Đề tài Pháp luật về bảo tồn di sản và giải quyết tranh chấp môi trường

Mục lục

A. Pháp luật bảo tồn di sản

I. Di sản văn hóa

1. Khái niệm

2. Tiêu chí đánh giá di sản

3. Xếp hạng di sản

4. Quy định xếp hạng

5. Thực trạng di sản ở Việt Nam

II. Pháp luật bảo tồn di sản

1. Hệ thống văn bản Pháp luật

2. Quy định chung bảo vệ di sản văn hóa vật thể

3. Các quy định cụ thể bảo vệ di tích.

4. Trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm luật bảo tồn di sản.

5. Thực trạng áp dụng luật bảo tồn di sản

III. Giải pháp kiến nghị

B. Giải quyết tranh chấp môi trường

I. Lý luận chung

1. Khái niệm

2. Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường

3. Thực trạng tranh chấp môi trường của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

4. Thực trạng tranh chấp môi trường ở Việt Nam.

II. Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường.

1. Hệ thống văn bản pháp luật

2. Nội dung pháp luật giải quyết tranh chấp môi trường

3. Thực trạng áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp môi trường tại Việt Nam

III. Kiến nghị giải pháp

Tài liệu tham khảo

doc70 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4838 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về bảo tồn di sản và giải quyết tranh chấp môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, Lạng Sơn, Hà Tây, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Đồng Nai và Tiền Giang. Thông qua kết quả điều tra, 6 ngôi nhà tại 6 tỉnh được tu bổ đã giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn các ngôi nhà ở truyền thống, một bộ phận quan trọng của kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn đầu tư xây dựng nhà trưng bày tại khu di tích Mỹ Sơn, bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA), UNESCO và Quỹ Leici Foundation của Italy giúp tu bổ khu tháp G (Mỹ Sơn). Hiện nay, Cục Di sản văn hóa và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ha Nội, Ủy ban nhân dân thị xã Sơn Tây, cộng đồng nhân dân xã Đường Lâm đang tiếp tục phối hợp với chuyên gia Nhật Bản từng bước triển khai việc bảo tồn Làng cổ Đường Lâm. Chính phủ Nhật Bản và nhiều tố chức quốc tế, cá nhân mong muốn tham gia hỗ trợ việc nghiên cứu bảo tồn Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu, sự hỗ trợ của UNESCO thời gian qua trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên là rất có hiệu quả. Về bảo tàng: Những quy định mới trong Luật Di sản văn hóa cho phép đưa hiện vật ra nước ngoài nhằm mục đích nghiên cứu, bảo quản, giao lưu văn hóa, đã tạo điều kiện cho các bảo tàng Việt Nam tổ chức triển lãm các bộ sưu tập cổ vật có giá trị ở nước ngoài, góp phần đáng kể trong việc giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa Việt Nam và hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế. Nổi bật là các cuộc trưng bày về “Việt Nam: Những cuộc hành trình của con người - tinh thần và linh hồn” (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam tổ chức tại Mỹ, năm 2004), về “Việt Nam: Quá khứ - Hiện tại” (do 13 bảo tàng phối hợp tổ chức tại Bỉ và Áo, trong 2 năm 2003 - 2004), về “Kho tàng nghệ thuật điêu khắc Chămpa” (do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chămpa, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh tổ chức tại Pháp, năm 2005 - 2006), về “Tác phẩm mỹ thuật Việt Nam” (do Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức tại các nước Nhật Bản, Luých-xăm-bua...). Để tăng cường điều kiện hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo tàng, từ năm 2002, 5 đơn vị trong ngành đã được phép tham gia tổ chức ICOM (Cục Di sản văn hóa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Hải dương học, Bảo tàng Địa chất Việt Nam) và tổ chức ICOM Việt Nam đã được thành lập. Năm 2005, tiếp tục cho phép 06 đơn vị trong ngành tham gia ICOM. Từ khi thành lập, ICOM Việt Nam đã có những hoạt động tích cực nhằm gắn kết hoạt động của các bảo tàng ở Việt Nam với cộng đồng các bảo tàng quốc tế, nhất là trong các dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế Bảo tàng hàng năm. Về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể: Đã và đang triển khai nhiều chương trình hợp tác với Văn phòng UNESCO Hà Nội, với Quỹ Ford, Quỹ Sida của Thuỵ Điển, Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, Cơ quan di sản văn hóa của Bỉ và với Viện Smithsonian (Hoa Kỳ) như: Dự án “Hành trình văn hóa: làng nghề thủ công” đang được triển khai với Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp; dự án “Mê Kông: dòng sông kết nối các nền văn hóa” gồm nhiều nước thuộc khu vực sông Mê Kông tham gia, được tổ chức tại Washington vào năm 2007. Qua các chương trình hợp tác quốc tế này, văn hóa Việt Nam nói chung, di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam nói riêng được thế giới biết đến và ngược lại, người dân Việt Nam cũng có cơ hội được hiểu biết thêm về các nền văn hóa trên thế giới, nhận thức về các giá trị di sản văn hóa và trách nhiệm tham gia bảo vệ các giá trị đó cũng như năng lực của cán bộ trung ương và địa phương được nâng lên đáng kể. Những hạn chế cần khắc phục Hạn chế trong tổ chức thực hiện Luật Di sản văn hóa Mặc dù nhận thức của các ngành, các cấp và của toàn xã hội về vai trò, ý nghĩa của di sản văn hóa và trách nhiệm của toàn xã hội đối với di sản văn hóa đã được nâng cao nhưng chưa sâu sắc và toàn diện, chưa được cụ thể hóa bằng các biện pháp, kế hoạch và chương trình cụ thể. Chúng ta còn lúng túng trong việc xứ lý để đảm bảo sự hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển; chưa nhận thức thật sâu sắc vị trí, vai trò của di sản văn hóa trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Cá biệt có nơi, có lúc vẫn tồn tại xu thế thương mại hóa di tích, đặt các mục tiêu, dự án phát triển kinh tế cao hơn các mục tiêu về văn hóa nói chung và di sản văn hóa nói riêng. Việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa còn chậm và chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa theo kịp những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách do thực tế sôi động của đất nước đang đặt ra. Hạn chế ở một số mặt công tác cụ thể Một số quy định của Luật Di sản văn hóa cần được sửa đổi, điều chỉnh: Tiếp tục hoàn thiện về phân cấp quản lý di sản văn hóa thật cụ thể, rõ ràng và sát với yêu cầu cũng như khả năng thực tế của các cấp, các ngành. Đồng thời, phải xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi ngành để tăng cường vai trò cũng như tính chủ động của các cấp, các ngành trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Tuy nhiên, không có nghĩa sẽ phân cấp toàn diện, vì việc phân cấp quản lý toàn diện di tích cho cơ sở trong khi các đơn vị này chưa hoặc không có cán bộ chuyên môn nghiệp vụ hay chuyên môn nghiệp vụ yếu đã và sẽ gây ra những thiệt hại không nhỏ cho di tích. Hoàn thiện những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật và định mức tu bổ di tích để kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan ban hành những quy định riêng giải quyết được những yêu cầu mang tính đặc thù của công tác tu bổ di tích. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý về tu bổ di tích, đội ngũ cán bộ tư vấn - thiết kế - giám sát, đội ngũ cán bộ kỹ thuật - công nhân lành nghề của chúng ta còn mỏng, năng lực không đồng đều nên đã dẫn đến chất lượng quản lý và tu bổ di tích không đáp ứng những yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật. Nhiều địa phương còn quan niệm sai lầm cho rằng công tác tu bổ, tôn tạo di tích chỉ như các hoạt động xây dựng cơ bản đơn thuần, từ đó dẫn đến việc phân cấp cho cấp huyện thậm trí là cấp xã, làm chủ đầu tư một số công trình tu bổ di tích, trong khi lực lượng cán bộ chuyên môn của cấp huyện, xã về lĩnh vực này rất ít kinh nghiệm, làm ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ chuyên ngành pháp luật, kỹ sư, kiến trúc sư thiết kế tu bổ di tích còn rất mỏng, cần được nâng cao cả về số lượng và chất lượng để hướng tới mục tiêu hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi về từng lĩnh vực chuyên sâu. Còn nhiều di tích bị tu sửa sai quy cách do buông lỏng quản lý và do sự thiếu hiểu biết của chính quyền địa phương, nhân dân, các vị trụ trì đền chùa và cả đơn vị thi công trong việc muốn di tích bền vững (muốn thay mới toàn bộ cho bền chắc nên phản đối việc áp dụng các biện pháp nối vá, gắn chắp...), muốn di tích được “xứng tầm” hoặc vì chạy theo lợi nhuận đã dẫn đến làm mới di tích, việc tu bổ di tích còn dựa vào kinh nghiệm, ít dựa vào luật và các văn bản dưới luật, kết quả là di tích gốc bị biến dạng, nhất là đối với các di tích kiến trúc nghệ thuật. Hiện tượng trộm cắp cổ vật tại di tích trong những năm gần đây vẫn diễn ra khá mạnh mẽ ở các di tích đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Tại Hà Tây (cũ), từ năm 2000 đến năm 2004 đã xảy ra mất 298 cổ vật tại 40 di tích. Tại Phú Thọ, từ tháng 5/2004 đến tháng 9/2004 đã xảy ra mất 33 cổ vật tại 04 di tích. Có nhiều vụ phát hiện hàng ngàn cổ vật được đưa ra nước ngoài đã bị hải quan thu giữ... Thực tế trên cho thấy, công tác quản lý di tích ở cơ sở còn bị buông lỏng, Ủy ban nhân dân và ngành văn hóa thông tin các cấp chưa có phương án tổ chức quản lý di tích chặt chẽ, nhiều nơi chính quyền địa phương giao di tích cho các cụ cao tuổi hoặc cho các vị trụ trì mà không tổ chức lực lượng trông nom di tích chu đáo. Bên cạnh nguyên nhân tổ chức quản lý di tích còn lỏng lẻo, còn có thực tế là việc truy tìm kẻ gian, thu hồi cổ vật bị trộm cắp chưa thu được kết quả cao, chưa xử lý nghiêm những kẻ trộm cắp. Việc triển khai xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và bảo vật quốc gia còn chậm, cần được đẩy nhanh tốc độ trong thời gian tới. Ngoại trừ một số di tích như di tích Cố đô Huế, di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Hà Nội đã có những quy định cụ thể của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc sử dụng nguồn thu (để trả lương cho nhân viên trông coi di tích, tái đầu tư tu bổ di tích...) còn ở các di tích khác việc quản lý và sử dụng nguồn thu vẫn tồn tại rất nhiều bất cập. Nhiều nơi, nguồn thu ở di tích không được tái đầu tư để tu bổ di tích mà đưa vào ngân sách để sử dụng vào các mục đích khác. Quy định về thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng cũng còn có điểm chưa hợp lý. Cụ thể, do quy định Thủ tướng có thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng chuyên ngành, nhưng chưa có sự phân cấp bảo tàng trực tiếp trực thuộc các bộ, ngành (bảo tàng ngành) và bảo tàng trực thuộc các đơn vị của các bộ ngành (bảo tàng chuyên ngành hẹp), nên trong thực tiễn, việc thành lập các bảo tàng chuyên ngành hẹp gặp khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa dự kiến điều chỉnh như sau: Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập các bảo tàng trực thuộc các Bộ, ngành; Người đứng đầu các Bộ, ngành quyết định thành lập các bảo tàng trực thuộc các đơn vị trong Bộ, ngành đó. Các cấp, các ngành, các địa phương còn chưa thực sự quan tâm đầu tư kinh phí cho các hoạt động bảo tàng - nhất là việc đầu tư cho hoạt động sưu tầm hiện vật, tăng cường trang thiết bị hiện đại cho trưng bày; đồng thời, chưa thống nhất quan điểm và tạo điều kiện cho các bảo tàng, nhất là các bảo tàng tỉnh, thành phố tổ chức các hoạt động dịch vụ văn hóa tại bảo tàng nhằm đáp ứng các nhu cầu của công chúng, tăng tính hấp dẫn và tăng nguồn thu phục vụ các hoạt động khác của bảo tàng. Các bảo tàng còn chậm đổi mới nhận thức và phương pháp tổ chức hoạt động, còn có biểu hiện trông chờ, ỷ lại, thiếu năng động... Do đó, nội dung trưng bày, công tác tuyên truyền quảng bá về bảo tàng còn thiếu hấp dẫn công chúng. Một số bảo tàng còn trùng lặp về nội dung trưng bày và hiệu quả hoạt động chưa cao: Hiện tại, khoảng 90% bảo tàng ở Việt Nam là bảo tàng thuộc loại hình lịch sử xã hội, trong khi đó loại hình bảo tàng lịch sử tự nhiên và bảo tàng chuyên ngành về khoa học kỹ thuật và nghệ thuật còn rất ít. Các bảo tàng tỉnh, thành phố hình thành theo đơn vị hành chính, chưa gắn với quy hoạch phát triển đô thị, quy hoạch phát triển du lịch. Nhiều thành phố lớn chưa có bảo tàng tương xứng như Hà Nội, Hạ Long, Vinh, Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột... Có những ngành, lĩnh vực có tiềm năng để thành lập các bảo tàng nhưng chưa được quan tâm như: giao thông, nông nghiệp, công nghiệp than, nghề thủ công truyền thống, văn hóa nghệ thuật... Hiện vật của bảo tàng chưa phong phú, nội dung trưng bày chưa sâu sắc và trang thiết bị còn rất nghèo nàn. Công tác sưu tầm thường chỉ được triển khai sau khi có chủ trương xây dựng ngôi nhà bảo tàng. Kinh phí dành cho công tác sưu tầm rất ít. Hiện vật sưu tầm trước đây chủ yếu là do được tặng, biếu. Hiện vật sưu tầm về đơn lẻ, chưa có bảo tàng nào tổ chức được việc sưu tầm ngoài lãnh thổ Việt Nam. GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ Tăng cường hiệu lực của Luật Di sản văn hóa: Sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa và điều chỉnh Luật Thi đua khen thưởng, đưa nhóm nghệ nhân dân gian thành đối tượng điều chỉnh, để có cơ sở pháp lý triển khai công tác tôn vinh nghệ nhân và xác định cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phù hợp với thực tiễn hiện nay: bổ sung khoản 14, 15 Điều 4, khoản 5 Điều 13, Điều 18, Điều 19, Điều 32… Bãi bỏ Điều 35 Xây dựng cơ chế, chính sách cho việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, khuyến khích huy động cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đóng góp kinh phí để tu bổ di tích, hiến tặng hiện vật cho bảo tàng Nhà nước, cụ thể như: Bổ sung các quy định về hỗ trợ, giảm hoặc miễn thuế vào nội dung của các Luật thuế: Thuế Thu nhập doanh nghiêp, Thuế kinh doanh dịch vụ… Xây dựng chính sách tôn vinh các nghệ nhân, nghệ sĩ có đóng góp trong việc giữ gìn và truyền dạy bí quyết về di sản văn hóa phi vật thể, để di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy ngay trong môi trường sinh thái-nhân văn nói chung đã được sáng tạo ra và tồn tại qua nhiều biến động lịch sử: Bổ sung một Điều mới - Điều 2 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa Nội dung Điều mới này quy định về việc áp dụng Điều 65 Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 để xét phong tặng các danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” cho các nghệ nhân, nghệ sĩ hoạt động trên lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể Thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền về xã hội hóa với hình thức đa dạng, có chiều sâu và được phổ biến đến tận người dân ở mọi địa bàn trên toàn quốc. Tuyên truyền, phổ biến các mô hình xã hội hóa hoạt động tốt; các tổ chức, cá nhân tích cực trong các hoạt động xã hội hóa. Xây dựng chính sách dài hạn cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và nghệ nhân. Xây dựng chính sách đãi ngộ thích đáng cho những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản để khuyến khích và giữ chân họ với nghề, ưu tiên khu vực các tỉnh miền núi và tỉnh nghèo. Tăng cường nâng cao nhận thức pháp luật về di sản văn hóa của các ngành, các cấp và của toàn thể cộng đồng. Tăng cường công tác giám sát việc thực hiện Luật Di sản văn hoá và đầu tư cho bảo tồn di sản văn hóa ở các địa phương; chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh công tác chống vi phạm di tích, tăng cường việc đầu tư cho tu bổ di tích từ ngân sách địa phương (những dự án đầu tư tu bổ lớn ở di tích hiện nay chủ yếu là của ngân sách Trung ương đầu tư). Xây dựng các kế hoạch dài hạn về giải tỏa vi phạm di tích gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu, tăng tính hấp dẫn của bảo tàng, di tích nhằm thu hút đông đảo khách tham quan; tổ chức nhiều các hoạt động văn hóa trong bảo tàng, di tích hướng tới mục tiêu phục vụ phát triển du lịch bền vững. Phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò giám sát của nhân dân trong việc thực hiện các dự án bảo tồn di sản văn hóa tại cơ sở và tham gia ngăn chặn, giải quyết vi phạm di tích. Đẩy mạnh công tác kiện toàn bộ máy của cơ quan quản lý di tích lịch sử - văn hóa đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở từng địa phương; Tăng cường vai trò trách nhiệm của các cấp theo hướng tạo sự chủ động, linh hoạt trong việc tổ chức thực hiện quản lý, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa một cách hiệu quả. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng trong việc lên án các hành vi vi phạm di tích cũng như ngăn chặn và giải quyết vi phạm di tích.: VD Về vấn đề quản lý việc sản xuất đồ cổ giả, nhiều ý kiến cho rằng không nên cấm mà phải tìm cách để công khai, minh bạch hoạt động này. Hệ thông luật cần hoàn chỉnh hơn:cần làm rõ 1 số khái niệm trong luật: tiến hành tu bổ các công trình ở khu vực bảo vệ I là một việc hết sức bình thường. Quy định "bảo vệ nguyên trạng" hiện hành làm khó việc tổ chức tu bổ vì không thể can thiệp gì, ngay cả những hạng mục chắp vá nằm trong di tích. Những trường hợp di tích rộng với vài chục hecta, có dân cư sinh sống, làm ăn bên trong như Thành nhà Hồ ở Thanh Hoá, Hoàng thành ở Huế hay Thành Cổ Loa ở Hà Nội, yêu cầu “bảo vệ nguyên trạng” khó thực hiện. các luật thì chồng chéo, không biết nên áp dụng thi hành theo luật nào: ví dụ giữa cơ quan quản lý nhà nước địa phương với cơ quan tôn giáo. VD: dự án thảo luận luật DSVH: Nhiều đại biểu cũng đã tán thành với dự thảo Luật khi sửa đổi, bổ sung Điều 26, theo đó Nhà nước có chính sách, tôn vinh và đãi ngộ đối với nghệ nhân. Nhưng nhiều đại biểu đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể hơn để khi Luật có hiệu lực thì triển khai thực hiện ngay được. Liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể, một số đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, đưa ra những tiêu chí xếp hạng di sản văn hoá phi vật thể. Thậm chí có đại biểu đề nghị, cũng như di sản vật thể thì di sản văn hoá phi vật thể cũng phải được xác định yếu tố nguyên gốc. Tuy nhiên, đại biểu Dương Trung Quốc và Nguyễn Minh Thuyết lại cho rằng, đối với di sản văn hoá phi vật thể thì rất khó tiến hành xếp hạng và cũng rất khó xác định yếu tố gốc. “Đây là vấn đề nhạy cảm, liên quan đến nhiều mặt trong đời sống xã hội. Một loại hình di sản văn hoá phi vật thể đều có những giá trị khác nhau, chứa đựng những yếu tố khác nhau vì thế rất khó xác định cái nào hơn cái nào. Chẳng lẽ xếp cái này là cấp quốc gia, cái khác là cấp tỉnh chăng? Trên thế giới không ai làm như vậy” - đại biểu Dương Trung Quốc nhấn mạnh. (Theo VTC News – vtc.vn) B. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP MÔI TRƯỜNG Lý luận chung Tranh chấp môi trường Khái niệm: Thuật ngữ “ Tranh chấp môi trường” hoặc còn gọi là “xung đột môi trường” (XĐMT) chỉ bắt đầu xuất hiện trên thế giới trong những năm gần đây. Một số nhà nghiên cứu thích dùng thuật ngữ xung đột do môi trường (environmentally-induced conflict) để chỉ các xung đột nhằm mô tả một thực tế là chúng xuất hiện liên quan đến vấn đề môi trường. Những nhà nghiên cứu khác thường dùng một thuật ngữ đơn giản hơn là XĐMT. Trong nhiều trường hợp, một số tác giả còn sử dụng thuật ngữ tranh chấp môi trường. Bản thân từ "xung đột" (conflict) đứng riêng bao hàm nhiều nghĩa, nhiều cấp độ: “conflict” là trạng thái đối lập hoặc thù địch, sự đấu tranh; “conflict” cũng có nghĩa là sự mâu thuẫn, bất đồng, bất hòa, tranh cãi, tranh luận, sự khác nhau, sự va chạm, không tương hợp. Như vậy, khái niệm “xung đột” ở đây cần phải hiểu khá rộng, chứ không chỉ thu hẹp ở nghĩa xung đột là có đấu tranh, dùng vũ lực, có vũ trang. => Như vậy tranh chấp môi trường được hiểu như là quá trình hình thành và phát triển những mâu thuẫn mang tính đối kháng giữa các nhóm xã hội trong khai thác và sử dụng các tài sản môi trường. Nguyên nhân: Có thể nhận thấy tính "bất bình đẳng" trong phân bố và tính khan hiếm của các nguồn tài nguyên chính là những nguyên nhân sâu xa của XĐMT. Xã hội càng phát triển, khoa học và công nghệ càng phát triển thì càng làm tăng thêm nhóm nguyên nhân xung đột: Sự cạnh tranh nguồn tài nguyên khan hiếm, sự gia tăng khoảng cách giữa giàu và nghèo, sự khác nhau trong nhận thức... Phân tích bản chất của sự tranh chấp tài nguyên cho phép chúng ta đưa ra một số nguyên nhân cơ bản của XĐMT như sau: - Thứ nhất, nhận thức không đầy đủ về tài nguyên: Về điểm này có thể là do thiếu thông tin, bỏ qua thông tin hoặc không nhận thức đúng về giá trị của tài nguyên. - Thứ hai, hệ thống các giá trị khác nhau. Hệ thống các giá trị khác nhau có thể dẫn tới sự khác nhau về lợi ích cũng như mục tiêu trong khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên giữa các nhóm trong xã hội. - Thứ ba, thiếu sự tham gia đóng góp của các bên liên quan. XĐMT cũng chính là xung đột lợi ích giữa các nhóm trong xã hội. Thiếu sự tham gia của tất cả các bên liên quan có thể dẫn đến mất cân bằng về lợi ích của các nhóm xã hội. - Thứ tư, phân bố quyền lực khác nhau giữa các nhóm xã hội. Trong nhiều trường hợp, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của các cộng đồng địa phương, các tổ chức tài chính thế giới lớn như: ADB, WB vẫn cứ tiến hành hỗ trợ một loạt các dự án phát triển. - Cuối cùng, cơ chế chính sách yếu kém cũng là nguyên nhân làm gia tăng các XĐMT. Trong đó quyền sở hữu/sử dụng các tài sản môi trường không được xác định rõ là một nguyên nhân trọng yếu. Sự phát triển của KH&CN cũng như sự gia tăng dân số đã làm gia tăng tốc độ khai thác tài nguyên dẫn đến gia tăng tính khan hiếm của tài nguyên. Nội dung tranh chấp về môi trường bao gồm: - Tranh chấp về quyền, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng thành phần môi trường; - Tranh chấp về việc xác định nguyên nhân gây ra ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về trách nhiệm xử lý, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường gây ra. Các bên tranh chấp về môi trường bao gồm: Tổ chức, cá nhân sử dụng thành phần môi trường có tranh chấp với nhau; Giữa tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng các thành phần môi trường và tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cải tạo, phục hồi khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái, bồi thường thiệt hại về môi trường. Đặc trưng - Tranh chấp môi trường là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công thường gắn chặt với nhau. - Tranh chấp môi trường thường xảy ra với quy mô lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư,thậm chí đến nhiều quốc gia. - Vị thế của các bên trong tranh chấp môi trường thường không cân bằng. - Giá trị của những thiệt hại trong tranh chấp môi trường rất lớn và khó xác định. Yêu cầu đối với giải quyết tranh chấp môi trường - Ưu tiên bảo vệ các quyền lợi ích chung về môi trường của cộng đồng, của xã hội. Làm thế nào để dung hòa được cả lợi ích của từng cá nhân, tổ chức đồng thời cả lợi ích của cộng đồng, xã hội . - Đảm bảo duy trì mối quan hệ bảo vệ môi trường giữa các bên để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. - Ngăn chặn sớm nhất sự xâm hại đối với môi trường. Khi giải quyết tranh chấp môi trường thì chúng ta vừa tính yếu tố tăng trưởng song vẫn phải đảm bảo sự cảnh giác cao độ trước những thiệt hại gây nên cho môi trường. - Đảm bảo xác định một cách có căn cứ giá trị thiệt hại về môi trường. Do thiệt hại về môi trường rất lớn và khó xác định nên cần phải dựa trên những căn cứ khoa học nhất định để đánh giá đầy đủ những thiệt hại đó gây ra cho kinh tế xã hội. - Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp môi trường nảy sinh góp phần đảm bảo trật tự xã hội. 2. Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường 2.1. Khái niệm Cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường là một hệ thống thống nhất các phương tiện pháp lí đặc thù, thông qua đó thực hiện việc giải toả mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ trật tự xã hội. 2.2. Nguyên tắc Nguyên tắc công quyền can thiệp: Giải quyết tranh chấp môi trường không chỉ là mong muốn riêng của các bên tranh chấp mà còn là trách nhiệm của nhà nước. Chức năng quản lí xã hội và nghĩa vụ bảo đảm phúc lợi công cộng của Nhà nước không “cho phép” công quyền đứng ngoài những quan hệ xung đột mang tính xã hội sâu sắc này. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sự can thiệp của công quyền vào việc giải quyết tranh chấp cần được xem là một loại trách nhiệm công vụ (công quyền đương nhiên can thiệp). Để tránh tình trạng tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước, giải quyết tranh chấp môi trường là trách nhiệm chỉ của Nhà nước thì yêu cầu đặt ra là cần làm rõ mức độ can thiệp công quyền trong lĩnh vực này. Sự can thiệp của các cơ quan công quyền là yếu tố không thể thiếu nhưng chỉ nên xem là giải pháp cuối cùng đang dần chiếm ưu thế. Nguyên tắc phòng ngừa: Có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết những vụ kiện đòi chấm dứt các mối nguy hiểm tiềm tàng đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng từ các hoạt động phát triển, nhất là các dự án quy mô lớn. Trong trường hợp này quan điểm phát triến bền vững cần được tôn trọng. Cần phải cân nhắc giữa cái được, cái mất để các bên có thể đi đến thống nhất các phương án loại trừ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động phát triển. Cần thiết phải tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường. Đây là một công cụ vừa mang tính pháp lí vừa mang tính kĩ thuật để giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc phối hợp, hợp tác: Nhằm mục đích duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp trong việc cùng tìm ra giải pháp khắc phục và cải thiện môi trường. Đây được coi là phương cách tốt nhất để tổng hợp mọi nguồn lực xã hội vào việc khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường sống chung của con người. Giúp cho các bên tham gia có cơ hội đối thoại trực tiếp với nhau, thông tin cho nhau và cùng nhau xây dựng những cam kết cso tính đồng thuận xã hội, cùng nhau xác định trách nhiệm, chia sẻ nguồn lợi và tìm tiếng nói chung để ngăn chặn nguy cơ huỷ hoại môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Nguyên tắc người gây ô nhiễm trả giá: Xác định cái giá phải trả đối với người có hành vi gây ô nhiễm môi trường, bằng các biện pháp: + Áp dụng các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường. + Bồi thường thiệt hại về môi trường, về tính mạng, tài sản cho nạn nhân. Nguyên tắc tham vấn chuyên gia: Để xác định một cách có căn cứ khoa học thiệt hại xảy ra đối với môi trường, sức khoẻ, tính mạng và tài sản của các nạn nhân trong tranh chấp môi trường cần sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia. Các chuyên gia dựa vào phương tiện kĩ thuật đo đạc, xét nghiệm mẫu từ đó có các kết luận khách quan, trung thực về mối liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, về mức độ thiệt hại. Khi đó các số liệu mới trở thành căn cứ khoa học giúp các bên tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền đánh giá, dự báo và kết luận đầy đủ về tính chất, mức độ, ảnh hưởng đến các vấn đề môi trường để đưa ra các phán quyết chính xác và khách quan. Phương thức giải quyết tranh chấp môi trường Phương thức giải quyết tranh chấp được tiến hành theo các bước sau: Thương lượng: - Là cơ hội tốt để các bên thu thập thêm thông tin, xem xét hoàn cảnh xảy ra sự việc, đánh giá đúng bản chất của vụ việc, giải toả hiểu l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB10L02.doc