Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những trật tự nhất định. Đó là công cụ để nhà nước quản lí xã hội, là công cụ hữu hiệu nhất thể hiện ý chí và quyền lực của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước cũng là một bộ phận của thiết chế xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, chính vì vậy, nó cũng phải tuân theo những quy luật khách quan của xã hội. Các quan hệ xã hội khá phong phú và đa dạng, mang những đặc tính hoàn toàn khác nhau, chính vì vậy phương thức nó vận hành cũng khác nhau. Nhà nước không thể chỉ dựa vaò ý chí chủ quan của mình để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội mà mình muốn với những phương thức hoàn toàn giống nhau. Rõ ràng, có những quan hệ xã hội mà nhà nước không có khả năng can thiệp vào sự vận hành của nó hoặc nó không mang lại bất cứ hiệu quả nào đối với mục tiêu quản lí xã hội của nhà nước. Cũng có những loại quan hệ nhất thiết phải được điều phối một cách chặt chẽ hoặc nó đảm bảo cho sự tồn tại của chính nhà nước đó. Bên cạnh đó cũng có những quan hệ cần được nhà nước điều chỉnh ở một chừng mực nhất định, mức độ cụ thể còn phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lựa chọn sai phương thức hoặc định mức tác động có thể mang đến những hậu quả hoàn toàn trái ngược nhau. Đối với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng này cũng vậy, chúng cũng là những quan hệ xã hội được các nhà nước rất quan tâm, tuy nhiên, pháp luật có thể tác động như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất là một vấn đề cần được xem xét một cách cụ thể. Vấn đề này sẽ làm cơ sở lí luận vững chắc cho hoạt động lập pháp của các cơ quan công quyền cũng như việc dánh giá tính hiệu quả, hợp lí của các quy phạm pháp luật được phân tích ở chương hai.
58 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật Việt Nam với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại – một số những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho mình và khi tất toán tài khoản thì quyền chủ nợ sẽ tự mất đi. Mặt khác, theo cơ cấu sử dụng tiền gửi của mình ngân hàng luôn dự liệu nguồn hoàn trả thay thế và hơn nữa các quyền trên của khách hàng không phải là quyền đặc trưng, không phải là thuộc tính riêng chỉ thuộc về quyền định đoạt của chủ sở hữu mà rõ ràng nó còn có thể thuộc về quyền của chủ nợ tuỳ theo loại hợp đồng gửi tiền đã xác lập.
Tuy nhiên, vấn đề chính quy định tính chất của quan hệ này chính là đối tượng của nó – tiền tệ, nó là vật cùng loại, và đóng vai trò đại diện cho giá trị được thiết lập bởi quyền lực nhà nước. Đồng tiền cụ thể là vật đặc định, song trong quan hệ gửi tiền, các bên trong quan hệ rõ ràng chỉ quan tâm đến giá trị của đồng tiền, số lượng tiền sẽ thu về, giá trị và tiện ích của dịch vụ được cung ứng, hay nói cách khác hành vi gửi tiền là sự lựa chọn về một phương thức đầu tư của khách hàng và họ phải chấp thuận đổi lấy nó bằng việc trao quyền sở hữu tiền gửi cho ngân hàng trong một thời hạn nhất định. Như vậy, việc ngân hàng thương mại mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng đã phản ánh rõ bản chất là hành vi vay tiền của ngân hàng với cam kết bảo toàn và có sinh lợi cho người gửi tiền. Khi tài khoản tiền gửi được thiết lập, hợp đồng vay tài sản đã hình thành, quyền và nghĩa vụ pháp lý của 2 bên đã phát sinh, theo đó: ngân hàng thương mại đã tiếp nhận sự chuyển giao quyền sở hữu và trở thành chủ sở hữu đối với số tiền nhận gửi từ bên gửi (Điều 472 BLDS) nên có quyền định đoạt nguồn tiền huy động đó nhằm thoả mãn các mục tiêu kinh doanh của mình và có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (Điều 17 Luật các TCTD) bằng việc bảo toàn tiền gửi và hoàn trả gốc, lãi theo thoả thuận, hoặc cung cấp các dịch vụ các cam kết, nếu có (theo quy chế nhận tiền gửi mà ngân hàng thương mại đã công bố công khai và theo hợp đồng gửi tiền cụ thể); với khách hàng, họ có quyền của một chủ nợ (đòi nợ, yêu cầu thanh toán… theo loại hình tài khoản) do là chủ tài khoản gửi tiền, tức là chủ nợ của ngân hàng, và có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của ngân hàng đối với số tiền vốn đã kí thác cho ngân hàng.
Hệ quả của những kết luận trên chính là:
Thứ nhất, về quyền sở hữu của ngân hàng đối với số tiền gửi: Khi hợp đồng nhận tiền gửi là hợp đồng vay tiền – là một hợp đồng song vụ, thì hiển nhiên đã thừa nhận sự xác lập quyền sở hữu của ngân hàng đối với số tiền vay, kèm theo đó là xác lập quyền chủ nợ của người gửi tiền đối với ngân hàng và xác lập các nghĩa vụ đối ứng của mỗi bên trong quan hệ cho vay – vay, từ đó giúp định hình rõ ràng về các nhóm quyền và nghĩa vụ khác liên quan của mỗi chủ thể sẽ chi phối trong suốt thời gian duy trì hiệu lực của thoả thuận vay tiền. (chẳng hạn: khi ngân hàng được giao quyền sở hữu thì đương nhiên có quyền định đoạt khoản tiền nhận gửi theo mục tiêu kinh doanh của mình và tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư, có quyền từ chối yêu cầu đòi tiền bất hợp lý của khách hàng hoặc chấp nhận và buộc chịu chế tài theo hợp đồng….)
Thứ hai, về quyền chủ nợ của người gửi tiền: đầu tiên, cần nhất quán rằng chứng thư gửi tiền là bằng chứng xác định tư cách chủ nợ theo phạm vi số tiền gửi chứ không phải là việc xác định quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tiền gửi, vi phạm điều này sẽ gây ngộ nhận: khi gửi tiền khách hàng không trao quyền sở hữu cho ngân hàng (đồng nghĩa: không xem hợp đồng gửi tiền là hợp đồng vay), hoặc vô tình đồng nhất quyền sở hữu tài sản với quyền chủ nợ (trái với các chế định của pháp luật dân sự). Do bản chất là hợp đồng vay nợ, khách hàng gửi tiền là bên cho vay và “bên vay (ngân hàng) trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó” (Điều 472 BLDS), khách hàng được nhận quyền chủ nợ với bằng chứng xác lập tư cách chủ nợ là chứng thư gửi tiền của ngân hàng phát hành (thẻ tiết kiệm, phiếu nhận nợ, sec…). Với tư cách chủ nợ, khách hàng không có quyền can dự vào việc sử dụng đồng tiền (tuy nhiên cũng có một số hạn chế) đã gửi vào ngân hàng, nhưng có thể dùng quyền chủ nợ để tham gia một số giao dịch dân sự khác theo thể loại của hợp đồng tiền gửi, được đòi nợ hoặc nhận tiện ích theo thoả thuận với ngân hàng.
Nhận thức rõ ràng những vấn đề trên sẽ giúp cho công tác xây dựng văn bản pháp luật và thi hành pháp luật trong thực tiễn chính xác và tránh những sai phạm không cần thiết.
Hoạt động phát hành giấy tờ có giá.
Loại hình huy động vốn thứ hai được xem xét ở đây là hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn hiện nay, khi thị trường chứng khoán phát triển, hoạt động này đã ngày càng trở nên đa dạng hơn rất nhiều. Các chủ thể được phép phát hành cũng được mở rộng ở hầu hết các quốc gia.
Giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác. Giấy tờ có giá có ba thuộc tính:
Thứ nhất, xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định;
Thứ hai, trị giá được bằng tiền;
Thứ ba, có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự.
Đối với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng, khái niệm giấy tờ có giá được hiểu theo nghĩa rất hẹp, chỉ bao gồm các phiếu nợ do ngân hàng phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền chủ nợ của người sở hữu phiếu nợ và nghĩa vụ trả một số tiền nhất định của ngân hàng phát hành vào một thời điểm xác định ghi trên phiếu nợ.
Về phương diện pháp lý, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng được hiểu là hành vi pháp lý theo đó tổ chức tín dụng cam kết vay tiền của khách hàng là tổ chức, cá nhân trong một thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành.
Giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, về bản chất pháp lý, việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi “bán” giấy tờ có giá cho khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, trong quan hệ giao dịch này, tổ chức tín dụng không hề có quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá mà nó dự định phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán. Mặt khác, trước khi các giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ nợ và tổ chức tín dụng cũng chưa nhận được nguồn vốn tiền tệ do khách hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế, nghĩa là không thể hoán đổi chúng thành tiền hay các tài sản khác có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều đó cho thấy, chỉ khi nào khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với tổ chức tín dụng bằng số tiền tương đương mệnh giá của chứng thư thì khi đó, chứng thư này mới thực sự là có giá trị và mới phản ánh đúng tên gọi của nó là “giấy tờ có giá” hay “tư bản giả”.
Hai là, về đối tượng của giao dịch, mặc dù tên gọi của giao dịch là “phát hành các giấy tờ có giá” nhưng đối tượng của giao dịch này không phải là các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành, mà chính là các khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho tổ chức tín dụng với điều kiện tổ chức tín dụng phải hoàn trả cho khách hàng sau một thời hạn nhất định, kèm theo khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi tổ chức tín dụng trong quá trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo tiền” của tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do tổ chức tín dụng phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn – có thời hạn thanh toán dưới 1 năm, ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn; kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín dụng, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn (có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên, ví dụ chứng thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi tổ chức tín dụng (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?).
Ba là, về tư cách pháp lý, khi phát hành các giấy tờ có giá để vay nợ của khách hàng, tổ chức tín dụng có tư cách là người vay hay người mắc nợ, còn khách hàng “mua” giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của tổ chức tín dụng. Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được tổ chức tín dụng và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại tổ chức tín dụng (bằng cách chịu lãi suất phạt với tổ chức tín dụng nhận tiền gửi). Nếu muốn thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác (chẳng hạn, có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán).
Những đặc trưng pháp lý trên đây cho ta thấy, việc phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng là một loại hình giao dịch huy động vốn khá đặc biệt. Tính chất đặc biệt này còn được phản ánh cả trong cơ chế hình thành quyền, nghĩa vụ của các bên trong giao dịch phát hành giấy tờ có giá.
Phát hành giấy tờ có giá là hành vi pháp lý trong đó thể hiện ý chí cam kết vay tiền của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Vì thế, trong pháp luật của hầu hết các quốc gia hành vi pháp lý này cần phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ bao gồm rất nhiều các công đoạn được quy định một cách chi tiết nhằm đảm bảo an toàn tín dụng cho người mua. Trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá, chứng cứ quan trọng nhất thể hiện tập trung ý chí của tổ chức tín dụng trong giao dịch này, chính là các giấy tờ có giá do ngân hàng phát hành. Mặt khác, vì các chứng thư này đã thể hiện rõ ràng, đầy đủ ý chí của tổ chức tín dụng (muốn vay tiền của khách hàng với số lượng bao nhiêu, trong thời hạn bao lâu và trả lãi như thế nào) nên về lý thuyết, có thể coi những chứng thư đó như là bằng chứng quan trọng nhất về việc tổ chức tín dụng đã đưa ra đề nghị vay tiền. Bản đề nghị này – chứng thư nhận nợ, sau khi đã được công bố phát hành và niêm yết bởi tổ chức tín dụng thì về nguyên tắc, họ không thể tự ý rút lại hay thay đổi nội dung bản đề nghị trong thời hạn phát hành chứng thư do pháp luật quy định. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là vì, khi tiến hành các thủ tục phát hành chứng thư, tổ chức tín dụng đã mặc nhiên chấp nhận các quy định của pháp luật về thời hạn phát hành chứng thư và điều đó có nghĩa rằng: tổ chức tín dụng đã tự mình đưa ra thời hạn trả lời đề nghị cho tất cả các chủ thể khác là người tiếp nhận đề nghị. Trong trường hợp này, có thể coi bản đề nghị hợp đồng chung như vậy là loại hợp đồng không có thương lượng, hay hợp đồng mẫu. Do đó, chỉ khi nào khách hàng thể hiện ý chí chấp nhận bản đề nghị đó một cách vô điều kiện bằng hành động chuyển giao cho tổ chức tín dụng quyền sở hữu số tiền ghi trên chứng thư và nhận về mình quyền sở hữu đối với chứng thư được tổ chức tín dụng chuyển giao thì khi đó, ý chí của hai bên mới có sự thống nhất và hợp đồng vay tiền mới được hình thành, kéo theo hệ quả làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên cam kết.
Trong số các quyền, nghĩa vụ được tạo ra bởi các bên từ giao dịch phát hành giấy tờ có giá thì đối với tổ chức tín dụng, những quyền, nghĩa vụ cơ bản nhất bao gồm: quyền sở hữu đối với khoản tiền thu được do phát hành giấy tờ có giá và đồng thời cũng có nghĩa vụ hoàn trả số tiền này cho khách hàng kèm theo khoản lãi khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán. Còn đối với khách hàng, họ được sở hữu giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành và chuyển giao, trong đó xác nhận quyền chủ nợ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá. Với quyền năng này, khách hàng có thể chờ đợi đến ngày đáo hạn của giấy tờ có giá để đòi tiền từ tổ chức tín dụng, hoặc nếu muốn thu hồi vốn trước kỳ hạn thì họ có thể “bán” chứng thư đó cho người khác trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán như một loại tài sản.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngày càng đa dạng, các tổ chức tín dụng đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác nhau. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ các tổ chức tín dụng có thể phát hành chứng thư tiền gửi ngắn hạn (CDs) với giá trị bề mặt tối thiểu là 100.000 USD, trong khi ở Anh, các tổ chức tín dụng lại có thể phát hành các trái phiếu ngân hàng có thời hạn hoặc không thời hạn có lãi suất thả nổi. Còn ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các tổ chức tín dụng đã bắt đầu phát hành một số loại chứng khoán nợ ra công chúng như kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, trái phiếu tổ chức tín dụng, hay các chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và dài hạn. Mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng hầu như tất cả các chứng khoán kể trên được phát hành bởi các tổ chức tín dụng trên thế giới đều có chung bản chất, đó là các chứng khoán nợ trong đó phản ánh việc tổ chức tín dụng mắc nợ người sở hữu chứng khoán một số tiền nhất định với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi, vào một ngày nhất định trong tương lai.
Khả năng, vai trò điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các TCTD.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những trật tự nhất định. Đó là công cụ để nhà nước quản lí xã hội, là công cụ hữu hiệu nhất thể hiện ý chí và quyền lực của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước cũng là một bộ phận của thiết chế xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, chính vì vậy, nó cũng phải tuân theo những quy luật khách quan của xã hội. Các quan hệ xã hội khá phong phú và đa dạng, mang những đặc tính hoàn toàn khác nhau, chính vì vậy phương thức nó vận hành cũng khác nhau. Nhà nước không thể chỉ dựa vaò ý chí chủ quan của mình để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội mà mình muốn với những phương thức hoàn toàn giống nhau. Rõ ràng, có những quan hệ xã hội mà nhà nước không có khả năng can thiệp vào sự vận hành của nó hoặc nó không mang lại bất cứ hiệu quả nào đối với mục tiêu quản lí xã hội của nhà nước. Cũng có những loại quan hệ nhất thiết phải được điều phối một cách chặt chẽ hoặc nó đảm bảo cho sự tồn tại của chính nhà nước đó. Bên cạnh đó cũng có những quan hệ cần được nhà nước điều chỉnh ở một chừng mực nhất định, mức độ cụ thể còn phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lựa chọn sai phương thức hoặc định mức tác động có thể mang đến những hậu quả hoàn toàn trái ngược nhau. Đối với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng này cũng vậy, chúng cũng là những quan hệ xã hội được các nhà nước rất quan tâm, tuy nhiên, pháp luật có thể tác động như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất là một vấn đề cần được xem xét một cách cụ thể. Vấn đề này sẽ làm cơ sở lí luận vững chắc cho hoạt động lập pháp của các cơ quan công quyền cũng như việc dánh giá tính hiệu quả, hợp lí của các quy phạm pháp luật được phân tích ở chương hai.
Vậy muốn xác định khả năng, mức độ can thiệp điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động này của nhà nước như thế nào là hợp lí cần xác định đặc trưng của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại và sự tác động của nó đến trật tự vận hành của xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng mà nhà nước mong muốn. Như đã được phân tích khá cụ thể ở trên, hoạt động của các ngân hàng thương mại là một loại hình kinh doanh khá đặc thù, các ngân hàng thương mại có thể nói là một trong những thiết chế trung tâm của nền kinh tế, sự tồn vong hay hưng thịnh của nó có khả năng tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Khác với các doanh nghiệp thông thường khác, ở mức độ gián tiếp, nó là một cánh tay nối dài của cơ quan quyền lực nhà nước trong việc điều phối sự vận hành của nền kinh tế. Theo lí luận chung, xét từ góc độ khả năng chịu sự điều chỉnh của pháp luật của các quan hệ xã hội có thể tạm chia thành 3 loại:
Hoàn toàn chịu sự điều phối của cơ quan nhà nước (chẳng hạn các quan hệ hành chính nhà nước – thường do các cơ quan nhà nước trực tiếp thực hiện);
Nó có thể tự vận hành bằng các quy luật nội tại của nó nhưng nhà nước có thể tác động bằng các phương thức và mức độ thích hợp để hướng nó phát triển theo hướng mà nhà nước mong muốn;
Các quan hệ luôn vận hành bằng các quy luật nội tại của nó mà nhà nước hoàn toàn không có khản năng can thiệp. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý, nhà nước quyết định điều chỉnh hoặc không điều chỉnh các quan hệ này không chỉ xuất phát từ đặc trưng của quan hệ đó mà còn xuất phát từ ý chí chủ quan của mình, tức nếu quan hệ đó được điều chỉnh bởi nhà nước, nó có mang lại lợi ích gì không? Hoặc nếu không được điều chỉnh bởi nhà nước, các quan hệ vận hành tự thân bằng các quan hệ nội tại của nó liệu có ảnh hưởng xấu đến trật tự chung mà nhà nước muốn thiết lập.
Như đã được phân tích cụ thể ở trên, hoạt động huy đông vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng và đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hơn nữa, hoạt động này luôn tiềm ẩn sự bất ổn và nhiều rủi ro, chính vì vậy nhà nước muốn đảm bảo sự phát triển an toàn, bình ổn của nền kinh tế, sự điều chỉnh của nó là lẻ tất nhiên. Tuy nhiên, dù các ngân hàng thương mại có là loại hình chủ thể đặc biệt như thế nào thì bản chất khởi thủy và tất yếu của nó cũng là một doanh nghiệp, không phải là một cơ quan nhà nước, chính vì vậy, nó cần có sự độc lập trong hoạt động. Mặt khác, hoạt động huy động vốn vốn dĩ là một hoạt động kinh tế thuộc nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản nhất của nó là phải được vận hành theo đùng các quy luật nội tại của nó (quy luật cung cầu,…), những tác động không tuân thủ đúng các quy luật này có thể phá vỡ bản chất kinh tế của hoạt động này, và đều mang lại những hệ quả không mong muốn đối với nền kinh tế. Một bài học lớn của nền kinh tế Việt Nam đối với vấn đề này chính là việc thực hiện cơ chế bao cấp trong giai đoạn đầu những năm 80 của thế kỉ trước, nó đã làm nền kinh tế thụt lùi rõ rệt và cho đến nay vẫn còn lại những tàn dư mà khó có khả năng bị xóa bỏ hoàn toàn.
Căn cứ vào các phân tích trên, có thể kết luận hoạt động huy động vốn nằm ở nhóm thứ hai, nhóm các quan hệ có thể vận hành bằng các quy luật nội tại của mình nhưng nhà nước có thể tác động bằng các phương thức và mức độ thích hợp để hướng nó phát triển theo hướng mà nhà nước mong muốn.
Vấn đề thứ hai cần được xem xét ở đây là nhà nước có thể can thiệp ở mức độ nào. Theo quan điểm của tác giả, ở nhóm quan hệ thứ hai được nêu ở trên, các quan hệ trong nhóm này cũng có thể được chia thành hai cấp độ căn cứ vào mức độ điều tiết của nhà nước vào sự vận hành của nó:
Cấp độ thứ nhất: nhà nước chỉ điều chỉnh các quan hệ này ở khía cạnh hình thức pháp lí của quan hệ. Khái niệm hình thức pháp lí ở đây nên được hiểu là bằng các quy phạm pháp luật mang tính tĩnh tương đối, nhà nước ràng buộc về các biểu hiện bên ngoài của quan hệ như về chủ thể, hình thức của hoạt động, các phương thức thực hiện, quyền và ngĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ,… có thể nói đây nhà phương thức tác động gián tiếp. Hầu hết các quan hệ trong xã hội ngày nay được điều chỉnh theo hướng này. Tuy nhiên, nếu muốn đạt được hiệu quả thì bản thân các quy phạm pháp luật này cần được xây dựng phù hợp với nội dung thực của quan hệ đó. Sự điều chỉnh của pháp luật ở mức độ này thực tế không giống nhau với mọi quan hệ và cũng khác nhau với cùng một loại quan hệ trong các giai đoạn, có thể là được nới lỏng hoặc thắt chặc tùy thuộc bối cảnh thực tế, ý chí, mục đích của nhà lập pháp.
Cấp độ thứ hai: ngoài những tác động từ phía các quy phạm ràng buộc về hình thức pháp lí như được đề cập ở trên, nhà nước còn có các quy định cho phép các cơ quan của nó tác động vào quan hệ đó bằng các biện pháp khác (phỏ biến nhất là các biện pháp hành chính hoặc các phương thức can thiệp mang tính kinh tế khác) Cần chú ý rằng, các biện pháp này muốn được thực hiện cũng sẽ được thể chế bằng các văn bản pháp luật hoặc có thể là các văn bản mệnh lệnh hành chính khác. Ở đây, tác giả đưa ra sự phân định này vì dù biện pháp này có thể được thể hiện bằng các quy phạm pháp luật thông thường như phương thức trên nhưng bản chất của nó không quy định hình thức pháp lí của hoạt động mà là chỉ là phương thức trao quyền cho các cơ quan công quyền tác động trực tiếp đến nội dung các hoạt động đó. Cái mà nếu được điều chỉnh theo mức độ thứ nhất nó thuộc quyền quyết định độc lập của chủ thể quan hệ.
, thường thì những biện pháp này tác động trực tiếp đến nội dung quan hệ đó. Trên thực tế, người ta không gọi đây là một “biện pháp điều chỉnh” mà là một là một “biện pháp can thiệp”. Trong một giới hạn nào đó, nó sẽ làm thay đổi bản chất thực của quan hệ đó. Nhưng nó vẫn được vận dụng cũng khá thường xuyên đối với một số quan hệ bởi vì thực tế biện pháp đó là cần thiết bởi vì nó là phương thức duy nhất có khả năng bình ổn và giữ cho nó tồn tại (thường rất quan trọng đối với nhà nước, xã hội đó). Chính bởi những đặc tính này, nên việc sử dụng nó rất hạn chế, thường là chỉ đối với những quan hệ có khả năng tác động mạnh mẽ tới sự ổn định của trật tự thông thường của xã hội. đây là phương thức tác động trực tiếp. phương thức này thường được thực hiện bằng ba cách thức: 1) nhà nước tác động đến các chủ thể tham gia vào quan hệ bằng các Quyết định hành chính mang tính mệnh lệnh; 2) nhà nước đưa ra các hỗ trợ cho một số các chủ thể theo những đánh giá mang tính chủ quan Nếu như các quy phạm pháp luật đưa ra quy tắc xử sự mang tính thống nhất, áp dụng đồng bộ cho tất cả các đối tượng rơi vào những hoàn cảnh nhất định được xác định trước thì nhóm với phương thức này thường là nhóm các cá thể cá biệt được xác định theo ý chí chủ quan của nhà cầm quyền mà không có những tiêu chí thực sự rõ rang.
; 3) nhà nước trực tiếp tham gia vào các quan hệ này, như một chủ thể của quan hệ. Các ngân hàng thương mại nhà nước là một minh họa cho cách thức này. Trên lí thuyết, các ngân hàng thương mại cổ phần hay các ngân hàng thương mại nhà nước đều là các pháp nhân, có địa vị pháp lí như nhau, nhưng trên thực tế không thể phủ nhận, nhà nước là một chủ thể có tiềm lực kinh tế lớn nhất mà không có chủ thể nào có thể sánh được, vì thế, việc sử dụng phương thức này cũng cần được xem xét trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể khác. Hiện nay, nhà nước ta đang cố gắng hạn chế những hổ trợ mang tính bất bình đẳng đối với thành phần kinh tế này.
Căn cứ vào sự phân loại trên có thể thấy, nền kinh tế hiện đại của nhiều quốc gia trên thế giới đều đang điều chỉnh quan hệ huy động vốn của các ngân hàng thương mại theo cấp độ thứ hai, nhất là với mức độ ngày càng chặc chẽ hơn sau các cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, mức độ tác động như thế nào và với phương thức như thế nào là thích hợp luôn là một bài toán hết sức khó khăn với các nhà cầm quyền (về dài hạn là đối với các nhà lập pháp, ngắn hạn là đối với các ngân hàng trung ương). Vấn đề này biến động và thường cần có sự điều chỉnh liên tục. Một động thái sai lệch có thể mang đến những tác động không lường trước được đối với bản thân nền kinh tế đó.
Xét đơn lẻ hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại, có thể khái quát hóa những hình thức điều chỉnh sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật quy định về hình thức pháp lí của quan hệ như được đề cập ở trên, vấn đề này gần như mang tính đương nhiên, các quy định này như là hành lang pháp lí đảm bảo cho sự vận hành bình thường của bất kì quan hệ nào của các pháp nhân – những chủ thể pháp lí nhân tạo.
Thứ hai, lãi suất, đây là phương thức được sử dụng phổ biến nhất từ trước đến nay, và có tác động khá nhanh đến thị trường tiền tệ. Lãi suất mà nhà nước đưa ra không phải là sãi suất huy động mà là lãi suất cơ bản hoặc lãi suất trần, căn cứ vào đó các ngân hàng sẽ quyết định đến lãi suất huy động của mình. Biện pháp này nhìn chung khá tiện lợi và mang lại những tác động rõ rệt một cách nhanh chóng tuy nhiên nó cũng nó nhiều bất lợi mà khó có khả nâng khắc phục. Bất lợi lớn nhất của nó là phá vỡ bản chất kinh tế của lãi suất. Như được nhắc đến ở trên, lãi suất được xem là giá cả của tiền tệ, nó là hệ quả chính của quy luật cung cầu Thực ra, vì là một loại hàng hóa đặc biệt nên tiền tệ còn chịu tác động của những nhân tố khác như chính trị, chính sách tài chính, các quy định về ngoại hối,…
, cần được thiết lập bởi chính sự vận hành của các nguồn vốn trên thị trường. Các quyết định mang tính chủ quan của ngân hàng trung ương khi đưa ra mức lãi suất cơ bản thường không thể hiện được chính xác tình trạng của thị trường, chính vì vậy, có thể gây ra những xáo trộn trên thị trường tiền tệ, làm mất can
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các ngân hàng thương mai.doc