MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN THỜI GIAN QUA 2
1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân 2
1.1. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện 2
1.2. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp 5
1.3. Tạo nhiều công ăn việc làm mới 8
1.4. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu 9
1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách 9
1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 9
1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ 10
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân 11
2.1. Những mặt hạn chế 11
2.2. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết 11
3. Nguyên nhân và những tồn tại 16
3.1. Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân 16
3.2. Những nguyên nhân từ cơ chế, chính sách 16
3.3. Những nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp 17
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 18
1. Xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 18
2. Phải tạo môi trường thông thoáng, cạnh tranh bình đẳng 19
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng 20
4. Doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp 22
5. Phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu thập và cung cấp thông tin, mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho doanh nghiệp 23
KẾT LUẬN 24
Tài liệu tham khảo 25
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (ở Tp.Hồ Chí Minh là 12,5%). Nhìn chung, tỷ lệ này ở địa phương là rất thấp, dưới 10%; tuy nhiên cũng có một số cá biệt như; Hà Giang chiếm 60% xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%.
1.5. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào nguồn ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của DNNN là 21,6% và 23,4% ). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu tăng 29,5% so với cùng kỳ các năm trước.
So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu của ngân sách địa phương là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình 19%, Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33% v.v..
Nhìn chung đóng góp trực tiếp vào nguồn ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua là chưa tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng góp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước.
1.6. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và các cơ chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến quy mô hoạt động, đã đóng góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc dẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động tích cực này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế nhờ tăng thêm tính cạnh tranh trên thị trường v.v…
Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và tiếp tục duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đầu năm 2003 là 18,4% (so với cùng kỳ năm 2002). Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất ở một số địa phương tăng với mức cao như Hà Nội: 25,8%, Hải Phòng: 23%, Hà Tây: 38,4%, Hải Dương: 25,2%, Vĩnh Phúc 27,2%, Bình Dương: 25,6% và cần thơ: 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc v.v..Đến nay, tỷ trọng giá trị sản xuất của doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần trăm so với thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2004, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp.
1.7. Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ
Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào việt Nam mang theo những công nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng tiến bộ công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Năm 2002, ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Cho đến nay, mới chỉ có một số DNNN quy mô lớn (chủ yếu là các tổng công ty 90, 91) có cơ sở hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho nghiên cứu, triển khai của khối DNNN ở Việt Nam cũng còn ở mức thấp, khoảng 0,2% doanh thu, qúa thấp so với tỷ trọng 5-10% của doanh nghiệp các nước phát triển. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có động lực nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sáng tạo công nghệ. Hàm lượng công nghệ cao và chât xám trong hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động.
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế Việt Nam có quy mô sản xuất nhỏ và manh mún, trình độ chuyên môn hoá chưa cao, nguồn vốn tài chính và vốn nhân lực hạn chế, còn có những nguyên nhân khác như môi trường kinh doanh hiện tại chưa tạo áp lực đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới công nghệ. Chính sách bảo hộ bất hợp lý, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cơ chế bao cấp, nhiều đặc quyền còn tồn tại với một bộ phận doanh nghiệp, sự bất ổn định trong cơ chế chính sách là những yếu tố làm cho các doanh nghiệpViệt Nam có xu hướng muốn tìm kiếm những lợi ích đặc quyền chính có được lợi ích ngắn hạn hơn là xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn,v.v..
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân
2.1. Những mặt hạn chế
Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn yếu kém về đầu tư vốn, trình độ công nghệ, tay nghề của công nhân, năng lực quản lý và những yếu tố khác, cũng như còn gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết.
Nhìn chung, tuy các doanh nghiệp tư nhân còn đang chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, song quy mô còn quá nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu kém, khó ứng phó trước những tác động bên ngoài, hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường.
Khả năng tài chính còn hạn chế, dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ bé, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Kém hiểu biết về luật pháp.
2.2. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết
2.2.1. Vấn đề đất đai
Luật Đất đai năm 2003 và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật được ban hành trong năm 2004 là khung pháp luật rất quan trọng, mang tính đột phá, dỡ bỏ nhiều rào cản, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân về quyền có mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn rất nhiều tồn tại cần phải khắc phục, trong đó có ba nhóm vấn đề bức xúc nhất:
Thứ nhất, cơ chế quản lý nhà nước về đất đai. Hiện tại, vẫn còn nhiều đầu mối trong việc quản lý đất đai dẫn đến khó khăn khi xác định vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý khác nhau. Thực tế là ở cấp địa phương, doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp cận với nhiều cơ quan chức năng khác nhau để giải quyết vấn đề đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, vấn đề quy hoặch đất. Nhiều doanh nghiệp rất bức xúc trước tình trạng nhiều thông tin không rõ ràng, không đầy đủ về quy hoạch cũng như kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Tình trạng các địa phương không làm tốt công tác quy hoạch đất đai và tình trạng quản lý nhà nước về đất đai yếu kém đang là hiện tượng phổ biến ở các địa phương. Điều này gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và đầu tư mở rộng sản xuất. Cho đến năm 2004, tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai cho kinh doanh vẫn còn rất thấp. Thủ tục để doanh nghiệp sử dụng đất trong các KCN còn rất phức tạp, mất nhiều thời gian; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn còn rất chậm khiến doanh nghiệp không yên tấm sản xuất, hạn chế quyền thế chấp để vay vốn. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các chính sách tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh doanh hiện nay dường như mới chỉ phục vụ cho một nhom đối tượng doanh nghiệp có quy mô lớn, trong khi đó ở nước ta hiện nay, có tới 96% doanh nghiệp là quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể vào được các khu công nghiệp do giá thuê đất qúa cao.
Thứ ba, vẫn còn tồn tại bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước được giao đất không thu tiền sử dụng đất; chủ chương về giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải bao gồm giá trị quyền sử dụng đất chưa được thực hiện nhất quán.
2.2.2. Vấn đề thuế và hải quan
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhưng vấn đề bức xúc nhất hiện nay là việc thực thi chính sách còn yếu kém. Nhiều chính sách về thuế, hải quan đã được Chính phủ, Bộ Tài chính hứa hẹn giải quyết trong các cuộc tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp trước đây, nhưng cho đến cuối năm 2004 vẫn còn rất nhiều vướng mắc. Khuôn khổ pháp lý và chính sách vẫn chưa thực sự đến với các doanh nghiệp. Kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy mới có khoảng 50% doanh nghiệp hài lòng với các thủ tục và công chức của ngành thúê. Trong hơn một năm, kể từ Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp doanh nghiệp tháng 3 năm 2003 đến Hội nghị tháng 10 năm 2004 đã có trên 1.000 kiến nghị của doanh nghiệp về lĩnh vực thuế và hải quan. Các vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế và hải quan thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau:
Xác định thuế GTGT đầu vào và thủ tục hoàn thuế GTGT là hai vấn đề bức xúc nhất của doanh nghiệp. Về tính hợp lệ của các khoản thuế GTGT đầu vào, doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong việc xác minh hóa đơn GTGT. Việc chứng minh các nguồn gốc các khoản chi phí mua ngoài trị giá từ 100.000 đồng trở lên bằng hoá đơn đã gây ra nhiều trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế là nhiều đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh nghiệp không có hoặc không đăng ký mua hoá đơn với cơ quan thuế (như nông dân, các hộ kinh doanh cá thể bán nông sản, dịch vụ). Như vậy, khi mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào của các cơ sở hoặc cá nhân không có hoá đơn GTGT thì doanh nghiệp không được tính vào chi phí hợp lý và buộc phải chịu thuế, hoặc khi xác minh tính hợp lệ của cơ sở sản xuất hoá đơn, cơ quan thuế không tìm được vì cơ sở đó đã chấm dứt hoạt động (bỏ trốn) thì cơ quan thuế lại không cho doanh nghiệp được sử dụng những hoá đơn này để khấu trừ và thậm chí còn phạt doanh nghiệp mua hàng. Đây là một nghịch lý vì trách nhiệm quản lý, kiểm tra việc sử dụng và thu hồi hoá đơn của các cơ sở đã chấm dứt hoạt động là của cơ quan thuế.
Theo quy định, từ lúc doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hoàn thuế thì cơ quan thuế phải giải quyết trong thời hạn không qúa 60 ngày. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp phải chờ từ 3-6 tháng, cá biệt có một số doanh nghiệp phải chờ từ 2-3 năm.
Thời gian hoàn thuế kéo dài làm cho nhiều doanh nghiệp không thể tận dụng nguồn tài chính của mình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng, chịu lãi trong khi chờ đợi được hoàn thuế, hàng tỷ đồng vốn thực có của doanh nghiệp đang bị cơ quan thuế kìm giữ, làm giảm khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp chỉ được đưa chi phí khoản chi cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị… tối đa là 10% của tổng các chi phí hợp lý. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, quảng cáo và tiếp thị là một phần quan trọng của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp mới thành lập. Thực tế cho thấy, trong thời gian đầu, chi phí quảng cáo tiếp thị có thể lên tới 30% tổng chi phí của doanh nghiệp. Như vậy, quy định khống chế 10% đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn, do đó, quảng cáo trên báo, đài chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn.
Thuế nhập khẩu của một số loại hàng hóa không hợp lý đang làm cho nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường nội địa.
Chính sách thuế không ổn định, việc hướng dẫn thực hiện chưa thực sự chi tiết, trong khi thực tiễn lại có nhiều hoạt động phát sinh dẫn đến cách hiểu, cách thực hiện khác nhau, thiếu đồng bộ, chưa thống nhất và doanh nghiệp bị thiệt thòi. Việc áp mã số hàng hoá, thuế suất hàng hóa trong nước trong nhiều trường hợp còn lúng túng, một số tiêu thức phân biệt chưa rõ ràng đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kê khai, khấu trừ thuế. Các quy trình giải quyết hoàn thuế, thủ tục hải quan, phân loại hàng hoá, áp mã số thuế, giá tính thuế v.v..vẫn còn chậm so với yêu cầu; hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan chức năng khác còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp, không sử dụng kết quả của nhau; thiếu sự bình đẳng giữa các cơ quan thuế và doanh nghiệp trong xử lý truy thu, phạt chậm nộp, hoàn thuế chậm hoặc gây thiệt hại, khó khăn cho doanh nghiệp. Một số cán bộ trong ngành thuế còn gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp.
2.2.3. Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính rườm rà đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp. Theo Hội hội Công thương Thành phố Hà Nội, sau khi đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp còn phải hoàn tất nhiều thủ tục khác nữa và mất nhiều thời gian thì mới có thể chính thức hoạt động như xin phép khắc dấu, đăng ký mã số thuế, xin cấp sổ mua hoá đơn… sau khi nhận giấy đăng ký kinh doanh, trung bình một doanh nghiệp phải mất từ 54 – 63 ngày mới có thể hoàn thành hàng loạt công đoạn với nhiều thủ tục. Cho đến nay, khi gia nhập thị trường, doanh nghiệp còn phải trải qua 6 bước: 1) đăng ký kinh doanh; 2) khắc dấu; 3) đăng ký mã số thuế; 4) đóng thuế môn bài; 5) mua hoá đơn lần đầu; 6) đăng báo. Doanh nghiệp chi phí khoảng 170 USD (1/3 GDP bình quân/người) để hoàn thành công đoạn gia nhập thị trường. Trong khi đó, ở Australia chỉ cần 2 thủ tục và 2 ngày với chi phí 2% GDP bình quân/người; Singapore chỉ cần 7 thủ tục trong 8 ngày với chi phí bằng 1,2% GDP bình quân/người để thành lập doanh nghiệp.
Cho đến nay, một số bộ, UBND tỉnh vẫn có lệnh cấm kinh doanh áp dụng riêng cho ngành, địa phương mình, phổ biến nhất là nhóm ngành, nghề được coi là nhạy cảm. Trong hơn 4 năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ba lần chỉ thị UBND các địa phương bãi bỏ ngay các quy định không đúng thẩm quyền về tạm dừng hoặc cấm kinh doanh. Tuy nhiên, hiện tượng này không giảm mà còn tăng lên. Theo thống kê chưa đầy đủ của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, đến tháng 6 năm 2004 vẫn còn một số bộ và 12 tỉnh/thành phố còn duy trì các lệnh cấm, hoặc tạm dừng đăng ký kinh doanh không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong bốn năm qua, đã có hàng chục giấy phép được ban hành mới, không ít hiện tượng làm trái quy định về đăng ký kinh doanh vẫn tiếp tục tồn tại như đòi nộp thêm hồ sơ trái quy định (xác nhận lý lịch tư pháp của người chủ doanh nghiệp, xác nhận địa chỉ, trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại diện v.v..), xác nhận hợp đồng thuê trụ sở, địa điểm kinh doanh, đòi hỏi giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh trước khi thành lập doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục hành chính là một khâu có tốc độ chuyển biến chậm mặc dù nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhiều thủ tục mặc dù đã được cải hiện song vẫn chưa đáp ứng được với những thay đổi môi trường bên ngoài, không so sánh được với những cải cách của các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp đang thực sự bức xúc với những vướng mắc trong thủ tục, trong cách hành sử của một bộ phận công chức đối với các quy định của luật pháp. Tình trạng chậm trễ trong việc thực hiện các chính sách đang trở lên khá phổ biến trong các cơ quan hành chính. Sự nhất quán trong cơ chế chính sách, giữa các quy định pháp luật và việc thực thi chính sách của các cấp chính quyền đang nổi lên như là điểm nóng nhất.
2.2.4. Môi trường pháp lý vẫn đang là vấn đề bức xúc nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Một số văn bản pháp lý chưa theo kịp với các chế tài quy định trong Luật Doanh nghiệp. Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý vẫn là hiện tượng phổ biến như thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghế tư nhân pháp lý, hướng dẫn xác định thân nhân người thành lập doanh nghiệp.
Trên thực tế, môi trường kinh doanh sau Luật vẫn chưa thực sự bằng phẳng, thậm chí có những tác động làm méo mó thể chế kinh tế thị trường như xu hướng hình thành sự hoá các quan hệ dân sự. Một số bộ ngành và địa phương có lúng túng trong công tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp. Những bức xúc về môi trường pháp lý cũng như sự yếu kém, bất cập của các cơ quan quản lý nhà nước ở một số nơi đã làm sai lệch, méo mó những chủ trương, chính sách của Đảng kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Chi phí trung gian vẫn đang ở mức cao làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hiện nay, giá thành một số sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp cao hơn các nước ASEAN và Trung Quốc từ 1,2 đến 1,5 lần. Chẳng hạn, giá điện, dầu, than, ga ở nước ta cao hơn 30% đến 40%; chi phí vận tải cao hơn 1,5 lần; cước điện thoại Internet vẫn cao hơn 6 lần so với Singapore, gần 5 lần so với Philipines, 3 lần so với Indonesia. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải đóng nhiều lệ phí, loại phí khác. Mức chi phí đầu vào cao đã tác động đến giá thành sản phẩm làm cho kinh tế tư nhân khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và hạn chế vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và quốc tế.
Ngoài ra, cho đến năm 2004, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều vấn đề bức xúc, như sự bình đẳn thực sự giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tiếp cận các nguồn vốn tín dụng; sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như điện, nước, bưu chính, viễn thông…; việc cụ thể hoá quyền của các doanh nghiệp theo nguyên tắc doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp luật không cấm như doanh nghiệp được quyền thuê lao động nước ngoài mà không cần xin phép, quyền góp vốn liên doanh, liên kết và bán cổ phần với nhà đầu tư nước ngoài ở những ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cấm; thực hiện đồng bộ chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ; kiện toàn hệ thống kinh doanh trong toàn quốc; thành lập ngân hàng dữ liệu cung cấp thông tin về khoa học – công nghệ mới; hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến thương mại, thâm nhập thị trường mới, hỗ trợ thông tin thị trường; đào tạo doanh nhân; xây dựng vườn ươm doanh nghiệp; thực hiện các quy định kiểm tra sau đăng ký kinh doanh…Các vấn đề này đã được cộng đồng doanh nghiệp đề xuất và đã được Chính phủ, các bộ, ngành hứa sẽ tiếp tục giải quyết.
Một bộ phận cán bộ, công chức và dư luận xã hội chưa thực sự có cái nhìn đồng thuận về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân
Sở dĩ như vậy là do nhận thức và tâm lý, thói quen tư duy cũ, một bộ phận không nhỏ trong xã hội, trong đó có cả cán bộ, công chức nhà nước vẫn chưa hết mặc cảm với kinh tế tư nhân, chưa có cách nhìn nhận đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chưa thực sự quán triệt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước ta. Vẫn có nhiều ý kiến cho rằng kinh tế tư nhân là đối lập với định hướng XHCN. Tâm lý dè dặt, e ngại đối với kinh tế tư nhân đang là rào cản đối với sự phát triển của khu vực kinh tế này. Từ một số biểu hiện sai trái của một số ít doanh nghiệp, một số người còn cho rằng kinh tế tư nhân là trốn lậu thuế, làm ăn phi pháp v.v.. Mặc dù đã gần 20 năm đổi mới nhưng thái độ và cách nhìn nhận đối với kinh tế tư nhân như trên đã làm giảm ý chí kinh doanh và tinh thần lập nghiệp của một bộ phận dân cư, đặc biệt là các doanh nhân.
Nguyên nhân và những tồn tại
Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân
Một yếu tố không thể nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịch sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hàng ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Tư duy cũ của thể chế kế hoạch hoá tập trung không công nhận thị trường, không công nhận kinh tế tư nhân v.v.. vẫn còn tồn tại, chi phối một số cán bộ lập cơ chế chính sách, luật pháp cũng như trong hoạt động thực tiễn của bộ máy nhà nước.
Giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách, lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn DNNN có những lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân hàng như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của Chính phủ dễ dàng hơn.
Luật Doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh doanh. Tuy vậy, khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm dụng bởi một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở người dân kinh doanh các ngành kinh tế mới.
Những nguyên nhân từ cơ chế, chính sách
Hiện nay có 4 rào cản chính đang hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đó là:
Hiện đang tồn tại mâu thuẫn: đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, Đảng và Nhà nước đã đề ra những quyết sách để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, hâm nóng lại môi trường đầu tư trong nhân dân và doanh nghiệp, những bộ máy quản lý nhà nước và công chức chuyển không kịp. Bộ máy chưa được sắp xếp theo yêu cầu của thể chế mới, đang còn nhiều trường hợp bộ máy trùng lắp, nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng đùn đẩy nhau, trách nhiệm không rõ ràng. Vẫn còn không ít công chức lưu luyến cung cách quản lý cũ, không chịu rời bỏ thứ quyền lực đã nhiều năm gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Còn tồn tại nhiều thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết hoặc bất cập với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu, tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến doanh nghiệp đánh mất những cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn cho các giao dịch làm ăn của mình.
Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp quy do bộ, ngành nào dự thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội, do đó nhiều văn bản không khả thi, không đi vào cuộc sống, ngược lại, gò bó, trói buộc người dân và doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, Chính phủ đã có Nghị định 61, ngày 15-8-1998, quy định rõ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Luật Doanh nghiệp cũng quy định rõ: việc thanh tra tài chính được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp; thời hạn thanh tra không quá 30 ngày; khi thanh tra phải có quyết định và kết thúc phải có biên bản kết luận; công chức lợi dụng thanh tra để sách nhiễu doanh nghiệp thì phải bị xử lý, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không nhiều doanh nghiệp dám thực hiện quyền “tư chối” của mình trong trường hợp thanh tra, kiểm tra không đúng pháp luật. Bởi lẽ, doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính là việc “dân kiện quan”, rất không dễ dàng, nên phần lớn đều tìm giải pháp mềm dẻo hơn để được việc và khỏi mất thời gian. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và bộ máy của Toà Hành chính đang có nhiều bất cập.
Những nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp
Một số nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp dân doanh dường như phát triển chậm về quy mô (kể cả quy mô về vốn và lao động). Có một số cách giải thích cho tình trạng này. Thứ nhất, các doanh nghiệp lúc mới đăng ký thường rất nhỏ và phải mất vài năm để đạt tới quy mô lao động từ vài chục đến vài trăm người. Thứ hai, những khó khăn về vốn, thị trường và bí quyết sản xuất, kinh doanh cản trở doanh nghiệp tăng quy mô. Thứ ba, đó là những lo lắng về rủi ro đầu tư và rủi ro kinh doanh. Thứ tư là những khó khăn về hành chính, trong đó có cả sự sách nhiễu từ phía các cơ quan công quyền, đã cản trở doanh nghiệp mở rộng, phát triển.
Khó khăn về vốn
Tình trạng thiếu vốn rất phổ biến của bản thân các doanh nghiệp tư nhân mới được thành lập và phát triển trong những năm gần đây, nên vốn đầu tư và tài sản ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay cần thiết, chưa đủ uy tín để vay mà không cần thế chấp.
Hệ thống ngân hàng thương mại mà nòng cốt là ngân hàng thương mại quốc doanh lại ngần ngại cho các doanh nghiệp tư nhân vay vốn. Bên cạnh đó, các quy định về thế chấp còn chưa đầy đủ, phức tạp, tình trang ngâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50010.DOC