Phủ có thể tác động nhu cầu tiêu dùng của người dân. Chẳng hạn khi Chính Phủ quyết định tăng thuế, ngay lập tức nó sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của người tiêu dùng và dẫn đến sự thụt giảm tiêu dùng tương đối nhanh. Khi Chính Phủ tăng thuế nhập khẩu đông nghĩa với việc tạo ra một hành lang bảo vệ tạo điều kiện cho hàng quốc nội phát triển. Tuy nhiên, dù chính sách tài chính có ảnh hưởng tức thời đến nền kinh tế, việc hình thành và thực thi chính sách này thường chậm và khó khăn, vì chính sách tài chính đòi hỏi phải có những cuộc thoả hiệp lớn giữa các bên hành pháp và lập pháp. Thuế và chính sách chi tiêu phải do Quốc Hội đưa ra và bỏ phiếu thông qua, điều này đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Do vậy, dù ảnh hưởng của chính sách tài chính tương đối nhanh, quá trình hình thành nó rất phức tạp đến nỗi chính sách tài chính trên thực tế nhiều trường hợp không thể điều chỉnh được.Ngoài ra, đa số các khoản chi tiêu của Chính Phủ như bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm xã hội là bắt buộc, nghĩa là được xác định theo công thức lớn hơn là theo chính sách và không thể thay đổi theo các điều kiện kinh tế. Chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ liên quan đến việc huy động các nguồn cung tiền tệ để tác động vào nền kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ có tác đông đến lãi suất. Tăng cung tiền tệ làm hạ lãi suất ngắn hạn dẫn đến khuyến khích đầu tư và kích thích tiêu dùng. Tuy nhiên với những thời kỳ dài hơn, hầu hết các nhà kinh tế học đều cho rằng cung ứng tiền nhiều hơn sẽ chỉ dẫn tới giá cao hơn ( lạm phat) và không có tác dụng thường xuyên đến nền kinh tế. Chính sách tiền tệ mở rộng rõ ràng sẽ làm hạ lãi suất và một số nhu cầu tiêu dùng trong ngắn hạn nhưng nếu kéo dài sẽ dẫn tới lạm phát. Chính sách tài chính tuy thực hiện phức tạp, nhưng có tác đông tương đối trực tiếp đến nền kinh tế, trong khi chính sách tiền tệ được hình thành và thực thi dễ dàng, song lại có ít những tác động trực tiếp. Chính sách tiền tệ hoạt động thông qua tác động của nó đến lãi suất, tăng cung ứng tiền làm hạ lãi suất, điều này kích thích nhu cầu đầu tư. Khi số lượng tiền trong nền kinh tế tăng, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy danh mục đầu tư vào các tài sản tài chính của họ mất quá nhiều tiền, họ sẽ lập lại cân bằng nay bằng cách mua các loại chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu làm cho giá chứng khoán tăng lên và lãi suất hạ xuống. Về lâu dài, các cá nhân cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu rồi cuối cùng mua các tài sản vật chất, điều này kích thích nhu cầu tiêu dùng trực tiếp. Tuy nhiên kết quả cuối cùng của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá là tương đối khác nhau. Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính là những công cụ nhắm vào nhu cầu bằng cách kích thích tổng cầu với hàng hoá và dịch vụ. Nền kinh tế không thể tự nó đạt đến điểm cân bằng, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ hướng chúng đến mục tiêu đó. Ngược lại, các chính sách nhắm vào cung tạo ra một môi trường mà trong đó công nhân và chủ sở hữu vốn đều có động cơ và khả năng cao nhất để sản xuất và phát triển hàng hoá. 3.2.1.5.Chu kỳ kinh doanh. Chúng ta đã nghiên cứu các công cụ mà Chính phủ sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế, mặc dù vậy nền kinh tế vẫn trải qua những thời kỳ tốt và xấu theo chu kỳ. Nền kinh tế phải trải qua những thời kỳ mở rộng và thu hẹp, mặc dù mức độ của các chu kỳ này có thể khác nhau. Mô hình lặp lại của quá trình suy thoái và hồi phục này được gọi là chu kỳ kinh doanh. Những điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ được gọi là các cao điểm và thấp điểm. Vì nền kịnh tế phải trải qua những giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh doanh nên kết quả tương ứng của các nhóm ngành khác nhau cũng được dự kiến sẽ có biến động. ở thấp điểm,ngay trước khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục từ quá trình suy thoái, người ta có thể dự đoán được những ngành có tính chu kỳ, những ngành có tính nhạy cảm cao hơn sẽ có khuynh hướng phát triển mạnh hơn các nghành khác. Thí dụ về các nghành công nghiệp có tính chu kỳlà các ngành sản suất hàng hoá lâu bền như xe hơi hay máy giặt. Vì việc mua sắm các loại hàng hoá này có thể hoãn lại trong thời kỳ nên kinh tế suy thoái, bởi vậy doanh thu của nó đặc biệt nhạy cảm với các biến động của nền kinh tế vĩ mô. Những ngành công nghiệp khác như ngành sản suất các tư liệu sản xuất, là các loại hàng hoá ,mà các ngành khác mua về để sản suất trong quá trình sản xuất sản phẩm chịu hậu quả nặng nề trong thời kỳ kinh tế suy thoái vì rất ít công ty mở rộng và phát triển trong thời kỳ suy thoái, song nó sẽ hoạt động mạnh trong thời kỳ nền kinh tế bắt đầu ở giai đoạn phát triển. Ngược lại với các ngành có tính chu kỳ, các ngành có tính phòng thủ rất ít nhạy cảm với các chu kỳ kinh doanh. Đó là những ngành sản xuất hàng hoá mà doanh số và lợi nhuận rất kém nhạy cảm đối với các tình trạng khác nhau của nền kinh tế. Các ngành có tính phòng thủ bao gồm các ngành công nghệ thực phẩm, thuốc và dịch vụ công cộng... Những ngành này sẽ hoạt động mạnh hơn so với các ngành khác khi nền kinh tế bước vào suy thoái. Việc phân loại các ngành theo tính chu kỳ và tính phong thủ phù hợp với khái niệm tính hệ thống hay rủi ro về thị trường trong nội dung về lý thuyết thị trường đã nói ở phần trước. Các xí nghiệp thuộc các ngành có tính chu kỳ thì cổ phiếu của nó có hệ số beta cao khi nền kinh tế tăng trưởng và thấp trong thời kỳ suy thoái. Ngược lại, các xí nghiệp có tính phòng thủ sẽ có hệ số beta thấp và hoạt động ít bị chi phối bởi các điều kiện thị trường. 3.1.2.6 Phân tích ngành. Chu kỳ sống của ngành. Phân tích ngành cũng có quan trọng như phân tích kinh tế vĩ mô, một doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành kinh tế đang gặp khó khăn sẽ khó hoạt động tốt cũng như một ngành khó hoạt động tốt trong điều kiện nền kinh tế suy sụp. Một nhà phân tích đã dự báo tình trạng của nền kinh tế vĩ mô thì cần thiết phải áp dụng dự báo đó cho các ngành kinh tế cụ thể, vì không phải mọi ngành kinh doanh đều có độ nhạy cảm như nhau đối với sự biến đổi vĩ mô của nền kinh tế. Chẳng hạn ngành thuốc lá, như đã nói ở trên bởi lẽ sự tiêu dùng thuốc lá là do thói quen và không chiếm một khoản ngân sách đáng kể, do đó không bị loại bỏ trong thời kỳ khó khăn. Ngược lại, ngành sản suất xe hơi rất nhạy cảm với sự thăng trầm của nền kinh tế, trong thời kỳ suy thoái, người tiêu dùng có thể cố kéo dài cuộc đời các xe hơi của họ đến khi thu nhập của họ cao hơn. Có 3 yếu tố để xác định độ nhạy cảm của một doanh nghiệp đối với nền kinh tế vĩ mô đó là độ nhạy cảm của doanh thu, thứ hai là đòn bẩy hoạt động của doanh nghiệp tức là sự phân bổ giữa định phí(chi phí cố định không thảy đổi theo các mức thay đổi của hoạt động sản suất) và biến phí( chi phí biến đổi theo sự thay đổi của các hoạt động sản xuất kinh doanh), yếu tố thứ 3 là đòn bẩy tái chính, là việc sử dụng vốn vay. Các khoản trả lãi vay luôn luôn phải trả dù doanh thu thế nào.Những khoản này cũng là các khoản định phí và cũng làm tăng tốc độ nhạy cảm của lợi nhuận trong các điều kiện kinh doanh khác nhau. Các nhà đầu tư không bao giờ ưa chuộng các ngành nhạy cảm thấp đối với chu kỳ kinh doanh. Ngoài ra, để có một quyết định đúng đắn khi đầu tư cổ phiếu, bạn cần phải biết về chu kỳ sông của ngành. ở một ngành chín muồi, các doanh nghiệp có cổ tức và dòng tiền tương đối ổn định, rủi ro thấp. Tỷ lệ tăng trưởng của ngành có thể tương đương với tỷ lệ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Cơ cấu và kết quả ngành. Qua trình phát triển của một ngành cũng bao gồm những thay đổi đều đặn trong môi trường cạnh tranh của 1 doanh nghiệp.Michael Porter đã làm rõ 5 yếu tố quyết định của cạnh tranh: Mối đe doạ xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh mới, sự cạnh tranh giữa các đối thủ hiện hữu, sức ép từ các sản phẩm thay thế, quyền lực của người mua và quyền lực của người cung cấp. Mối đe doạ xâm nhập Những doanh nghiệp mới xâm nhập vào một nghành gây sức ép đối với giá và lợi nhuận. Cả khi một doanh nghiệp chưa xâm nhập vào một ngành, khả năng xâm nhập của nó cũng gây sức ép đối với giá. Do đó, các hàng rào ngăn cản sự xâm nhập là yếu tố quyết định đến khả năng sinh lợi của ngành. Các hàng rào ngăn cản này có nhiều hình thức: kênh phân phối đảm bảo mối quan hệ lâu dài đối với khách hàng, lòng trung thành với nhãn hiệu hoặc quyền sở hữu bản quyền. Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện hữu. Khi có một số đối thủ cạnh tranh trong cùng một ngành thì ngành đó sẽ có giá cạnh tranh cao hơn và lợi nhuận biên thấp hơn vì các đối thủ luôn tìm cách mở rộng thị phần của mình. Cac doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm tương đối giông nhau cũng là đối tượng của sức ép về giá vì không tạo ra được sự khác biệt trong các sản phẩm cạnh tranh. Sức ép từ các sản phẩm thay thế. Khi xuất hiện các sản phẩm thay thế có nghĩa là ngành phải đối mặt với sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ở ngành liên quan. Thí dụ, doanh nghiệp sản xuất đường cạnh tranh với doanh nghiệp sản xuất Xiro ngũ cốc. Nha sản suất gỗ tự nhiên cạnh tranh với nhà sản xuất gỗ tổng hợp. Quyền lực người mua. Nếu người mua một khối lượng lớn sản phẩm của một doanh nghiệp thì có sức mạnh đáng kể và có thể yêu cầu giảm giá. Điều này làm giảm khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Quyền lực người bán. Nếu một nhà cung cấp một loại nguyên liệu chủ yếu có độc quyền kiểm soát đối với loại nguyên liệu đó thì có thể yêu cầu cung ứng giá cao hơn làm giảm lợi nhuận của ngành được cung cấp. Yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quyền lực của người bán là sự sẵn có của các sản phẩm thay thế. Nếu sản phẩm thay thế có sẵn nhà độc quyền không thể yêu cầu giá cao vì họ đã mất vị thế độc quyền. 3.2.2 Các nhân tố vi mô. 3..2.2.1 Tin xấu hay tin tốt. Trong nền kinh tế thị trường thông tin có ý nghĩa quan trọng không thể thiếu đối với bất kỳ một nhà đầu tư nào đặc biệt là trong thị trường chứng khoán. Như chúng ta đã biết nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là công bằng , công khai, giá cả của chứng khoán do cung và cầu trên thị trường chứng khoán quyết định. Bởi vây, môt tin tốt hay một tin xấu đều có tác động đến các nhà đầu tư và do đó tác động đến giá cả chứng khoán trên thị trường. Nếu có một thông tin tôt, chẳng hạn thông tin về lợi nhuận của một công ty sẽ tăng do ký được một hợp đồng với đối tác nước ngoài, khi đó các nhà đầu tư sẽ đổ xô mua cổ phiếu của công ty đó. Ngay lập tức hành động này có phản ứng lan truyền rộng làm cho các nhà đầu tư khác cũng đổ xô mua chứng khoán của công ty này. Kết quả là làm cho giá chứng khoán của công ty được tăng lên trên thị trường. Một số nhà đầu cơ khác khi thấy giá chứng khoán được tăng lên thì lập tức bán số chứng khoán này mà mình sở hữu, hành động này cũng xảy ra ở một số nhà đầu tư khác và đến một giới hạn nào đó thì gía chứng khoán lại giảm. Như vậy thông tin trong thị trường chứng khoán là yếu tố tác động trực tiếp đến giá cả chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Kêt quả của sự biến đổi giá này là làm cho một số nhà đầu tư thu được lợi nhuận và đương nhiên một số nhà đầu tư khác phải chịu lỗ. 3.2.2.2. Tìm kiếm sự đồng tình. Trên thị trường chứng khoán, phản ứng dây chuyền không chỉ xảy ra trong quá trình mua bán chứng khoán mà nó còn xảy ra giữa các ngành liên quan đến nhau. Chẳng hạn, khi ngành máy tính gia dụng phát triển thì các công ty liên quan đến thị trương này cũng phát triển hay khi thị trường gia cư phát triển thì kéo theo nó là sự phát triển của đồ gỗ, dụng cụ bếp v..v. Đó chính là sự đồng tình giữa các ngành. Khi một ngành phát triển thì sẽ kéo theo nó là sự phát triển của các ngành liên quan, đồng nghĩa với việc lợi nhuận của các ngành này cũng tăng và đó là yết tố hấp dẫn để kích thích các nhà đầu tư mua chứng khoán của nó, làm cho giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán tăng. 3.2.2.3 Các kỳ vọng thị trường. Cảm giác lạc quan hay bi quan đối với nền kinh tế của người tiêu dùng và của người sản xuất là yêú tố quyết định quan trọng của hoạt động kinh tế. Thí dụ, nếu người tiêu dùng tin vào thu nhập trong tương lai thì họ sẽ sẵn sàng để chi tiêu cho những món hàng đắt tiền hơn. Tương tự, các doanh nghiệp sẽ giá tăng sản xuất và dự trữ hàng hoá nếu họ tin vào nhu cầu của người tiêu dùng trong tương lai sẽ tăng cao đối với sản phẩm của họ trong tương lai. Như vậy, cảm giác lạc quan có ảnh hưởng đến tiêu dùng và đầu tư và có tác động đến tổng nhu cầu đối với hàng hoá và dịch vụ. 3.3 Khái niệm về đầu tư chứng khoán. Nghĩa của từ “ đầu tư” rất rộng và được giải thích ở nhiều góc độ khác nhau. Nếu căn cứ vào góc độ đầu tư người ta chia đầu tư làm 2 loại : đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư mà trong đó người đẩu tư trực tiếp sử dụng vốn của mình, tự khai thác và tự chịu trách nhiệm trực tiếp đối với kết quả đầu tư của mình, ngược lại đầu tư gián tiếp là sự đầu tư trong đó người đầu tư không trực tiếp sử dụng, khai thác vốn đầu tư. Vi dụ: đem vốn cho ngân hàng vay để lấy lãi, mua trái phiếu của doanh nghiệp để nhân trái tức... Như vậy, ở góc độ này, chúng ta có thể dựa vào việc sử dụng vốn và gánh chịu hậu quả kinh doanh để phân biệt đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên ở góc độ khác thì đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp lại được giải thích khác đi. Nếu người đầu tư trực tiếp mang vốn của mình( tiền bạc nhà cửa, đất đai..) góp vào doanh nghiệp mà không phải thông qua hành vi thương mại thì đầu tư đó gọi là đầu tư trực tiếp. Ngược lại nếu người đầu tư đó mang tiền để mua các chứng khoán trên thị trường để trở thành cổ đông tức là gián tiếp góp vốn đầu tư thì hành vi đầu tư phải thông qua thị trường , thông qua hành vi thương mại thì lại được coi là hành vi đầu tư gián tiếp. Dù khác nhau như thế nào đi chăng nữa, thì giữa các khái niệm đầu tư vẫn có một đặc điểm chung đó là “ đầu tư là chỉ việc sử dụng vốn để tạo thu nhập hay lợi nhuận bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng và khai thác nguồn vốn đầu tư đó” Đầu tư chứng khoán là chỉ việc bỏ vốn tiền tệ mua các chứng khoán để kiếm lời. Kiếm lời trong đầu tư chứng khoán có thể là từ thu nhập từ cổ tức trái tức, song cũng có thể là do chênh lệch giá do kinh doanh chứng khoán đem lại.Tuy nhiên đầu tư kinh doanh trên thị trường chứng khoán không phải là một công việc đơn giản, nó đòi hỏi các nhà đầu tư không những phải hoàn toàn nhạy cảm với thị trường mà còn phải có một cái nhìn sâu, rộng với những biến đổi của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy,một mảng kiến thức về chứng khoán hết sức quan trọng đối với người đầu tư là Phân tích và đầu tư chứng khoán.Phân tích và đầu tư chứng khoán là một hệ thống cơ sở các lý thuyết về phân tích chứng khoán nhằm dự báo giá chứng khoán trong tương lai và các kỹ thuật lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán tối ưu với lãi suất đầu tư cao nhất ứng với từng khả năng chịu đựng rủi ro của mỗi nhà đầu tư. 3.4 Mục tiêu đầu tư chứng khoán. Cho dù đầu tư vào chứng khoán hay đầu tư vào đâu đi chăng nữa thì mục tiêu cuối cùng của người đâù tư vẫn là lợi nhuận. Tuy nhiên khi đầu tư vào chứng khoán thì người đầu tư sẽ có những quyền lợi khác nhau. Như đã nói ở trên, khi đầu tư vào chứng khoán thì bạn có kiếm lời từ hai nguồn khác nhau: từ thu nhập cổ tức, trái tức hoặc là từ chênh lệch giá trên thị trường chứng khoán do quan hệ cung cầu. Đầu tư là một sự hy sinh nhu cầu tiêu dùng hiện tại để lấy một sự tiêu dùng trong tương lai, do đó có thể có những rủi ro ảnh hưởng đến độ an toàn của vốn đầu tư trong khoảng thời gian đầu tư đó. Vì vậy, vấn đề an toàn về vốn trong kinh doanh chứng khoán cũng là một mục tiêu quan trọng của đầu tư chứng khoán. Nói tóm lại, có hai mục tiêu đầu tư chủ yếu của đầu tư chứng khoán, đó là an toàn vốn đầu tư và kiềm lời. Các nhà đầu tư có thể kiếm lời dựa vào cổ tưc, trái tức hoặc kiếm lời do chênh lệch giá như đã nói ở trên. Tuy nhiên mục tiêu kiếm lời nhằm vào sự tăng giá của cổ phiếu ngày cáng quan trọng đối với các nhà đầu tư, vì vậy việc phân tích và dự báo giá chứng khoán trong tương lai để có quyết sách đầu tư hợp lý là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Các mục tiêu có đạt được như ý muốn hay không hoàn toàn phụ thuộc vào các rủi ro trong đầu tư. Đối với các nhà đầu tư, rủi ro là nhân tố khách quan vượt ra ngoài tầm tay quản lý và khống chế họ, tác động của rủi ro như thế nào đến mục tiêu đầu tư hoàn toàn phụ thuộc môi trường đầu tư. Do đó đầu tư chứng khoán phải là hành động có cân nhắc, có phân tích khoa học đến môi trường đầu tư, đến rủi ro có thể xảy ra trong thời gian đầu tư. 3.5 Lợi nhuận dự kiến và rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Tất cả các nhà đầu tư khi bỏ tiền đầu tư đều mong muốn thu được lợi nhuận. Mọi cuộc đầu tư đều có rủi ro nhất định; Chúng đòi hỏi một sự hi sinh nhất định trong lúc này để đổi lấy một lợi ích không chắc chắn trong tương lai. Làm thế nào để chọn được một cách đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất với rủi ro ít nhất. Để có quyết định đầu tư đúng đắn, trước hết nhà đầu tư phải hiểu rủi ro và lợi nhuận dự kiến là gì, nguyên nhân phát sinh và cách đánh giá chúng. Sau đó, tính toán từng yếu tố, so sánh rồi đi đến quyết định lựa chọn một danh mục đầu tư sao cho rủi ro được bù trừ giữa các danh mục đầu tư còn lợi nhuận thì tối đa. 3.5.1 Rủi ro và phân loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán. 3.5.1.1. Rủi ro trên thị trường chứng khoán. Rủi ro là một hiện tượng khách quan, liên quan đến và có thể ảnh hưởng tới một mục tiêu do con người vạch ra mà con người có thể thấy được các hiện tượng khách quan đó, nhưng lại không lượng hoá được nó sẽ xảy ra vào lúc nào, ở đâu và mức độ thiết hại thực sự đối với mục tiêu đó ra sao. Trong kinh doanh và đầu tư chứng khoán, việc nghiên cứu rủi ro để từ đó lượng hoá chúng là một điều hết sức quan trọng. Bỏi lẽ, tỉ suất lợi nhuận trong đầu tư chứng khoán không phải cũng đúng lúc nào như dự đoán của nhà đầu tư xuất phát từ. Đầu tư là việc hy sinh những lợi ích tiêu dùng ở hiện tại để đổi lấy một lợi ích cao hơn nhưng không chắc chắn trong tương lai. Bởi vậy trước khi ra một quyết định đầu tư chứng khoán, bạn dự đoán được các rủi ro có thể xảy ra, và mức độ hứng chịu rủi ro của bạn là bao nhiêu ? Phần thưởng cho sự chịu đựng rủi ro của bạn là bao nhiêu ? Khi một quyết định đầu tư được đưa ra thì kéo theo nó là hàng loạt các rủi ro có thể xảy ra làm cho kết quả của cuộc đầu tư không diễn ra theo hướng nhà đầu tư mong đợi, các rủi ro càng được ước lượng chính xác thì yếu tố thành công trong đầu tư nói chung và đầu tư chứng khoán nói riêng càng cao. 3.5.1.2. Phân loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Có rất nhiều loại rủi ro là nguồn gốc khiến cho lợi nhuận dự kiến không xảy ra đúng như dự kiến của nhà đầu tư. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu một số loại rủi ro có tính phổ biến sau: Rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất là khả năng biến động của lợi nhuận do những thay đổi của lãi suất trên thị trường gây ra. Thị giá của chứng khoán sẽ biến động ngược chiều với chiều biến động của lãi suất thị trường tức là nếu lãi suất của thị trường r tăng thì giá trị và thị giá của các khoản đầu tư sẽ giảm. Khả năng biến động của lợi nhuận tính được chính là rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất ảnh hưởng đến giá trái phiếu, cổ phiếu, bất động sản, vàng và các đầu tư khác. Rủi ro sức mua. Trái phiếu, các khoản tiền gửi tiết kiệm, và rất nhiều công cụ tiền tệ khác được xếp vào loại tài sản tiền tệ vì chúng hứa hẹn các khoản thanh toán bằng tiền thay vì hàng hoá như thức phẩm hay vải vóc. Điều này có nghĩa là các khoản trả lãi và vốn gốc, theo hợp đồng với người sở hữu các chứng khoán đó, là số tiền cố định không tăng theo lạm phát. Kết quả là, nếu lạm phát xảy ra, các chủ sở hữu sở hữu các chứng khoán đó được trả số tiền thấp hơn sức mua so với số tiền đầu tư vào chứng khoán. Khoản thiết hại có thể có về sức mua đối với sản phẩm vật chất này là rủi ro sức mua. Rủi ro sức mua thường lớn hơn mức các nhà đầu tư nhận biết vì lạm phát và các tiềm ẩn của lạm phát thường không được cảnh báo. Do vậy các nhà đầu tư phải so sánh lãi suất đầu tư với tỷ lệ lạm phát để kiểm soát rủi ro sức mua của mình. Rủi ro sức mua giống như một khoản thuế tiềm ẩn, có tác dụng chuyển của cải từ chủ nợ qua con nợ và ngược lại. Nếu con nợ phải trả khoản lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát, lạm phát làm cho con nợ được hưởng lợi trong khi chủ nợ thì bị thiệt hại.Vì lẽ đó, các nhà đầu tư trái phiếu không được cho phép mình xem thường rủi ro sức mua gắn liền với lạm phát. Rủi ro thị trường lên xuống. Rủi ro thị trường lên xuống phát sinh từ khả năng biến động của lãi suất thị trường do các lực thị trường luân phiên lên xuống. Khi một chỉ số chứng khoán tăng rõ rệt dần dần từ một điểm thấp, trong một kỳ thời gian thì xu hướng đi lên này gọi là thị trường lên. Thị trường lên kết thúc khi chỉ số thị trường đạt đến đỉnh điểm và bắt đầu có xu thế đi xuống. Thời kỳ mà thị trường giảm xuống điểm thấp gọi là thị trường xuống.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35458.doc
Tài liệu liên quan