Đề tài Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc phát triển kinh tế hàng hoá là một yêu cầu bức thiết, khách quan – có thể xem đây là con đường cơ bản để đưa kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu so với xu thế phát triển chung của toàn cầu. Đồng thời chúng ta phải thiết lập được một môi trường kinh tế, hành lang pháp lý thuận lợi nhằm hấp dẫn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế – qua đó phát triển kinh tế hàng hoá lên một tầm cao, thúc đẩy thị trường ở các cấp độ khác nhau, đan xen phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, cho nên ngoài những đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán hàng hóa tin tức. Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể hữu cơ, các loại thị trường liên hệ với nhau, nương dựa vào nhau và chế ước lẫn nhau, một loại thị trường nào đó trưởng thành không đầy đủ hoặc vận hành không thông suốt, điều đó có thể liên quan tới các thị trường khác, thậm chí ảnh hưởng đến sự phát huy công năng của cả hệ thống thị trường. Ví dụ, nếu thị trường tư liệu sản xuất trưởng thành muộn, thì thị trường hàng tiêu dùng sẽ có thể vì sự cung cấp tư liệu sản xuất không đủ mà khó có thể được phong phú, thị trường tiền vốn cũng có thể vì nhu cầu tư liệu sản xuất không đủ mà khó có thể sôi động. Tương tự, nếu không có thị trường hàng tiêu dùng cung cấp phong phú hàng tiêu dùng, không có thị trường sức lao động cung cấp đầy đủ những người lao động thành thạo, không có thị trường tiền vốn cung cấp tiền vốn đầy đủ, sự phát triển của thị trường tư liệu sản xuất cũng sẽ bị hạn chế. Mức độ trưởng thành của thị trường là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều kiện quan trọng của sự phát triển kinh tế thị trường. Trước hết, hệ thống thị trường hoàn thiện là yêu cầu bản chất của việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của công cuộc cải cách thể chế kinh tế của nước ta, mà thực chất của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phải làm cho thị trường dưới sự điều hành vĩ mô của nhà nước phát huy được tác dụng có tính cơ sở của việc phân phối bố trí tài nguyên. Hệ thống thị trường hoàn thiện là cơ sở vận hành và vật dẫn vận hành trong việc phát huy tác dụng có tính cơ sở của việc phân phối bố trí tài nguyên của thị trường. Mức độ trưởng thành của hệ thống thị trường phản ánh mức độ tác dụng phân phối bố trí tài nguyên của thị trường, cũng tiêu chí cho mức độ thành thục của thể chế kinh tế thị trường. Đồng thời, bồi dưỡng và phát động hệ thống hệ thống thị trường lại là trụ cột quan trọng của việc xây lắp nên cái khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường. Chế độ doanh nghiệp hiện đại và hệ thống điều hành vĩ mô hoàn thiện là nội dung quan trọng của cái khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Còn muốn kiến lập chế độ doanh nghiệp hiện đại, làm cho doanh nghiệp trở thành người sản xuất kinh doanh hàng hóa được tự chủ kinh doanh, tự do lời lỗ, tự hối thúc mình hướngtới kỳ vọng, tự phát triển, thật sự trở thành chủ thể trong hoạt động thị trường, thì phải có hệ thống thị trường phát triển làm tiền đề. Hệ thống điều hành vĩ mô mới chủ yếu là vận dụng các chính sách kinh tế và đòn bẩy kinh tế như: tín dụng, lãi suất, tỷ giá, tài chính, thuế, tiền lương, giá cả..., thông qua việc điều tiết khống chế thị trường để hướng dẫn doanh nghiệp, đối với doanh nghiệp thực hiện việc quản lý gián tiếp, đó cũng không tách khỏi hệ thống thị trường hoàn thiện. Thứ ba, hệ thống thị trường hoàn thiện là điều kiện bên ngoài không thể thiếu được của việc chuyển đổi thể chế kinh tế . Chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp quốc doanh, tăng cường sức sống của doanh nghiệp, là khâu trung tâm của việc kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mà mấu chốt của việc chuyển đổi cơ chế kinh doanh của doanh nghiệp là thực hiện đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp trở thành thực thể kinh tế độc lập được tự chủ kinh doanh, tự do lời lỗ. Muốn thế phải có hệ thống thị trường thống nhất, hoàn thiện. Vì việc thực hiện các quyền tự chủ của doanh nghiệp như: quyền quyết sách kinh doanh, quyền tiêu thụ sản phẩm, quyền thu mua vật tư, quyền quyết sách đầu tư, quyền xử trí tài sản, quyền hợp nhất liên doanh, quyền về lao động nhân sự, quyền phân phối thu nhập... không tách rời thị trường các loại hàng hóa bao gồm cả thị trường tư liệu sản xuất và thị trường các yếu tố, bao gồm cả thị trường tiền vốn, kỹ thuật, sức lao động... cùng với việc hoàn thiện và phát triển thị trường tài sản với đầy đủ chức năng. Nếu không có điều kiện thị trường tương ứng, việc thực hiện đầy đủ các quyền tự chủ của doanh nghiệp cũng sẽ biến thành những lời nói suông. Cuối cùng, hệ thống thị trường hoàn thiện là điều kiện tất yếu cho việc thực hiện điều hành vĩ mô của nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bản thân tác động của thị trường và cơ chế thị trường cũng tồn tại những khiếm khuyết như: tính chụp giật, tính mù quáng, tính tự phát, tính lũng đoạn... từ đó dẫn đến sự lãng phí tài nguyên và hoạt động kinh tế không có trật tự. Để khắc phục những khiếm khuyết đó, làm cho hoạt động của chủ thể thị trường phù hợp với mục tiêu chiến lược của phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải tăng cường điều hành vĩ mô. Biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, có cái có thể tác dụng trực tiếp đến các chủ thể kinh tế, nhưng phần lớn thông qua thị trường để hướng dẫn các doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có hệ thống thị trường hoàn thiện. Nếu không có hệ thống thị trường hoàn thiện, các biện pháp quản lý gián tiếp của nhà nước sẽ mất hiệu lực, kết quả là trật tự kinh tế - xã hội bị hỗn loạn. Chỉ có đẩy nhanh việc bồi dưỡng và hoàn thiện hệ thống thị trường, mới có thể kiến lập nổi hệ thống điều hành vĩ mô gián tiếp. Mô thức mục tiêu của công cuộc cải cách thể chế kinh tế của nước ta là kiến lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, từ đó đối với hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa cũng có những yêu cầu mới cao hơn. Trong hệ thống thị trường hoàn hảo, cạnh tranh có thể triển khai đầy đủ, tín hiệu thị trường không thể bị xuyên tạc, tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển của cơ chế thị trường có thể được phát huy đầy đủ. Hệ thống thị trường không hoàn hảo, trong những điều kiện nhất định có thể sẽ "khuyếch đại" những khuyết tật của thị trường. Hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa có mấy đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất, tính hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh là chỉ hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa phải kết cấu hoàn chỉnh, không chỉ bao gồm thị trường hàng hóa, cũng không bao gồm thị trường các yếu tố sản xuất. Chỉ có các loại thị trường được phát triển đầy đủ, các loại hàng hóa và yếu tố sản xuất đều được đưa vào thị trường lưu thông, mới có thể thông qua tác dụng của cơ chế thị trường để thúc đẩy sự lưu động hợp lý và phân phối bố trí tài nguyên tốt nhất, làm cho chúng càng đáp ứng những nhu cầu của sản xuất xã hội tốt hơn. Thứ hai, tính thống nhất. Tính thống nhất là chỉ các loại thị trường ở trong nước là một thể thống nhất, các loại hàng hóa và yếu tố sản xuất tự do lưu động, hợp lý chuyển dịch trong phạm vi toàn quốc, không tồn tại sự chia cắt manh mún và phong toả khu vực. Tính thống nhất là điều kiện quan trọng cho sự cạnh tranh bình đẳng của người lao động và phân phối bố trí tài nguyên được tốt. Thứ ba, tính mở cửa. Tính mở cửa là chỉ thị trường không chỉ mở cửa đối với trong nước, mà còn phải mở cửa với bên ngoài, liên kết thị trường trong nước với thị trường quốc tế. ở trong nước, giao dịch thị trường phải công khai, cạnh tranh phải công bằng, đối với các chủ thể của thị trường phải đối xử như nhau. ở ngoài nước, phải mở rộng cửa, phát huy ưu thế, phấn đấu đứng vững trên thị trường quốc tế. Đa phương hoá, đa dạng hoá hợp tác thị trường, điều đó có lợi cho việc khai thác có hiệu quả các lợi thế cả ở trong nước và quốc tế ở mức lớn nhất, tham gia phân công quốc tế và cạnh tranh quốc tế, phát huy tác dụng của cơ chế thị trường ở phạm vi lớn hơn. Thứ tư, tính cạnh tranh. Tính cạnh tranh được nêu ở đây chủ yếu chỉ đề cập đến năng lực cạnh tranh thị trường của chúng ta phải thích ứng và phải được bảo hộ. Chỉ có thị trường cạnh tranh mới có thể thông qua tín hiệu giá cả để phản ánh tình hình cung cầu hàng hóa và mức độ khan hiếm tương đối của các loại tài nguyên, hướng dẫn quyết sách sản xuất kinh doanh của các chủ thể thị trường, từ đó thúc đẩy việc phân phối bố trí tài nguyên được tốt hơn. Cũng chỉ có thị trường cạnh tranh mới có thể làm cho người sản xuất hàng hóa đứng trước áp lực và có cảm giác nguy cơ về những rủi ro thị trường, từ đó nâng cao tính năng động tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Thứ năm, tính quy phạm. Tính quy phạm còn gọi là tính trật tự, nó yêu cầu phải có hệ thống pháp luật vận hành thị trường hoàn chỉnh, làm cho các hoạt động thị trường đều phải được quy phạm hóa. Hệ thống thị trường quy phạm hóa đòi hỏi giao dịch thị trường và quản lý thị trường phải nhất trí, công bằng, trong sáng, ổn định… Chương II Tình hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian qua 2.1. Vài nét tổng quan Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá hoá đã phát triển đến mức độ đầy đủ, hoàn thiện, toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều phải thông qua thị trường. Như vậy kinh tế thị trường xuất hiện như một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá ra đời thì thị trường cũng xuất hiện, nhưng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá thì thị trường được cũng mở rộng, đồng bộ và phong phú hơn. Khi các quan hệ thị trường đạt ở tầm tương đối hoàn thiện mới làm xuất hiện kinh tế thị trường, do đó kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, tách rời và đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà nó là một giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá. Năm 1906 Lê nin đã coi kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường là hai loại chế độ xã hội cơ bản đối lập nhau. Sau cách mạng tháng 10 Đảng cộng sản Nga đã có lúc có ý định lợi dụng thời kỳ lịch sử đặc biệt – chủ nghiã cộng sản thời chiến để chuẩn bị bước “quá độ trực tiếp”, “xoá bỏ tiền tệ”. Nhưng bắt đầu mùa xuân năm 1921, Đảng cộng sản Nga buộc phải chuyển qua thực hiện chính sách kinh tế mới. Những diễn biến xảy ra trong thực tiễn có những tác động làm cho tư tưởng của Lê Nin có những sự thay đổi lớn. Lê nin chủ trương sử dụng hình thức kinh tế thị trường để thực hiện kế hoạch kinh tế của nhà nước và điều này đã đem lại cho nước Nga những thành tựu kinh tế – xã hội nhất định. Vậy cho nên, không thể đồng nhất sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, mà kinh tế thị trường phát triển trên cơ sở chế độ xã hội nào, đặc biệt là chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất để xác định thể chế kinh tế – xã hội cho sự phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo tinh thần văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, tính tất yếu khách quan của nó trước hết được quy định bởi sự tồn tại của những điều kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta – một nền kinh tế nhiều thành phần với sự hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau do sự tồn tại song song của nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Các chủ thể tồn tại độc lập với nhau, nhưng đều nằm trong một thể thống nhất - đó là hệ thống phân công lao động xã hội, nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và cả đời sống - kinh tế. Quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện được khi có sự trao đổi hàng hoá, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau trước pháp luật. Ngay đối với cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể một mặt tuy dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất những các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ, quyền lựa chọn trong kinh doanh, mặt khác có sự khác nhau về trình độ quản lý, kỹ thuật và hiệu quả kinh doanh do đó còn có sự khác biệt về lợi ích kinh tế. Vì vậy, quan hệ hàng hoá - tiền tệ vẫn là một hình thức tất yếu thuận lợi và hợp lý, đảm bảo công bằng trong mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau và điều đó còn tất yếu đối với việc thực hiện các quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới, của những chủ sở hữu với các quốc gia riêng biệt. Kinh tế hàng hoá là động lực thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, đẩy mạnh chuyên môn hoá sản xuất trên cơ sở đó nâng cao trình độ đội ngũ người lao động, góp phần cải tiến máy móc, thiết bị, tạo điều kiện ứng dụng các kỹ thuật - công nghệ tiên tiến. Hơn nữa thúc đẩy quá trình tích luỹ và tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới phương thức tổ chức – quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống….. Kinh tế hàng hoá thúc đẩy tính năng động của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế để phân bổ và sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Kinh tế hàng hoá có một vai trò to lớn trong việc mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế – văn hoá giữa các địa phương, vùng, miền của quốc gia và các nước, các dân tộc trong khu vực và thế giới, cũng như tham gia phân công lao động quốc tế, phát huy được những lợi thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc phát triển kinh tế hàng hoá là một yêu cầu bức thiết, khách quan – có thể xem đây là con đường cơ bản để đưa kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu so với xu thế phát triển chung của toàn cầu. Đồng thời chúng ta phải thiết lập được một môi trường kinh tế, hành lang pháp lý thuận lợi nhằm hấp dẫn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế – qua đó phát triển kinh tế hàng hoá lên một tầm cao, thúc đẩy thị trường ở các cấp độ khác nhau, đan xen phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, cho nên ngoài những đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường nói chung thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó. Về mục tiêu, phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác triệt để, hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội, đảm bảo xã hội công bằng văn minh, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Về chế độ sở hữu, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển được thực hiện thông qua việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, nhưng về cơ bản vẫn dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Trong đó, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo và nền tảng. Về chế độ quản lý, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân và do Đảng cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với tính tự chủ, năng động và nhạy bén của thị trường. Thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ để nhà nước kế hoạch hoá. Thực hiện cơ chế thị trường để thực hiện kế hoạch hoá một cách tổng thể hơn, phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường. Về chế độ phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt có nhiều hình thức phân phối, nhưng mặt khác cũng có hình thức phân phối theo năng suất lao động với hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đồng thời còn có các hình thức phân phối khác nữa vừa khuyến khích lao động vừa đảm bảo những phúc lợi cơ bản. Về chính sách xã hội, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một mặt khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, tích cực thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo, hạn chế tối thiểu sự phân hoá giữa giàu - nghèo, thành thị – nông thôn. Mặt khác phải chăm lo các chính sách xã hội, tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển kinh tế chứ không phải đến khi kinh tế. Giữ gìn đạo đức và bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng quan hệ giữa con người với con người vì sự văn minh tiến bộ, vì sự ấm no hạnh phúc của mỗi người dân sống trong xã hội - thể chế chính trị đương đại. Trên đây là những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và mô hình phát triển kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở xác định mô hình và thể chế kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay, Đại hội IX đã xác định đường lối, chính sách phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ một cách cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta phát triển thành một nước công nghiệp; Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tận dụng, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để có thể phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh. 2.2. Thành tựu và vấn đề Thành tựu: Qua 15 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đất nước và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu vượt bậc cả về kinh tế – xã hội. Về kinh tế mức tăng trưởng thể hiện ở chỗ: tổng sản phẩm quốc dân (GDP) tăng gấp hai lần sau 10 năm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng hơn trước. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế ở mức không đáng kể nhưng đến năm 2000 đã đạt được 27%. Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu, phải dựa vào nguồn viện trợ nước ngoài là chủ yếu, nay không những đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng mà còn là nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo, ngoài ra còn có nhiều ngành hàng khác như rau quả, nông thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, than, dầu thô… trở thành thế mạnh của chúng ta trong hoạt động xuất nhập khẩu. Kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh. Cơ cấu nền kinh tế có bươc chuyển dịch tích cực. Trong GDP tỷ trọng nông nghiệp từ 37,8% giảm xuống 25%; công nghiệp tăng từ 22,7% lên 34,5%; dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%. Nền kinh tế nhiều thnàh phần trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo, hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước đổi mới và phát triển, hình thành các Tổng công ty lớn trong nhiều lĩnh vực then chốt và ngành mũi nhọn của đất nước. Thể chế quản lý và phân phối được chuyển đổi phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Văn hoá – xã hội có những bước tiến bộ mới, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực, tính năng động trong xã hội và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, các hoạt động văn hóa - thể dục - thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hoá gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có nhiều mặt tích cực và được phát triển lên một tầm cao mới. Đã cơ bản hoàn thành mục tiêu “xoá mù chữ” và phổ cập giáo dục cấp tiểu học trên cả nước, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt, số hộ có mức thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% xuống còn 11%. Tỷ lệ tăng dân số giảm từ 2,31% xuống 1,53%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 65 tuổi lên 68 tuổi. Mỗi năm thêm 1 triệu lao động có việc làm, nhiều công trình nhà ở, bệnh viện, trường học và đường giao thông không ngừng được sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới, phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Người lao động đã đựoc giải phóng khỏi sự ràng buộc của nhiều cơ chế cồng kềnh, bất hợp lý, phát huy quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong việc tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các hoạt động chung của cộng đồng - xã hội. Chính những điều đó đã làm cho đời sống của nhân dân ngày càng ổn định, nâng cao, điều quan trọng hơn là niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta ngày càng được củng cố. Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, bình thường hoá và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế với hầu hết các nước trên thế giới, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 3 lần nhịp độ tăng GDP. Thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và các nguồn tài trợ chính thức nước ngoài. Trong những năm qua những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế – chính trị thế giới và thiên tai đã gây ra những thiệt hại không nhỏ đến nền kinh tế nước ta, những về cơ bản chúng ta đã hạn chế được sự ảnh hưởng, ngăn chặn, khắc phục những khó khăn và đã đạt đựơc những thành tựu quan trọng về kinh tế – xã hội đưa nước ta tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, đến nay thế và lực của chúng ta đã mạnh hơn rất nhiều lần so với những giai đoạn trước - đã làm thay đổi bộ mặt thành thị, nông thôn, củng cố vững chắc độc lập dân tộc, nâng cao uy tín của nứoc ta trên trường quốc tế. Cùng với những thành tựu đã đạt được qua các giai đoạn thực hiện đổi mới, thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội, kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng được củng cố, bổ sung và phát triển - đó là những nhân tố nội lực chủ yếu tạo ra sức mạnh và những thời cơ lớn cho sự phát triển của những thời kỳ tiếp theo. b. Một số vấn đề tồn tại: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được cả trên lĩnh vực kinh tế – xã hội trong thời gian qua, kinh tế thị trường ở nước ta cũng có mặt hạn chế của nó. Do mới ra đời còn chưa phát triển, việc hình thành và phát triển hệ thống thị trường lại đòi hỏi phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều cấp độ khác nhau. Cùng một lúc với việc chúng ta vừa phải chuyển đổi từ nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chúng ta lại phải chuyển đổi nền kinh tế từ phổ biến là tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá, thậm chí nhiều nơi, nhiều chỗ phải tiến thẳng lên kinh tế thị trường; đồng thời với việc chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất nhỏ thủ công thô sơ lên nền sản xuất lớn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở cửa trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng gay gặt hiện nay… Như vậy, về mặt tổng thể mà nói, hệ thống thị trường hoàn chỉnh, thống nhất, mở cửa, cạnh tranh, thích ứng với yêu cầu của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn chưa hình thành. Trong quá trình hình thành, hệ thống thị trường còn tồn tại những khiếm khuyết rõ rệt như: tính không hoàn chỉnh, tính trễ, lạc hậu, tính đóng kín và tính độc quyền phi kinh tế ... là tất yếu khách quan. Biểu hiện cụ thể là: Thứ nhất, hệ thống thị trường què quặt không đầy đủ, cản trở việc vận hành có hiệu quả của kinh tế thị trường. Ví dụ: thị trường sức lao động phát triển không cân đối, các hành vi thị trường như người lao động tự chọn nghề, tự do lưu động... vẫn không đầy đủ, doanh nghiệp không thể kịp thời điều chỉnh số lượng công nhân viên và kết cấu của doanh nghiệp mình theo sự thay đổi điều chỉnh quy mô sản xuất và công nhân có kỹ năng khác nhau, dẫn đến lãng phí khá lớn tài nguyên sức lao động. Thứ hai, mức độ trưởng thành của các loại thị trường sớm muộn không đều, một số thị trường nào đó phát triển quá muộn, cả hệ thống thị trường không có cách nào vận hành cân đối nhịp nhàng. Trong hệ thống thị trường của nước ta, thị trường trưởng thành tương đối hoàn hảo chỉ có thị trường hàng hóa, nhất là thị trường hàng tiêu dùng tương đối hoàn thiện, còn thị trường yếu tố thì có cái đang ở trong quá trình hình thành, như thị trường lưu thông tiền tệ vẫn chưa hình thành một hệ thống thống nhất của cả nước, tiền vốn giữa các khu vực khó có thể lưu thông hòa nhập, tiền vốn khó có thể phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Thị trường lao động còn đang trong giai đoạn phôi thai, thị trường bất động sản đang chờ hoàn thiện. Tình hình đó đã gây trở ngại không ít cho việc vận hành nền kinh tế thị trường, và ảnh hưởng đến việc phát huy toàn bộ công năng của hệ thống. Thứ ba, chủ nghĩa bảo hộ, cục bộ địa phương dẫn đến hiện tượng mang tính khép kín mới, đã gây trở ngại cho việc kiến lập một hệ thống thị trường thống nhất, mở cửa. Do biện pháp phân quyền mang tính hành chính làm cho quyền lực tập trung của nhà nước giao xuống cho các địa phương, việc tăng cường quyền lực phối hợp với khoán ngân sách cho địa phương, hình thành cơ chế bành trướng quyền lực địa phương, giữa các khu vực đóng kín cửa với nhau, tự chia cắt thị trường, từ đó đã kéo dài việc hình thành một thị trường lớn, thống nhất, không có lợi cho sự trưởng thành của hệ thống thị trường chung của cả nền kinh t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28268.doc
Tài liệu liên quan