MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 3
I.Dịch vụ và vai trò của dịch vụ trong kinh doanh thương mại 3
1.Khái quát về dịch vụ và sản phẩm dịch vụ 3
2.Vai trò của dịch vụ thương mại 8
II.Các loại hình dịch vụ thương mại và các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thương mại . 10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 19
I. Sự phát triển thương mại Việt Nam trong thời gian qua 19
II. Sự ra đời và phát triển của các hình thức dịch vụ ở Việt Nam 31
III. Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam 41
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. 61
KẾT LUẬN 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4326 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoàn lại của các tổ chức, chính phủ nước ngoài. Tính từ năm 1993 đến năm 2004 viện trợ ODA cam kết cho Việt Nam là 28,82 tỷ USD, trong đó mức vốn đã thực hiện là trên 14 tỷ.
-Tiếp tục mở rộng thị trường thu hút đầu tư. Đến nay đã có trên 70 nước
vùng lãnh thổ có các doanh nghiệp FDI đầu tư ở Vịêt Nam, trong đó có nhiều công ty tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế, công nghệ, góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất, trình độ quản lý và nâng cao khả năng tiếp nhận công nghệ mới, hiện đại.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành những động lực của sản xuất, góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nếu năm 1991 xuất khẩu của khu vực FDI chỉ chiếm 4% thì đến năm 2004 đã chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
-Bên cạnh đó, nhờ những thành tựu cơ bản trên lĩnh vực kinh tế đã củng cố vị thế của đất nước về chính trị, ngoại giao, làm thất bại chính sách bao vây, cô lập đất nước của các thế lực thù địch.
Tóm lại sau 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn của lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực thương mại cũng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thay đổi bộ mặt của đất nướcvà nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song, bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được thì vẫn còn những tồn tại chưa khắc phục được. Nhận thức được vấn đề này, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra :” Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, và tệ tham nhũng không giảm, tác động xấu đến tình hình kinh tế xã hội; lĩnh vực xuất khẩu có những hạn chế về tạo nguồn hàng, chất lượng và sức cạnh tranh; xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô còn chiếm tỷ trọng lớn; nhiều mặt hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian hoặc gia công lên hiệu quả kinh tê không cao. Mức tăng trưởng giá trị các ngành dịch vụ chỉ đạt trên 50% kế hoạch, trong khi lĩnh vực này chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, nên hạn chế mức tăng trưởng chung của nền kinh tế”.
Chắc chắn rằng, với những thành tựu đã đạt đựơc và bài học kinh nghiệm rút ra trong 20 năm qua, trong thời gian tới thương mại Việt Nam sẽ có những bước phát triển vững chắc, chất lượng và hiệu quả.
II.Sự ra đời và phát triển của các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam
Có nhiều cách phân loại hoạt động dịch vụ thương mại, đơn giản và hay dùng nhất là cách phân loại theo tổ chức hoạt động. Theo cách này, dịch vụ thương mại sẽ được phân làm hai loại gồm dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung và dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý.
Như chúng ta nghiên cứu ở phần trước thì thương mại nước ta xuất hiện từ khá sớm. Nhưng trong buổi ban đầu ấy, phần lớn hoạt động thương mại và dịch vụ đều là tự phát, chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu cơ bản của cuộc sống thông qua trao đổi hàng hoá bằng hiện vật là chính.
Cùng với sự phát triển của sản xuất thì hoạt động thương mại dần trở thành một lĩnh vực không thể thiếu trong nền kinh tế. Thương mại tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ trong nước với nước ngoài. Đây chính là chức năng xã hội của thương mại, với chức năng này thì ngành thương mại phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu thị trường và sử dụng hợp lý các nguồn hàng nhằm thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của xã hội; thiết lập hợp lý các mối quan hệ trong nền kinh tế và thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra, thương mại còn đảm nhận chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông cũng như chức năng gắn sản xuất với thị trường và gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Hoạt động thương mại là hoạt động trao đổi hàng hoá do vậy chức năng còn lại của thương mại sẽ là chức năng thực hiện giá trị hàng hoá, dịch vụ. Những chức năng trên cho thấy tầm quan trọng rất lớn của thương mại không những với nền kinh tế mà còn với các doanh nghiệp, với đời sống nhân dân. Mặt khác, do tính chất và trình độ chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao nên các nhà sản xuất không thể trực tiếp bán sản phẩm của mình cho từng người tiêu dùng mà phải nhờ đến các nhà thương mại chuyên làm nhiệm vụ bán hàng và cung cấp các dịch vụ thương mại. Chính vì vậy, sự ra đời và phát triển của các hoạt động dịch vụ thương mại là khách quan và xuất phát từ yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa.
Xét trong lĩnh vực lưu thông bổ sung ta thấy: Tất cả các loại hình dịch vụ này đều có sự chuyển biến tích cực trong mấy năm trở lại đây, đó là việc tăng nhanh về quy mô, nâng cao về tính chất trình độ theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa. Điều này được thể hiện qua sự tăng liên tục và khá ổn định của tổng mức bán lẻ xã hội trong mấy năm gần đây: Năm 2005 đạt 475.380 tỷ đồng tăng 26,1% so với năm 2004;sau 5 năm từ 2001 đến 2005 tăng lên 230 nghìn tỷ đồng (gần 94%), bình quân mỗi năm tăng 46.500 tỷ đồng (16,7% ).
Xét một cách tương ứng mức bán lẻ hàng hoá tính theo đầu người cũng tăng theo động thái như vậy: năm 2005 đạt 5.749.201 đồng/ người, sau 5 năm (2001-2005) tăng lên 2.6 triệu đồng một người (gần 84%). Con số tổng mức hàng hoá hàng năm tương đương trên trên 20 tỷ USD, năm 2004 tăng hơn 24 tỷ USD, năm 2005 tăng gần 30 tỷ USD nói lên một sự đóng góp rất quan trọng vào GDP của ngành. Nó tạo ra một sự yên tâm về nội lực để tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời với sự tăng lên của tỷ trọng GDP thương mại nội địa trong GDP của toàn nền kinh tế thì sự tăng lên nhanh chóng về số lượng thương nhân, số lượng lao động đã cho phép khẳng định: ngành dịch vụ phân phối 5 năm qua đã có bước phát triển rõ rệt và trên diện rộng, trước hết là trên mặt quy mô như ta vừa xem xét. Về mặt tính chất và trình độ, khu vực phân phối đã và đang chuyển động theo hướng tích cực, đầy triển vọng. Không phải chỉ có sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ mà là cách đem hàng hóa dịch vụ này đến với người tiêu dùng. Trong 5 năm qua, sự đổi mới bước đầu về loại hình và phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này đã làm cho tiêu dùng trong nước có sự chuyển biến đáng kể nhất là ở chiều sâu.
Ngày càng xuất hiện nhiều loại hình phân phối mới hiện đại và thuận tiện hơn đáp ứng tốt nhu cầu cho cuộc sống năng động hiện tại. Từ chỗ người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu về hàng hoá 100% qua chợ và mạng lưới bán lẻ truyền thống, thì nay, qua chợ khoảng 40%, qua các cửa hàng độc lập và cửa hàng của doanh nghiệp khoảng 44%, qua hệ thống phân phối hiện đại khoảng 10% (nếu chỉ tính ở các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì con số này lên tới 20%). Từ chỗ chỉ xuất hiện một ít ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến nay trên cả nước hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại mọc lên khá nhiều, chúng được liên kết lại để hình thành nên các chuỗi phân phối như chuỗi các siêu thị như Co.op Mart, Intimex, Maximark, Citimart, chuỗi siêu thị và cửa hàng thời trang Vinatex thuộc tập đoàn dệt may Việt Nam… Đây là một xu hướng khả quan đang được nhiều nhà phân phối khác đã và đang triển khai mạnh. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp trong nước phải đương đầu với những thách thức từ phía các nhà phân phối nước ngoài. Các doanh nghiệp này có vốn lớn, kinh nghiệm quản lý và tổ chức hoạt động cùng với một mạng lưới hoạt động ở nhiều quốc gia nên có ưu thế rất lớn so với các doanh nghiệp phân phối nước nhà. Do vậy, nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phân phối trong nước mở rộng mạng lưới của mình bởi với cơ chế như hiện nay thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài được. Theo bài học kinh nghiệm từ Thái Lan thì nếu có một trung tâm bán lẻ của nước ngoài được xây dựng thì trong vòng bán kính 1km không ai có thể bán được cái gì. Tương tự như Thái Lan, bài học trong cuộc mở cửa phân phối của Trung Quốc được giới kinh doanh xem như một kinh nghiệm đáng giá cho các nước đi sau trong đó có Việt Nam ( Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001). Người ta tính rằng trong vòng bán kính 35 km trên đất Trung Quốc, nếu nhà bán lẻ số hai thế giới Carrefour mở một đại siêu thị thì đồng thời có 3 đại gia phân phối của Trung Quốc phá sản. Nguy cơ này có thể xảy ra với Việt Nam trong thời gian tới nếu mở cửa thị trường phân phối trong khi các nhà phân phối trong nước chưa có đối sách hợp lý. Để đối phó với nguy cơ cạnh tranh cao từ phía tập đoàn nước ngoài các doanh nghiệp trong nước đang có xu hướng mở rôg hco nghieehie lên khá nhiều, ộng các mối liên kết và củng cố mạng lưới chuỗi phân phối.
Hệ thống phân phối hiện đại thường phân bố tập trung ở khu vực thành thị còn ở nông thôn thì các cửa hàng truyền thống vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các hàng tiêu dùng cá nhân và hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất nhỏ. Hơn nữa do thói quen trong tiêu dùng của người Việt nên các cửa hàng truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của dân cư. Theo ước tính trên cả nước có khoảng 900 nghìn cửa hàng bán lẻ truyền thống và giải quyết việc làm cho khoảng 5 triệu lao động phổ thông. Gần đây, hệ thống bán lẻ đã xuất hiện một phương thức kinh doanh mới đó là nhượng quyền thương mại. Các doanh nghiệp Trung Nguyên, Kinh Đô và Nam An là các doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại ở nước ta, đây là một lĩnh vực khá mới mẻ song nó cho thấy sự nhạy bén và năng động của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế. Công ty phân phối và bán lẻ 24-seven là doanh nghiệp tiên phong nghiên cứu và phát triển chuỗi cửa hàng bán lẻ tiện lợi từ năm 2003 và được đánh giá cao tại Hội thảo kinh doanh toàn cầu tại Ấn Độ. Hiện tại, 24-seven phát triển hai thương hiệu bán lẻ tiện lợi là 24-seven Open 24H và Daily open 24H tại Việt Nam. Công ty đã khai trương cửa hàng nhượng quyền đầu tiên vào cuối năm 2005 và hiện nay đã có các cửa hàng nhượng quyền tại Hà Nội, Thái Nguyên và đang phát triển tại Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình…
Tuy nhiên, nếu nhìn toàn cảnh thương mại bán lẻ nước nhà thì chúng ta thấy nó vẫn còn thiếu sự quy hoạch và đầu tư đúng mức để có thể phát triển đồng bộ. Do vậy, trong thời gian tới ngành thương mại bán lẻ cần phải hướng tới là sự phát triển toàn diện bao gồm những kênh phân phối, chợ đầu mối, trung tâm thương mại, trung tâm bán buôn, bán lẻ…Thiếu sự phát triển của một trong những mô hình này ngành bán lẻ không thể gọi là phát triển chiến lược và đồng bộ.
Cùng với sự phát triển của lĩnh vực bán hàng hay phân phối hàng hoá thì hàng loạt các dịch vụ hậu phân phối chuyên nghiệp phát triển mạnh mẽ, trong đó phải kể đến dịch vụ giao nhận hàng hoá, dịch vụ kỹ thuật khách hàng, dịch vụ chuẩn bị hàng trước khi bán và đưa vào sử dụng, dịch vụ vận chuyển hàng hoá, dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị... Những dịch vụ này trước đây còn mang nặng tính tự phát thì nay đã đựơc tổ chức khá chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường và phục vụ tốt cho sản xuất. Trong đó, đáng kể nhất là việc ra đời hàng loạt các trung tâm dịch vụ logistics chuyên thực hiện một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hoá… Dịch vụ này giúp cho khách hàng có thể tiết kiệm được chi phí đầu vào trong các khâu dịch chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phát hàng hoá, hơn nữa còn hoàn toàn yên tâm vào chất lượng dịch vụ và sự đảm bảo an toàn cho hàng hoá. Từ xa xưa, hệ thống Logistics đã được ứng dụng vào hoạt động sản xuất và đời sống, đặc biệt là trong các lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều công đoạn khác nhau mà cần phải thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhiều chủ thể có liên quan. Ngày nay, hệ thống Logistics càng có vị trí quan trọng đối với hoạt động sản xuất và đời sống, được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau và phát triển thành ba nhóm riêng biệt:
- Hệ thống Logistics trong quân sự;
- Hệ thống Logistics trong sản xuất, kinh doanh, thương mại;
- Hệ thống Logistics quản lý và xã hội.
Gần đây, hệ thống Logistic đã bắt đầu được nghiên cứu và ứng dụng nhiều vào sản xuất, knh doanh thương mại và lưu thông phân phối ở Việt Nam. Trong đó, vận tải là một mắt xích quan trọng để mở rộng phát triển tiện ích này, tạo thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Để kinh doanh được liên tục đem lại hiệu quả cao thì một khâu quan trọng mà các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại không những không thể bỏ qua mà còn phải đặc biệt chú trọng đó là: khâu chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng. Muốn vậy thì công tác tạo nguồn và mau hàng phải được đặc biệt chú trọng, cùng với sự phát triển ngày càng cao và đa dạng hoá các phương thức vận tải thì doanh nghiệp có thể đặt hàng ở bất cứ nơi đâu, với bất kỳ đối tác nào. Tất nhiên hàng hoá phải phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, có như vậy hàng hoá nhập về mới tiêu thụ được. Do vậy, người làm kinh doanh cần thiết phải có óc quan sát, khả năng nhạy bén với thị trường và dám chấp nhận rủi ro kinh doanh để đưa ra những quyết định đúng lúc chớp thời cơ đem lại lợi nhuận cao. Trước đây, công tác này chưa được nhiều nhà phân phối chú trọng, do vậy họ thường bán những sản phẩm mà các doanh nghiệp sản xuất và nhà phân phối lớn chào bán cho họ. Nhưng nay thì khác họ đã quan tâm hơn đến công tác tìm hiểu thị trường và phát triển sản phẩm cung cấp, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh chứ không đơn thuần là lựa chọn nhà cung cấp như trước kia.
Khi đời sống nhân dân được nâng cao thì nhu cầu của họ cũng ngày một phong phú đa dạng. Ngày nay, người dân có khả năng mua rất nhiều sản phẩm hàng hoá có giá trị lớn, do vậy yêu cầu về phát triển các dịch vụ kỹ thuật khách hàng là đòi hỏi tất yếu của thị trường. Khi cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt thì các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ này như một công cụ để nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời thu hút được khách hàng. Dịch vụ này thường áp dụng cho các hàng hoá có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài và có hàm lượng kỹ thuật cao ví dụ như ôtô, xe máy, điện thoại di động… Để thu hút khách hàng các nhà thương mại thường cung cấp thêm dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng bên cạnh dịch vụ bảo hàng, nhà sản xuất thì có xu hướng uỷ quyền cho các đại lý thực hiện dịch vụ bảo hành cho sản phẩm của mình. Thực hiện dịch vụ này thì cả nhà sản xuất, nhà thương mại và cả người tiêu dùng cũng được lợi, vì vậy mô hình này đang được nhân rộng trong nhiều ngành hàng.
Cùng với sự “bung ra” của cơ chế thị trường thì dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị cũng được phát triển dưới hình thức mới cho phù hợp với cơ chế mới. Trước kia dịch vụ này chỉ gói gọn trong hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và theo khả năng sẵn có của nhà cung cấp dịch vụ. Nay, người thuê chỉ cần thuê tài chính rồi có thể lựa chọn máy móc, thiết bị cho phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp mình miễn là doanh nghiệp có thể chứng minh được tính khả quan và hiệu quả của dự án. Nhiều doanh nghiệp đã biết và sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh bằng những dự án đầu tư tốt. tuy nhiên do mới ra đời nên nó vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp biết đến. Do vậy, nhiều khi cần vốn là họ thường tìm đến các ngân hàng thương mại nhiều hơn là tìm đến với các doanh nghiệp cho thuê tài chính. Đến với dịch vụ cho thuê tài chính, doanh nghiệp sẽ được các chuyên gia thẩm định và cùng xây dựng dự án kinh doanh với họ do vậy khả năng thành công của dự án là rất lớn, không những vậy những công ty cho thuê tài chính sẽ xem xét, quyết định giảm tiền lãi cho thuê tài chính nếu bên thuê bị tổn thất về tài sản dẫn đến khó khăn về tài chính. Mức độ giảm lãi cho thuê tài chính tuỳ thuộc vào bên cho thuê khi xem xét khả năng tài chính của bên cho thuê.
Song song với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các loại hình dịch vụ nhất là các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho quá trình lưu thông hàng hoá ngày càng nở rộ và đem lại nhiều thành công cho các doanh nghiệp cung cấp cũng như khách hàng của họ. Phần trên chúng ta đây chúng ta đã xem xét các dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung, dưới đây sẽ là các dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý.
Xét trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý, ta thấy các dịch vụ này chỉ mang tính thương mại thuần tuý không đóng góp vào sự gia tăng của giá trị hàng hoá, song nó lại có tác dụng rất lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, rút ngắn quá trình ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng, tạo sự thuận tiện trong lưu thông hàng hoá… Cùng được xếp trong lĩnh vực này, các hoạt động như chào hàng, dịch vụ quảng cáo, hội chợ triển lãm đều là những công cụ quan trọng của hoạt động xúc tiến bán. Khi sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt thì cũng là lúc các hoạt động này được khai thác và sử dụng một cách triệt để giữa các doanh nghiệp cạnh tranh.
Trong đó, do ưu thế của mình hoạt động quảng cáo được hầu hết các doanh nghiệp áp dụng do nó tác dụng đến người tiêu dùng một cách thường xuyên, liên tục và rất hiệu quả. Còn hội chợ triển lãm thì không được tổ chức thường xuyên, liên tục và các doanh nghiệp sẽ rất bị động trong chuẩn bị. Hoạt động này giúp các doanh nghiệp có thể giới thiệu sản phẩm, bán hàng và kí kết các hợp đồng kinh tế với các chi phí thấp hơn so với các hình thức khác. Một ví dụ tiêu biểu về tác dụng của hoạt động này là chỉ sau 2 ngày hoạt động thì hội chợ Vietnam Expro 2006 đã thu hút được một lượng lớn khách tham quan giao dịch và không ít doanh nghiệp đã tìm được những đối tác quan trọng là doanh nghiệp trong và ngoài nước. Theo Ban tổ chức thì Vietnam Expro 2006 thì chỉ sau 2 ngày hoạt động đã có 4 hợp đồng kinh tế được kí kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài, có những hợp đồng có giá trị lên đến hàng chục triệu USD, như hợp đồng giữa tập đoàn PRIME GROUP Việt Nam và công ty CN internatinal của Hàn Quốc có tổng giá trị lên đến 16,675 triệu USD với sản phẩm xuất khẩu là gạch ốp lát creamic. Điều đó cho thấy hiệu quả rất lớn của hội chợ, triển lãm mà chúng ta cần khai thác để có thể phát huy được hết cơ hội cho các doanh nghiệp nước nhà.
Cùng với sự phát triển của thương mại và dịch vụ, vấn đề chuyên môn hoá ngày càng được đề cao, và sự ra đời của các công ty chuyên tư vấn là một vấn đề tất yếu khách quan. Dịch vụ tư vấn được hiểu là những hoạt động do một cá nhân hay một đơn vị bên ngoài thực hiện. Với cách hiểu như vậy, dịch vụ tư vấn là các dịch vụ trợ giúp cho cá nhân , tổ chức cung cấp trên thị trường nhằm đáp ứng được các nhu cầu của tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu.
Dịch vụ tư vấn xuất hiện rất sớm ở các nước phát triển. Ngay từ khi ra đời nó đã gắn liền với sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Dịch vụ này giúp cho các doanh nghiệp phòng ngừa được các rủi ro có thể xảy ra với chi phí thấp hơn so với hậu quả các rủi rovà so với chi phí đào tạo nhân lực trong lĩnh vực tư vấn.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, hàng loạt công ty tư vấn ra đời đã giúp cho các doanh nghiệp sản xuât kinh doanh ngày càng phát triển, các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam. Hầu hết các sở Công nghiệp, sở Khoa học và công nghệ, sở Tài nguyên môi trường…của 64 tỉnh thành trong cả nước đều thành lập các trung tâm tư vấn, và các công ty tư vấn tư nhân cũng như các công ty tư vấn của các bộ, ngành, hiệp hội… cũng mọc lên “như nấm sau mưa” . Điều này cho thấy vai trò không thể phủ nhận của các công ty tư vấn. Theo VECAS, trong khoảng 10 năm trở lại đây, các doanh nghiệp tư vấn đã phát triển từ 20 doanh nghiệp ban đầu đến nay đã lên tới gần 1000 doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm trên 50% và có xu hướng tăng cao hơn.
Mặc dù sự ra đời của các tổ chức tư vấn đã mang lại nhiều thành quả đáng kể, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình ra thị trường quốc tê, giúp cho các cơ quan quản lý thực hiện tốt chức năng của mình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề bất cập liên quan đến hoạt động tư vấn của Việt Nam.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển cao của sản xuất hàng hoá mà các loại hình dịch vụ giám định hàng hoá cũng rất phát triển, nó cho người sử dụng dịch vụ một cái nhìn khách quan và chính xác về chất lượng hàng hoá của mình.
Như vậy, hầu hết các dịch vụ thương mại ở Việt Nam đều do yêu cầu khách quan của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề là các doanh nghiệp của ta cần phải chủ động nắm bắt được các cơ hội của mình, bởi hiện nay khi mà Việt Nam sắp gia nhập WTO nhiều chính sách bảo hộ cho các ngành không còn, các doanh nghiệp gặp phải sự cạnh tranh vô cùng gay gắt ngay trên sân nhà. Để thực hiện được điều này đòi hỏi Nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư và có những chính sách đồng bộ hợp lý tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ thương mại dịch vụ trong thời gian tới.
III. Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế toàn diện vào năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có một sự chuyển mình đáng kể. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đã làm thay nhận thức về tầm quan trọng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế. Cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế nói chung, khu vực dịch vụ đã có những bước tăng trưởng vượt bậc trong vòng 20 năm qua.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khu vực dịch vụ chỉ được giới hạn trong một phạm vi rất hẹp và không được chú trọng tạo điều kiện phát triển. Các loại hình dịch vụ rất nghèo nàn, hầu như chỉ bao gồm các hình thức gắn bó trực tiếp với sản xuất như vận tải và thương nghiệp. Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh tế nói chung và cho hoạt động thương nghiệp nói riêng hoặc còn thiếu, hoặc còn chưa thích hợp với một nền kinh tế thị trường.
Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế, các loại hình dịch vụ ngày càng trở nên đa dạng hơn, xuất hiện các loại dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, thương mại, tư vấn, đào tạo…Trong đó, lĩnh vực dịch vụ thương mại phát triển rất sôi động với nhiều hình thức dịch vụ mới xuất hiện ở Việt Nam và có sự tăng trưởng cao so với các hình thức dịch vụ cũ. Song tựu chung lại, người ta có thể chia dịch vụ thương mại ra làm 2 mảng đó là dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung và dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý. Trước hết ta xem xét dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung:
1.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung
Bao gồm các loại hình dịch vụ có tác dụng tiếp tục thực hiện quá trình sản xuất trong khâu lưu thông và thực hiện chức năng giá trị cho hàng hoá.
- Bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách.
Trong bán hàng người ta lại chia ra làm 2 hình thức bán buôn và bán lẻ, thường thì bán buôn hay đi kèm với dịch vụ vận chuyển hàng hoá, còn bán lẻ thì tuỳ từng hàng hoá nhất định mà doanh nghiệp quyết định có tổ chức dịch vụ này hay không. Việc doanh nghiệp thương mại thực hiện thêm dịch vụ này sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho các doanh nghiệp khác ở chỗ họ có thể tập trung phương tiện vận tải vào các hoạt động khác, tạo nên sự chuyên môn hoá trong các doanh nghiệpvà góp phần sử dụng hợp lý sức lao động, phương tiện vận tải, giảm chi phí lưu thông. Còn đối với các hộ gia đình, dịch vụ này giúp họ thuận tiện trong việc tiêu dùng rất nhiều bởi họ có thể mua sắm thoải mái mà không cần để ý đến việc mình có mang hết hàng hoá đó được không bởi doanh nghiệp có phương tiện chuyên dùng để vận chuyển đối với những hàng hoá cồng kềnh hay có yêu cầu đặc biệt trong bảo quản, vận chuyển. Hiện nay ở nước ta thường chỉ có dịch vụ bán ga là có tổ chức dịch vụ vận chuyển hàng hoá mà người mua chỉ cần gọi điện thì người bán sẽ mang đến tận nhà mặc dù họ còn không hề biết mặt nhau.
Để phát triển loại hình dịch vụ bán hàng và vận chuyển hàng này thì doanh nghiệp cần tổ chức được một đội ngũ bán hàng và một đội ngũ vận chuyển chuyên nghiệp, cùng với một hệ thống phương tiện vận tải hiện đại chuyên dùng.
Ngày nay, việc bán hàng không đơn thuần chỉ là thực hiện việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho khách hàng mà nó là một quá trình. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp thương mại phải tuyển chọn được một đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp có đầy đủ các kỹ năng về nghệ thuật bán hàng như: biết nắm bắt tâm lý và nhu cầu của khách hàng, tìm cách thoả mãn những nhu cầu đó, giải quyết được sự phản đối của khách hàng ( nếu có) và sử dụng các chiến lượcthuyết phục khách hàng một cách có hiệu quả. Đơn giản là phải làm cho nhân viên hiểu được rằng :“ Trong công ty, chỉ có một ông chủ duy nhất, đó là khách hàng. Khách hàng có thể đuổi việc bất kỳ ai, từ giám đốc đến nhân viên, đơn giản chỉ bằng một hành động mua hàng ở công ty khác” (Sam Walton-Người sáng lập ra hệ thống siêu thị Wal-Mart). Thật vậy, khách hàng chính là lí do tồn tại của các doanh nghiệp . Họ là người thanh toán các hoá đơn cũng như trả lương cho các nhân viên, vậy thì tại sao họ không được phục vụ những dịch vụ tốt nhất với một thái độ niềm nở nhất từ các nhân viên.
Việc doanh nghiệp coi khách hàng là trung tâm và đề cao chữ “tín” trong kinh doanh sẽ loại bỏ dần tư tưởng “mua đứt”, “bán đoạn” của kiểu kinh doanh nhỏ lẻ chụp giật trước đây và hiện nay vẫn còn tồn tại trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35844.doc